Tôi
bước vào nhà in báo Con Ong và hỏi luôn cái
người to lớn lù lù đang cầm bút trên giấy.
- Ǵ mà điện thoại nhắn nhe ầm lên thế?
Tam Lang - người to lớn lù lù ấy - bảo tôi hăy
ngồi xuống đă, đợi một vài bạn nữa
đang bận tay chữa bài dưới nhà in lên. Tôi nghĩ
thầm chắc lại hội họp để cắt cử
người đọc điếu văn Vũ Trọng
Phụng ngày mai đây. Ngồi kéo nốt mồi thuốc
đang tàn trong ḷng điếu, tôi nghĩ đến
người vừa nằm xuống và nghĩ luôn đến
cái chết lạnh lẽo của các giống nghệ sĩ
ở đời. Tôi nhớ đến một chiếc lá
vàng vừa rụng khoảng đầu năm nay trên lối
đi vắng vẻ nơi ruột rừng văn An Nam.
Đầu năm nay, Tản Đà mất. Chiếc lá vàng
ấy chưa kịp mục, th́ rừng mùa thu lại hái
thêm một chiếc lá xanh ném xuống đất. Người
ta tiếc thi nhân chưa nguôi th́ giờ người ta lại
được khóc một văn nhân nữa. Cái làng văn
An Nam vốn đă thưa thớt, lại càng quạnh quẽ
muôn phần.
Chợ hôm về chiều tháng chín mùa thu, vào lúc gần tan,
càng gợi cho thêm cái mệt mỏi trong ḷng một thứ
người sống với một chút hoài băo riêng ở
đời.
Tia nắng hanh cuối cùng đă tắt. Gió heo gửi vào
cửa sổ ṭa báo Con Ong một chiếc lá vàng guộn
tṛn mép.
Tam Lang bỏ những bản thảo và giấy má bừa
bộn vào tủ và không vui, không buồn, bảo tôi:
- Tí nữa đi sang sông. Bây giờ đi ăn.
- Au de là du Rhin?
- Phải.
Thế nghĩa là tối nay, nhân một cuộc hội họp
về tin Vũ Trọng Phụng vừa mất, chúng tôi
qua bên kia sông nghe hát ả đào. Thường mỗi khi rủ
nhau qua cầu sông Cái để thức đêm ở xóm
Thượng Cát, chúng tôi đều sẵn có một câu
nói lóng. Au de là du Rhin. Con sông Rhin đây là sông Nhĩ Hà. Và
sau cái bờ sông Rhin này là những căn nhà hát... thứ
nhà hát không sạch sẽ, không sáng sủa. Chúng tôi có cần
ǵ đến căn nhà rộng sáng, đến con hát đẹp
và hay. Chúng tôi tối nay chỉ cần một nơi để
họp nhau cho trọn đêm để sớm tinh mơ
ngày mai, lại cả đoàn kéo nhau qua cầu chạy theo
một cái xe đám ma người bạn chết non. Thấy
người cùng tuổi cùng nghề phải chết một
cách sớm sủa mau mắn như thế, chúng tôi thấy
đời là ngắn lắm và chúng tôi càng phải gần
sát măi nhau lại, cho nó đỡ lạnh. Hạng người
cầm bút trong xứ không nhiều nhơi ǵ, mỗi khi có một
người ngă v́ bệnh nạn, chúng tôi càng phải dồn
nhau lại để hàng ngũ đỡ trống trải.
Cái giây phút này, ta thương buồn cho người vừa
chết, ta thương buồn cả cho ta. Hỡi những
người chỉ sống cho luân lư, sống bằng luân
lư, tôi không khi nào van xin các người đừng cười
chê chúng tôi sao lại dám khiêu vũ chung quanh một chiếc
quan tài chưa gắn kín sáu con cá. Có lẽ cũng chỉ
v́ những tiếng chầy đang nện cá nặng nề
trên quan tài kia đă dội nhiều vào ḷng bọn người
sống một cách hốt hoảng, vô thường định
với cái cô quạnh của tinh thần như bọn
tôi, nên chúng tôi đă rủ nhau đêm nay sang sông mà uống
rượu cho say, mà nghe than hát cũng cho đến say,
và điên cuồng mà nhảy đầm quanh một cái xác
chết. Có như là gần thời chiến tranh, lúc này
người ta lấy tốc lực ra mà sống cuộc
đời ḿnh. Biết đâu ngày mai chẳng là không c̣n ǵ
nữa. Nếu lúc này gọi được hồn Vũ
Trọng Phụng lên mà hỏi câu này, chắc anh lia lịa
gật đầu.
Người bạn tội nghiệp của
chúng tôi chết. Ngày hôm sau, đưa đám buổi sớm.
Nhận cái tin buồn ấy - chúng tôi hát và hút thuốc phiện.
Đă buồn chưa? Tôi muốn
hỏi tất cả những người bạn tha thiết
với Phụng, những người sống với phụng
sự nghệ thuật bằng một chuỗi ngày ch́m
ch́m tẻ tẻ, xem những ai là người chịu ngủ
cái đêm ấy ở nhà ḿnh?
Đêm ấy, bên kia sông, nhà hát lạnh như nhà mồ. Bọn
ca nhi trông người nào cũng cao lênh khênh. Sự nghèo
đói làm cho người họ dài hẳn ra. Ngọn
đèn dầu lạc chỉ là một ngọn đèn thờ.
Người kép khẳng khiu như một cây khô, cũng
chỉ đủ là nhạc công một phường bát âm
cho nổi lên một bản ḥa nhạc chết khi người
ta dâng cơm cúng. Chúng tôi cười một cách điên dại
như đám thủy thủ một con tàu ngầm gặp
nạn, tàu cắm vào rốn bể cả.
Chúng ta thường nhớ thằng Phụng nhiều nhất
là giữa giờ này. Hỡi ôi!
Một người nói. Một người hút. Một
người không làm ǵ cả. Hai người úp mặt vào
tường, cười và thở dài với cái bóng in trên
tường đầy máu rệp và xác muỗi khô. Tôi
đánh trống, găy hai chiếc roi chầu. Cố đánh
cho tử tế, mà tôi nhận thấy tiếng trống của
tôi chỉ là tiếng trống bản. Và tiếng phách của
Tỳ bà tử là những tiếng sênh chấp hiệu
cho một cỗ đ̣n đám khởi hành xuống huyệt.
Cũng phong phanh như đám ca nhi, chúng tôi cảm thấy
đêm thu cứ thấm dần qua lần vải mỏng
sơ mi và đi măi vào ḷng. Những manh sơ mi này phải
nương nhẹ, giữ sao cho vẹn màu hồ, để
ngày mai đưa Phụng nó lên đường. “Chúng ta
nên đẹp, quanh cái chết một người thân”.
Đêm lạnh lắm. Nhà hát nghèo, không có chăn. Chúng tôi
hút thuốc lá nhiều như bọn lính Tây cho nó
được ấm bụng. Và nằm dịch măi vào
nhau. Một người kêu không khéo mai về ốm mất.
Khói thuốc - ba thứ thuốc, thuốc phiện, thuốc
lào, thuốc lá - đă có vị chát và ngửi nhiều quá,
thấy lạc cả mùi ngày thường.
Bây giờ, giữa cái thấm thía của đêm nhà hát,
chúng tôi mới bắt đầu nói đến Vũ Trọng
Phụng. Mỗi lúc nói đến chuyện bạn lại
phải kèm thêm những câu: lúc sinh b́nh, hồi c̣n mồ ma
hắn.
- Nhiều người c̣n sống sờ sờ kia, oán thằng
Phụng lắm. Chúng nh́n thấy h́nh ảnh chúng ở Nghị
Hách, Xuân Tóc Đỏ v.v...
- Thằng Phụng mà đánh đàn nguyệt hay th́ có giết
người không? Ừ, nó đàn có những tiếng nắn
dễ thương và lẳng lơ lạ.
- Lại c̣n cái chướng nữa là hắn thích làm
thơ. Các anh thử tưởng tượng xem cái phản
động lực văn chương của quần
chúng độc giả sành xem nó ra sao, khi họ đọc
thơ Vũ Trọng Phụng?
Chúng tôi cười rộ, và tiếp:
- Thế nghĩa là cụ Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng viết
truyện ngắn đấy.
- Và cụ Phan Bội Châu nhận lời giữ mục
phê b́nh “Màn ảnh và sân khấu” cho một tuần báo
văn nghệ.
Chúng tôi lại cười ồ.
- Thằng Phụng, về đức tính có điểm
này khá nhất là nhận thầu tờ báo nào là không hay quỵt
tiền anh em viết giúp. Trong bọn cầm bút có những
thằng đứng lên nhận “đẩy” sách và bán bài
giúp cho bạn, rồi ăn cả tiền nhuận bút
không chia cho bạn một đồng xu nhỏ, kể ra
Phụng là một người đáng được nêu
lên làm khuôn mẫu.
- Về tiền nong, Phụng phân minh về chỗ tài
tượng lắm, nhưng nhiều khi hắn cẩn thận
như một người công chức. Về xă giao, hắn
quan tâm nhất về chỗ kẻ cười người
khóc. Ai phúng nhà ḿnh một ngh́n vàng, một thẻ
hương, ai mừng một chai rượu hắn
đều có biên cả. Để rồi chờ đợi
mà điếu lại, mà mừng lại. Có ai quen Phụng,
dầu là sơ sơ, mà ốm, là Phụng là người
đầu tiên vào cửa nhà thương để
thăm hỏi.
- Thế là hắn tốt chớ sao? Nhiều người
đọc sách của Vũ Trọng Phụng lầm nhiều
về cái người ở Phụng. Họ đều
cho Phụng là nham hiểm, là cơ tâm, là tâm điền xấu.
Để sinh ra ngộ điểm ấy, cái lỗi của
Phụng là đă đem những cái thối mọt, cặn
bă nhân tâm vào trong tác phẩm ḿnh đến đầy rẫy.
- Riêng ǵ Phụng, có chán vạn nghệ sĩ khác, từ
trước tới đây, bị hiểu nhầm như
thế.
- Những anh nào ở đây đi lại với Phụng
nhiều nhất nhỉ? Bà cụ đẻ anh Phụng,
đáng quí lạ. Thật là một bà mẹ chí từ. Hai
mẹ con, một người chí từ, một người
chí hiếu. Cái hồi Phụng ốm lại về dạo
sau này, Phụng nằm măi, buồn tay muốn ngồi dậy
viết, bà cụ ngăn nhiều lắm. Rồi cứ
thế mà ngồi quạt cho con cả đêm.
- Phụng chết trẻ. Cái đáng tiếc nhất trong
đời người bạn chúng ta là Phụng thiết
thực quá. Đời Phụng chưa có một cái mộng
nào để mà ôm, chưa mơ màng đến một cái
ǵ để thỉnh thoảng ĺa khỏi cái tẹp nhẹp
mè nheo ở đời này. Trong đời Phụng, Phụng
cử động theo suy nghĩ nhiều quá. Chưa có một
giây phút nào, hắn dám điên cuồng lấy một tị.
Tôi nằm tiêm thuốc bên khay đèn, tôi đă đánh cháy
điếu thuốc... Tôi nhớ đến cái chuyện
tôi mua một bức tranh lụa bày ở pḥng triển lăm
mùa đông năm ngoái. Hồi ấy thấy tôi rước
một bức thủy họa về, để đến
nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đă dồn về
từ lâu, Phụng t́m đến tôi, ngắm bức họa
với sự chế nhạo và “chửi” tôi là một thằng
điên và nói: “Tao không bao giờ lại có thể điên
như thế”. Tôi lặng thinh. Từ đấy về
sau, không bao giờ tôi thuật lại cho Phụng biết
những cái phút điên khác của tôi nữa.
Bạn tôi, sống ở đời, thực là một
người thích sự phải chăng quá. Phải
chăng khi đụng chạm với người khác, phải
chăng trong cái mặc, trong cái ăn. Nói đến cái
ăn tôi lại thêm buồn cười. Từ khi đánh
bạn với Phụng, tôi biết Phụng chưa hề
“mạo hiểm” ăn một thực phẩm lạ bao
giờ. Chỉ hết phở sào rồi lại áp chảo
và quanh quẩn chỉ đậu rán, bún chả, bún bung. Có
lẽ có một số tiền vài trăm dắt túi chẳng
hạn, cũng chỉ đ̣i ăn có thế và buộc bằng
hữu ăn như thế. Nói đến ăn uống,
tôi lại nhớ thêm đến một buổi họp có
cả Phụng, có cả Tản Đà. Thấy có ông Tản
Đà, Phụng thành tâm đi mua hai gói kẹo lạc vani
đưa về tiệm hút, cố mời người
thi sĩ già.
- Mời cụ xơi kẹo lạc.
- Ông bảo cái ǵ?
- Dạ, kẹo lạc vani. Ṛn và thơm lắm.
- Kẹo lạc! Ăn ra cái quái ǵ?
Buổi ấy, nhà thơ có tuổi đă làm tiêu hết
chút ít cảm t́nh của Vũ Trọng Phụng. Ngày
thường, Phụng, với cái tính cách thiết thực
của một người phóng sự đă không chịu
được Tản Đà kềnh càng rồi... Hai
người ấy giờ đă là ma, cùng thở hơi cuối
cùng ở một xóm Cầu Mới, nhà số 71 và 73, cũng
yên nghỉ ở một nghĩa trang. Chắc ở dưới
ấy, giờ gặp nhau, hai người tránh sao
được nhiều cái lủng củng, nếu hai hồn
ma không chịu nghĩ đến cái tàn lạnh cuộc
đời chung của tài hoa mà chịu đựng lấy
nhau!
Trong cái sống phải chăng của Phụng, có một
cái phải chăng này đáng cảm động hơn hết.
Là những thứ văn pḥng tứ bảo. Mực anh
dùng viết là một thứ mực tím ít khi tươi
màu, phần nhiều là loăng và luôn luôn là nhạt, là chết.
Giấy anh dùng là thứ giấy sáu xu một thếp
đă kẻ sẵn. Đấy là thứ giấy của
vô danh với cái khuôn khổ của tất cả mọi
người. Ng̣i bút Phụng thích dùng nhất là cái thứ
ng̣i Incom parable, xu ba ng̣i. Giấy, bút mực ấy là giấy,
bút mực của học tṛ. Thật là b́nh dị quá. Thế
mà lời văn dùng cái bút ấy mà kư thác lên giấy ấy
lại chẳng xoàng xĩnh chút nào. Những người
cầu kỳ về văn pḥng tứ bảo như chúng
ta, nghĩ tới cái tiểu thuyết này trong đời
văn sĩ của Phụng, há chẳng nên lấy làm nghĩ
ngợi? Phụng c̣n phải chăng cả đến những
cái thèm muốn về tương lai. “Tao chỉ mong sao mỗi
khi chúng mày đàn đúm kéo nhau về chơi tao, th́ có
được măi măi một mâm cơm cho tươm tất
và cái khay đèn không phải thiếu thuốc”. Đấy
là câu Phụng nói vào một buổi chiều tết Trung
thu năm nay, khi c̣n ở phố Hàng Bạc và trước
hôm dọn về Cầu Mới được hai ngày. Dạo
ấy, Phụng v́ thấy bệnh đă phá phổi ḿnh rơ
ràng quá, theo lời thầy thuốc, đă phải rước
tĩnh về bầy ở nhà. Nếu quả một
người trẻ tuổi mà vướng nghiện a phiến
là có lỗi với danh giáo th́ Phụng đă bằng ḷng,
chịu xấu với dư luận để cố mà
lùi lại kỳ hạn của ngày lên đường.
Lên đường về xứ Chết. Phong, lao, cổ,
lại, tứ chứng nan y! Vả chăng ông bạn
đầu xứ Ngô Tất Tố cũng đă nói riêng với
tôi rằng chả chắc Phụng có qua được
mùa rét năm nay không. Mùa lạnh chưa tới. Mới là
có tiết thu thôi mà lá xanh đă ĺa ngàn, một cái ngàn
văn mà cây cối c̣n thiếu những cổ thụ um
tùm rắn rỏi.
Tôi đă lấy làm bằng ḷng tôi vào những ngày cuối
cùng của Phụng, tôi đă phóng túng h́nh hài với con bệnh
lao chờ lúc lên đường ấy mà ăn, mà uống,
mà hút với Phụng cứ hàng nửa ngày. Phụng
cười, chừng muốn hỏi: “Một người
thèm sống, sợ già, tránh chết như mày mà cũng dám
coi thường vi trùng lao của tao thả ra sao?”. Những
buổi ấy, tôi không cần giữ ǵn v́ tôi tin rằng
làm như thế, sẽ tủi ḷng người bạn
thân mà ngày giờ đă bị đếm trước. Vả
chăng, trong người tôi ngẫm cũng đă nhiều
vi trùng lắm rồi. Có thêm một ít của Phụng nữa
cũng không sao.
Nhân Phụng vừa nằm xuống, tôi lại t́m trong
đầu xem trong bọn nhà văn trẻ, những
người nào là cầm lỏng được cái chết.
Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Đoàn
Phú Tứ, Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, đều
là những người đủ tư cách để sớm
lên đường lắm. Ngực người nào cũng
lép như cái đồng hồ Oméga trông nghiêng. Những
người trẻ trung này có nằm xuống cũng
đều nhẹ nhơm lắm đấy. Tôi không độc
mồm nguyền rủa ai. Trái lại. Và buồn
thương lắm.
Ngẫm đến cái mỏng manh về thể chất của
người đồng điệu, tôi đă tự hào
khoe với mấy bạn nằm trong nhà hát rằng tạng
tôi vững vàng và cứ cái thể chất chắc chắn
này th́ cứ tha hồ mà lấy đêm làm ngày, cũng c̣n
lâu tôi mới chịu ṃn. Một anh bạn đă làm vỡ
điều tin tưởng ấy của tôi bằng một
cái thí dụ lấy ở Đinh Huy Hạo, một
người cầm bút có luôn cả sức khỏe và sức
mạnh đă từng viết cuốn Ṇi giống tốt.
- Trong bọn ta, đứa nào khỏe bạo bằng tên
Đinh Huy Hạo. Vậy mà cũng chỉ một sớm
một chiều thôi.
Tôi buồn rầu, thiếp dần. Thế rồi, trong
gian nhà hát đă về sáng, như ngọn đèn bốc mạnh
lúc gần tắt, cả bọn chúng tôi mệt mỏi lại
nhỏm cả dậy để nói chuyện thương
tâm. Thuốc đă làm chúng tôi vỡ giọng và tiếng
nói ồ ồ.
- Phụng chết nhiều người thương tiếc
hơn là Tản Đà. Một người chết trẻ
bao giờ cũng lấy được nhiều nước
mắt hơn là người chết đứng tuổi.
- Thằng Phụng c̣n hứa hẹn cho văn học nhiều
tác phẩm lắm. Sao trong làng văn những người
như thế đă chết mà lắm thằng bất tài
khác th́ lại cứ sống măi để anh em phải sốt
cả ruột?
- Tôi cho rằng nghệ sĩ nên chết trẻ, nếu
ḿnh có quyền chọn tuổi chết. Tài sắc con
người ta ở đời, ai cũng chỉ có một
thời thôi. Con tằm nhả được tơ óng măi
hay sao? Sống lấy lâu nhiều khi cũng hớ. Nó chỉ
tỏ ra rằng ḿnh có cái da thịt cứng quá, trùng khó
đục thủng mà thôi. Ai mà chịu được một
nàng Tây Thi tóc bạc da mồi. Một người tướng
tài mà không chịu hết tắt với dặm ngh́n da ngựa
mà lại chết già trong giường vợ, th́ c̣n ǵ dại
dột hơn nữa.
Chúng tôi thức cả đêm bàn tán về chuyện nên sớm
nghĩ đến việc Hội Ái hữu nhà văn. Vào
khoảng năm giờ sớm ngày chủ nhật 15/10, bọn
tôi lại từ Thượng Cát kéo bộ về Hà Nội.
Trời thu thả sương sớm tợ như vào một
buổi thả lưới bắt chim ṃng, chim két. Qua chín
nhịp cầu Bồ Đề trên con sông lạnh, bụng
chúng tôi cồn cào hết sức.
- Đám đi sớm quá nhỉ? 7 giờ đă cất.
Đi lại hết cầu, về đến bờ bên
kia sông ít ra cũng hết 45 phút. Lại c̣n kéo ra đến
ga tàu điện Bờ Hồ. Và từ đấy vào Cầu
Mới. Thế mà cũng vừa thời giờ thôi đấy.
Nhanh bước lên! Các anh.
- Phải t́m cái hàng cháo nào mà ăn chứ không có lạnh bụng
lắm.
- Ừ phải đấy, chỉ giữ lại đủ
sáu xuất vé tàu điện thôi, c̣n th́ chén hết. C̣n
được đồng bạc không?
Trời chưa hửng hết cái phố Hàng Bè. Chúng tôi sà
vào một hiệu cháo ḷng vắng vẻ. Tiết canh, dồi
mỡ, ḷng chay. Và cháo khói. Ś sụp húp với nhau như một
lũ con đàn một gia đ́nh kẻ khó ăn cháo canh bồi
thay đồ ăn chắc, tôi vốn giàu tưởng
tượng, tôi nghĩ đến một cuộc tụ
họp của các bạn phóng viên báo hàng ngày, một buổi
sớm tinh sương mùa lạnh ở một quán cơm
Cửa Nam rồi đi xem hành h́nh ở cửa Hỏa Ḷ
vào khoảng những năm 1930-1931. Chưa bao giờ tôi
thấy một bữa điểm tâm cảm động
như sớm nay. Sớm nay húp quanh lợi bát cháo nóng
như người phải trả nợ dần, tôi
tưởng đến người chết mà bùi ngùi, tôi
nghĩ đến người c̣n sống mà lại thêm
thương tủi.
Thế mà đám đă khởi hành được mấy
phút.
Tôi vốn có một tập phóng sự về tiêm hút. Chính
Phụng đă xui gợi tôi viết thiên Tàn đèn dầu
lạc vào một tờ tuần báo và lúc góp những
bài đăng ấy để đưa xuất bản
thành sách, ở trang đầu, đề lời tặng,
tôi viết: “Những tập phóng sự này, biết nên tặng
ai?” ngụ một cái ư đùa diễu cả ḿnh và luôn cả
những người bạn thân có duyên nợ với Ả
Phiền nghiệp chướng.
Theo xe tang, tưởng đến người bạn khuất,
tôi đă đổi lời tặng trào lộng đó thành
một lời tặng hoài niệm: “Kính, Thành, Tiếc, tặng
vong hồn Vũ Trọng Phụng”.
Tao Đàn, số đặc biệt về
Vũ Trọng Phụng, 1939
|