Loạt bài kỷ niệm 65 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng (13/10/1939 - 13/10/2004)

 

Nguyễn Tuân: Một đêm họp đưa ma Phụng

Nguyễn Tuân

 

Tôi bước vào nhà in báo Con Ong và hỏi luôn cái người to lớn lù lù đang cầm bút trên giấy.

- Ǵ mà điện thoại nhắn nhe ầm lên thế?

Tam Lang - người to lớn lù lù ấy - bảo tôi hăy ngồi xuống đă, đợi một vài bạn nữa đang bận tay chữa bài dưới nhà in lên. Tôi nghĩ thầm chắc lại hội họp để cắt cử người đọc điếu văn Vũ Trọng Phụng ngày mai đây. Ngồi kéo nốt mồi thuốc đang tàn trong ḷng điếu, tôi nghĩ đến người vừa nằm xuống và nghĩ luôn đến cái chết lạnh lẽo của các giống nghệ sĩ ở đời. Tôi nhớ đến một chiếc lá vàng vừa rụng khoảng đầu năm nay trên lối đi vắng vẻ nơi ruột rừng văn An Nam. Đầu năm nay, Tản Đà mất. Chiếc lá vàng ấy chưa kịp mục, th́ rừng mùa thu lại hái thêm một chiếc lá xanh ném xuống đất. Người ta tiếc thi nhân chưa nguôi th́ giờ người ta lại được khóc một văn nhân nữa. Cái làng văn An Nam vốn đă thưa thớt, lại càng quạnh quẽ muôn phần.

Chợ hôm về chiều tháng chín mùa thu, vào lúc gần tan, càng gợi cho thêm cái mệt mỏi trong ḷng một thứ người sống với một chút hoài băo riêng ở đời.

Tia nắng hanh cuối cùng đă tắt. Gió heo gửi vào cửa sổ ṭa báo Con Ong một chiếc lá vàng guộn tṛn mép.

Tam Lang bỏ những bản thảo và giấy má bừa bộn vào tủ và không vui, không buồn, bảo tôi:

- Tí nữa đi sang sông. Bây giờ đi ăn.

- Au de là du Rhin?

- Phải.

Thế nghĩa là tối nay, nhân một cuộc hội họp về tin Vũ Trọng Phụng vừa mất, chúng tôi qua bên kia sông nghe hát ả đào. Thường mỗi khi rủ nhau qua cầu sông Cái để thức đêm ở xóm Thượng Cát, chúng tôi đều sẵn có một câu nói lóng. Au de là du Rhin. Con sông Rhin đây là sông Nhĩ Hà. Và sau cái bờ sông Rhin này là những căn nhà hát... thứ nhà hát không sạch sẽ, không sáng sủa. Chúng tôi có cần ǵ đến căn nhà rộng sáng, đến con hát đẹp và hay. Chúng tôi tối nay chỉ cần một nơi để họp nhau cho trọn đêm để sớm tinh mơ ngày mai, lại cả đoàn kéo nhau qua cầu chạy theo một cái xe đám ma người bạn chết non. Thấy người cùng tuổi cùng nghề phải chết một cách sớm sủa mau mắn như thế, chúng tôi thấy đời là ngắn lắm và chúng tôi càng phải gần sát măi nhau lại, cho nó đỡ lạnh. Hạng người cầm bút trong xứ không nhiều nhơi ǵ, mỗi khi có một người ngă v́ bệnh nạn, chúng tôi càng phải dồn nhau lại để hàng ngũ đỡ trống trải. Cái giây phút này, ta thương buồn cho người vừa chết, ta thương buồn cả cho ta. Hỡi những người chỉ sống cho luân lư, sống bằng luân lư, tôi không khi nào van xin các người đừng cười chê chúng tôi sao lại dám khiêu vũ chung quanh một chiếc quan tài chưa gắn kín sáu con cá. Có lẽ cũng chỉ v́ những tiếng chầy đang nện cá nặng nề trên quan tài kia đă dội nhiều vào ḷng bọn người sống một cách hốt hoảng, vô thường định với cái cô quạnh của tinh thần như bọn tôi, nên chúng tôi đă rủ nhau đêm nay sang sông mà uống rượu cho say, mà nghe than hát cũng cho đến say, và điên cuồng mà nhảy đầm quanh một cái xác chết. Có như là gần thời chiến tranh, lúc này người ta lấy tốc lực ra mà sống cuộc đời ḿnh. Biết đâu ngày mai chẳng là không c̣n ǵ nữa. Nếu lúc này gọi được hồn Vũ Trọng Phụng lên mà hỏi câu này, chắc anh lia lịa gật đầu.

Người bạn tội nghiệp của chúng tôi chết. Ngày hôm sau, đưa đám buổi sớm. Nhận cái tin buồn ấy - chúng tôi hát và hút thuốc phiện. Đă buồn chưa? Tôi muốn hỏi tất cả những người bạn tha thiết với Phụng, những người sống với phụng sự nghệ thuật bằng một chuỗi ngày ch́m ch́m tẻ tẻ, xem những ai là người chịu ngủ cái đêm ấy ở nhà ḿnh?

Đêm ấy, bên kia sông, nhà hát lạnh như nhà mồ. Bọn ca nhi trông người nào cũng cao lênh khênh. Sự nghèo đói làm cho người họ dài hẳn ra. Ngọn đèn dầu lạc chỉ là một ngọn đèn thờ. Người kép khẳng khiu như một cây khô, cũng chỉ đủ là nhạc công một phường bát âm cho nổi lên một bản ḥa nhạc chết khi người ta dâng cơm cúng. Chúng tôi cười một cách điên dại như đám thủy thủ một con tàu ngầm gặp nạn, tàu cắm vào rốn bể cả.

Chúng ta thường nhớ thằng Phụng nhiều nhất là giữa giờ này. Hỡi ôi!

Một người nói. Một người hút. Một người không làm ǵ cả. Hai người úp mặt vào tường, cười và thở dài với cái bóng in trên tường đầy máu rệp và xác muỗi khô. Tôi đánh trống, găy hai chiếc roi chầu. Cố đánh cho tử tế, mà tôi nhận thấy tiếng trống của tôi chỉ là tiếng trống bản. Và tiếng phách của Tỳ bà tử là những tiếng sênh chấp hiệu cho một cỗ đ̣n đám khởi hành xuống huyệt. Cũng phong phanh như đám ca nhi, chúng tôi cảm thấy đêm thu cứ thấm dần qua lần vải mỏng sơ mi và đi măi vào ḷng. Những manh sơ mi này phải nương nhẹ, giữ sao cho vẹn màu hồ, để ngày mai đưa Phụng nó lên đường. “Chúng ta nên đẹp, quanh cái chết một người thân”.
Đêm lạnh lắm. Nhà hát nghèo, không có chăn. Chúng tôi hút thuốc lá nhiều như bọn lính Tây cho nó được ấm bụng. Và nằm dịch măi vào nhau. Một người kêu không khéo mai về ốm mất. Khói thuốc - ba thứ thuốc, thuốc phiện, thuốc lào, thuốc lá - đă có vị chát và ngửi nhiều quá, thấy lạc cả mùi ngày thường.

Bây giờ, giữa cái thấm thía của đêm nhà hát, chúng tôi mới bắt đầu nói đến Vũ Trọng Phụng. Mỗi lúc nói đến chuyện bạn lại phải kèm thêm những câu: lúc sinh b́nh, hồi c̣n mồ ma hắn.

- Nhiều người c̣n sống sờ sờ kia, oán thằng Phụng lắm. Chúng nh́n thấy h́nh ảnh chúng ở Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ v.v...

- Thằng Phụng mà đánh đàn nguyệt hay th́ có giết người không? Ừ, nó đàn có những tiếng nắn dễ thương và lẳng lơ lạ.

- Lại c̣n cái chướng nữa là hắn thích làm thơ. Các anh thử tưởng tượng xem cái phản động lực văn chương của quần chúng độc giả sành xem nó ra sao, khi họ đọc thơ Vũ Trọng Phụng?

Chúng tôi cười rộ, và tiếp:

- Thế nghĩa là cụ Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng viết truyện ngắn đấy.

- Và cụ Phan Bội Châu nhận lời giữ mục phê b́nh “Màn ảnh và sân khấu” cho một tuần báo văn nghệ.

Chúng tôi lại cười ồ.

- Thằng Phụng, về đức tính có điểm này khá nhất là nhận thầu tờ báo nào là không hay quỵt tiền anh em viết giúp. Trong bọn cầm bút có những thằng đứng lên nhận “đẩy” sách và bán bài giúp cho bạn, rồi ăn cả tiền nhuận bút không chia cho bạn một đồng xu nhỏ, kể ra Phụng là một người đáng được nêu lên làm khuôn mẫu.

- Về tiền nong, Phụng phân minh về chỗ tài tượng lắm, nhưng nhiều khi hắn cẩn thận như một người công chức. Về xă giao, hắn quan tâm nhất về chỗ kẻ cười người khóc. Ai phúng nhà ḿnh một ngh́n vàng, một thẻ hương, ai mừng một chai rượu hắn đều có biên cả. Để rồi chờ đợi mà điếu lại, mà mừng lại. Có ai quen Phụng, dầu là sơ sơ, mà ốm, là Phụng là người đầu tiên vào cửa nhà thương để thăm hỏi.

- Thế là hắn tốt chớ sao? Nhiều người đọc sách của Vũ Trọng Phụng lầm nhiều về cái người ở Phụng. Họ đều cho Phụng là nham hiểm, là cơ tâm, là tâm điền xấu. Để sinh ra ngộ điểm ấy, cái lỗi của Phụng là đă đem những cái thối mọt, cặn bă nhân tâm vào trong tác phẩm ḿnh đến đầy rẫy.

- Riêng ǵ Phụng, có chán vạn nghệ sĩ khác, từ trước tới đây, bị hiểu nhầm như thế.

- Những anh nào ở đây đi lại với Phụng nhiều nhất nhỉ? Bà cụ đẻ anh Phụng, đáng quí lạ. Thật là một bà mẹ chí từ. Hai mẹ con, một người chí từ, một người chí hiếu. Cái hồi Phụng ốm lại về dạo sau này, Phụng nằm măi, buồn tay muốn ngồi dậy viết, bà cụ ngăn nhiều lắm. Rồi cứ thế mà ngồi quạt cho con cả đêm.

- Phụng chết trẻ. Cái đáng tiếc nhất trong đời người bạn chúng ta là Phụng thiết thực quá. Đời Phụng chưa có một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng đến một cái ǵ để thỉnh thoảng ĺa khỏi cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong đời Phụng, Phụng cử động theo suy nghĩ nhiều quá. Chưa có một giây phút nào, hắn dám điên cuồng lấy một tị.

Tôi nằm tiêm thuốc bên khay đèn, tôi đă đánh cháy điếu thuốc... Tôi nhớ đến cái chuyện tôi mua một bức tranh lụa bày ở pḥng triển lăm mùa đông năm ngoái. Hồi ấy thấy tôi rước một bức thủy họa về, để đến nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đă dồn về từ lâu, Phụng t́m đến tôi, ngắm bức họa với sự chế nhạo và “chửi” tôi là một thằng điên và nói: “Tao không bao giờ lại có thể điên như thế”. Tôi lặng thinh. Từ đấy về sau, không bao giờ tôi thuật lại cho Phụng biết những cái phút điên khác của tôi nữa.

Bạn tôi, sống ở đời, thực là một người thích sự phải chăng quá. Phải chăng khi đụng chạm với người khác, phải chăng trong cái mặc, trong cái ăn. Nói đến cái ăn tôi lại thêm buồn cười. Từ khi đánh bạn với Phụng, tôi biết Phụng chưa hề “mạo hiểm” ăn một thực phẩm lạ bao giờ. Chỉ hết phở sào rồi lại áp chảo và quanh quẩn chỉ đậu rán, bún chả, bún bung. Có lẽ có một số tiền vài trăm dắt túi chẳng hạn, cũng chỉ đ̣i ăn có thế và buộc bằng hữu ăn như thế. Nói đến ăn uống, tôi lại nhớ thêm đến một buổi họp có cả Phụng, có cả Tản Đà. Thấy có ông Tản Đà, Phụng thành tâm đi mua hai gói kẹo lạc vani đưa về tiệm hút, cố mời người thi sĩ già.

- Mời cụ xơi kẹo lạc.

- Ông bảo cái ǵ?

- Dạ, kẹo lạc vani. Ṛn và thơm lắm.

- Kẹo lạc! Ăn ra cái quái ǵ?

Buổi ấy, nhà thơ có tuổi đă làm tiêu hết chút ít cảm t́nh của Vũ Trọng Phụng. Ngày thường, Phụng, với cái tính cách thiết thực của một người phóng sự đă không chịu được Tản Đà kềnh càng rồi... Hai người ấy giờ đă là ma, cùng thở hơi cuối cùng ở một xóm Cầu Mới, nhà số 71 và 73, cũng yên nghỉ ở một nghĩa trang. Chắc ở dưới ấy, giờ gặp nhau, hai người tránh sao được nhiều cái lủng củng, nếu hai hồn ma không chịu nghĩ đến cái tàn lạnh cuộc đời chung của tài hoa mà chịu đựng lấy nhau!
Trong cái sống phải chăng của Phụng, có một cái phải chăng này đáng cảm động hơn hết. Là những thứ văn pḥng tứ bảo. Mực anh dùng viết là một thứ mực tím ít khi tươi màu, phần nhiều là loăng và luôn luôn là nhạt, là chết. Giấy anh dùng là thứ giấy sáu xu một thếp đă kẻ sẵn. Đấy là thứ giấy của vô danh với cái khuôn khổ của tất cả mọi người. Ng̣i bút Phụng thích dùng nhất là cái thứ ng̣i Incom parable, xu ba ng̣i. Giấy, bút mực ấy là giấy, bút mực của học tṛ. Thật là b́nh dị quá. Thế mà lời văn dùng cái bút ấy mà kư thác lên giấy ấy lại chẳng xoàng xĩnh chút nào. Những người cầu kỳ về văn pḥng tứ bảo như chúng ta, nghĩ tới cái tiểu thuyết này trong đời văn sĩ của Phụng, há chẳng nên lấy làm nghĩ ngợi? Phụng c̣n phải chăng cả đến những cái thèm muốn về tương lai. “Tao chỉ mong sao mỗi khi chúng mày đàn đúm kéo nhau về chơi tao, th́ có được măi măi một mâm cơm cho tươm tất và cái khay đèn không phải thiếu thuốc”. Đấy là câu Phụng nói vào một buổi chiều tết Trung thu năm nay, khi c̣n ở phố Hàng Bạc và trước hôm dọn về Cầu Mới được hai ngày. Dạo ấy, Phụng v́ thấy bệnh đă phá phổi ḿnh rơ ràng quá, theo lời thầy thuốc, đă phải rước tĩnh về bầy ở nhà. Nếu quả một người trẻ tuổi mà vướng nghiện a phiến là có lỗi với danh giáo th́ Phụng đă bằng ḷng, chịu xấu với dư luận để cố mà lùi lại kỳ hạn của ngày lên đường. Lên đường về xứ Chết. Phong, lao, cổ, lại, tứ chứng nan y! Vả chăng ông bạn đầu xứ Ngô Tất Tố cũng đă nói riêng với tôi rằng chả chắc Phụng có qua được mùa rét năm nay không. Mùa lạnh chưa tới. Mới là có tiết thu thôi mà lá xanh đă ĺa ngàn, một cái ngàn văn mà cây cối c̣n thiếu những cổ thụ um tùm rắn rỏi.

Tôi đă lấy làm bằng ḷng tôi vào những ngày cuối cùng của Phụng, tôi đă phóng túng h́nh hài với con bệnh lao chờ lúc lên đường ấy mà ăn, mà uống, mà hút với Phụng cứ hàng nửa ngày. Phụng cười, chừng muốn hỏi: “Một người thèm sống, sợ già, tránh chết như mày mà cũng dám coi thường vi trùng lao của tao thả ra sao?”. Những buổi ấy, tôi không cần giữ ǵn v́ tôi tin rằng làm như thế, sẽ tủi ḷng người bạn thân mà ngày giờ đă bị đếm trước. Vả chăng, trong người tôi ngẫm cũng đă nhiều vi trùng lắm rồi. Có thêm một ít của Phụng nữa cũng không sao.

Nhân Phụng vừa nằm xuống, tôi lại t́m trong đầu xem trong bọn nhà văn trẻ, những người nào là cầm lỏng được cái chết. Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, đều là những người đủ tư cách để sớm lên đường lắm. Ngực người nào cũng lép như cái đồng hồ Oméga trông nghiêng. Những người trẻ trung này có nằm xuống cũng đều nhẹ nhơm lắm đấy. Tôi không độc mồm nguyền rủa ai. Trái lại. Và buồn thương lắm.

Ngẫm đến cái mỏng manh về thể chất của người đồng điệu, tôi đă tự hào khoe với mấy bạn nằm trong nhà hát rằng tạng tôi vững vàng và cứ cái thể chất chắc chắn này th́ cứ tha hồ mà lấy đêm làm ngày, cũng c̣n lâu tôi mới chịu ṃn. Một anh bạn đă làm vỡ điều tin tưởng ấy của tôi bằng một cái thí dụ lấy ở Đinh Huy Hạo, một người cầm bút có luôn cả sức khỏe và sức mạnh đă từng viết cuốn Ṇi giống tốt.

- Trong bọn ta, đứa nào khỏe bạo bằng tên Đinh Huy Hạo. Vậy mà cũng chỉ một sớm một chiều thôi.

Tôi buồn rầu, thiếp dần. Thế rồi, trong gian nhà hát đă về sáng, như ngọn đèn bốc mạnh lúc gần tắt, cả bọn chúng tôi mệt mỏi lại nhỏm cả dậy để nói chuyện thương tâm. Thuốc đă làm chúng tôi vỡ giọng và tiếng nói ồ ồ.

- Phụng chết nhiều người thương tiếc hơn là Tản Đà. Một người chết trẻ bao giờ cũng lấy được nhiều nước mắt hơn là người chết đứng tuổi.

- Thằng Phụng c̣n hứa hẹn cho văn học nhiều tác phẩm lắm. Sao trong làng văn những người như thế đă chết mà lắm thằng bất tài khác th́ lại cứ sống măi để anh em phải sốt cả ruột?

- Tôi cho rằng nghệ sĩ nên chết trẻ, nếu ḿnh có quyền chọn tuổi chết. Tài sắc con người ta ở đời, ai cũng chỉ có một thời thôi. Con tằm nhả được tơ óng măi hay sao? Sống lấy lâu nhiều khi cũng hớ. Nó chỉ tỏ ra rằng ḿnh có cái da thịt cứng quá, trùng khó đục thủng mà thôi. Ai mà chịu được một nàng Tây Thi tóc bạc da mồi. Một người tướng tài mà không chịu hết tắt với dặm ngh́n da ngựa mà lại chết già trong giường vợ, th́ c̣n ǵ dại dột hơn nữa.

Chúng tôi thức cả đêm bàn tán về chuyện nên sớm nghĩ đến việc Hội Ái hữu nhà văn. Vào khoảng năm giờ sớm ngày chủ nhật 15/10, bọn tôi lại từ Thượng Cát kéo bộ về Hà Nội. Trời thu thả sương sớm tợ như vào một buổi thả lưới bắt chim ṃng, chim két. Qua chín nhịp cầu Bồ Đề trên con sông lạnh, bụng chúng tôi cồn cào hết sức.

- Đám đi sớm quá nhỉ? 7 giờ đă cất. Đi lại hết cầu, về đến bờ bên kia sông ít ra cũng hết 45 phút. Lại c̣n kéo ra đến ga tàu điện Bờ Hồ. Và từ đấy vào Cầu Mới. Thế mà cũng vừa thời giờ thôi đấy. Nhanh bước lên! Các anh.

- Phải t́m cái hàng cháo nào mà ăn chứ không có lạnh bụng lắm.

- Ừ phải đấy, chỉ giữ lại đủ sáu xuất vé tàu điện thôi, c̣n th́ chén hết. C̣n được đồng bạc không?

Trời chưa hửng hết cái phố Hàng Bè. Chúng tôi sà vào một hiệu cháo ḷng vắng vẻ. Tiết canh, dồi mỡ, ḷng chay. Và cháo khói. Ś sụp húp với nhau như một lũ con đàn một gia đ́nh kẻ khó ăn cháo canh bồi thay đồ ăn chắc, tôi vốn giàu tưởng tượng, tôi nghĩ đến một cuộc tụ họp của các bạn phóng viên báo hàng ngày, một buổi sớm tinh sương mùa lạnh ở một quán cơm Cửa Nam rồi đi xem hành h́nh ở cửa Hỏa Ḷ vào khoảng những năm 1930-1931. Chưa bao giờ tôi thấy một bữa điểm tâm cảm động như sớm nay. Sớm nay húp quanh lợi bát cháo nóng như người phải trả nợ dần, tôi tưởng đến người chết mà bùi ngùi, tôi nghĩ đến người c̣n sống mà lại thêm thương tủi.

Thế mà đám đă khởi hành được mấy phút.

Tôi vốn có một tập phóng sự về tiêm hút. Chính Phụng đă xui gợi tôi viết thiên Tàn đèn dầu lạc vào một tờ tuần báo và lúc góp những bài đăng ấy để đưa xuất bản thành sách, ở trang đầu, đề lời tặng, tôi viết: “Những tập phóng sự này, biết nên tặng ai?” ngụ một cái ư đùa diễu cả ḿnh và luôn cả những người bạn thân có duyên nợ với Ả Phiền nghiệp chướng.

Theo xe tang, tưởng đến người bạn khuất, tôi đă đổi lời tặng trào lộng đó thành một lời tặng hoài niệm: “Kính, Thành, Tiếc, tặng vong hồn Vũ Trọng Phụng”.

Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, 1939