Loạt bài kỷ niệm 65
năm ngày mất Vũ Trọng Phụng (13/10/1939 -
13/10/2004) |
|
Nguyễn Ngọc Thiện: Vũ
Trọng Phụng bàn về phóng sự và tiểu thuyết
tả chân |
|
Trong vài ba thập
niên đầu thế kỷ XX, trong xu thế t́m
đường hiện đại hóa văn xuôi chữ
quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự
được một số nhà văn dụng bút thể
nghiệm. Bước vào làng văn bằng truyện ngắn
đăng báo từ năm 1931, qua đời ở tuổi
27 với cuốn tiểu thuyết c̣n dang dở, những
tác phẩm tiêu biểu của văn nghiệp Vũ Trọng
Phụng thuộc về 2 thể tài tiểu thuyết và
phóng sự tả chân: ông để lại 9 cuốn tiểu
thuyết và 7 tập phóng sự. Tác phẩm gây sự
chú ư của dư luận đương thời đối
với Vũ Trọng Phụng là phóng sự đầu
tay Cạm bẫy người - kư bút danh Thiên
Hư, đăng trên báo Nhật Tân, xuất bản
tại Hà Nội, từ số 1 (02/08/1933) đến số
14 (01/11/1933). Năm sau, cũng trên báo này, ông lại cho in
thêm phóng sự thứ hai Kỹ nghệ lấy Tây
(từ số 69 - 5/12/1934). Và chỉ với 2 phóng sự
này, cùng cây bút đàn anh đi trước Tam Lang Vũ
Đ́nh Chí và nhà văn đồng trang lứa Vũ Bằng,
ông được liệt vào hàng vài ba “nhà văn mở
đầu cho nghề phóng sự của nước ta”
(Lê Tràng Kiều - Văn học tạp chí, số
4/1935). Đặc biệt, ông được Mai Xuân Nhân
tôn vinh là “ông vua phóng sự của đất Bắc” (dẫn
theo Việt Trung, tập san Nghiên cứu văn học,
số 5/1960). Danh hiệu này sau được nhiều
người tán thành, gọi theo, v́ quả thực xưng
tụng như vậy là xứng đáng với văn tài
nhà văn trẻ. Măi đến
năm 1934, Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn
tiểu thuyết tâm lư đầu tay Dứt t́nh
(c̣n có tên khác là Bởi không duyên kiếp) đăng
trên tờ Hải Pḥng tuần báo. Với tiểu
thuyết này, ông chứng tỏ là “ng̣i bút tả chân thực
đă khéo léo” và tác phẩm có thể coi là “một bức
tranh... phỏng theo sự thực của cuộc đời,
không tô điểm cho đẹp thêm, cũng không bôi nhọ
cho xấu đi” (Tràng An). Song, sang năm
1936, ng̣i bút tiểu thuyết của ông nở rộ,
đạt kỷ lục xuất sắc: chỉ trong ṿng
1 năm, 4 cuốn tiểu thuyết được lần
lượt xuất hiện trên báo, thu hút sự t́m đọc
của công chúng. Đó là Giông tố (trên Hà Nội
báo từ số 1 - 01/01/1936); rồi Số đỏ
(cũng trên Hà Nội báo, từ số 40, 7/10/1936).
Tiếp đó là Vỡ đê (trên báo Tương
lai, từ số ngày 27/09/1936) rồi đến Làm
đĩ (đăng trên Sông Hương, phát
hành tại Huế năm 1936). Với những
phóng sự, tiểu thuyết nói trên, tên tuổi của Vũ
Trọng Phụng đă trở nên quen biết với
người đọc. Ông xác lập chỗ đứng
chắc chắn trong làng văn, chiếm được cảm
t́nh của đông đảo bạn đọc. Một
cây bút đương thời không ngần ngại xem ông
là “một tay thiện nghệ trong văn tả thực”
(Lê Tràng Kiều). Nhà văn Phùng Tất Đắc khen ngợi
Vũ Trọng Phụng đă có “những công tŕnh có thể
vạch phương hướng cho văn nghệ... góp
được tài liệu cho đời sau khảo sát về
buổi này”. Bên cạnh đó
cũng có không ít ư kiến chê bai, phản bác Vũ Trọng
Phụng về các tác phẩm nói trên. Từ năm 1936
đến khi Vũ Trọng Phụng qua đời
năm 1939, đă nổ ra cuộc tranh luận chung quanh vấn
đề “Dâm hay không Dâm” trong phóng sự, tiểu thuyết
của Vũ Trọng Phụng. Đối thoại,
đáp lại những ư kiến nhằm vào công kích ông và
tác phẩm của ông, Vũ Trọng Phụng đă có dịp
thẳng thắn, công khai tŕnh bày quan điểm nghệ
thuật của ḿnh, về động cơ và mục
đích của lối viết tả chân mà ông đă thực
thi trong sáng tác. Tất cả gom lại khoảng ngót chục
bài báo gồm: thư ngỏ gửi Thái Phỉ; thư ngỏ
cho một độc giả; đáp lại bài của Nhất
Chi Mai; bác lại ư kiến của báo Phong hóa, báo Ngày
nay; trả lời phỏng vấn của Lê Thanh về
2 tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ;
bài thay lời tựa cho tiểu thuyết Làm đĩ
khi in thành sách; những lời giới thiệu phê b́nh cuốn
tiểu thuyết mới Tắt đèn của Ngô Tất
Tố... Ngoài ra cũng cần kể thêm vào đó những
bài lược dịch của Vũ Trọng Phụng về
các ư kiến của các nhà văn, nhà thơ nước
ngoài như G. Maupassant, J. Richepin, A. de Vigny; bài viết của
ông về đặc tính của kịch lăng mạn cũng
như câu chuyện ông kể về một nhà văn sĩ
vô danh đă sáng tác như thế nào... đăng trên báo những
năm 1931-1932. Qua đó, chúng ta có thể hiểu sâu
hơn, từ ngọn nguồn nào đă khiến ông có lập
trường rơ ràng, dứt khoát và quyết liệt khi
tranh luận, đụng chạm trực tiếp sau này. 1. Vũ Trọng
Phụng lược thuật ư kiến của các nhà
văn hiện thực G. Maupassant, J. Richepin, qua đó bộc
lộ thiên hướng sáng tác văn tả chân và tư
cách nhà văn xă hội Những năm
đầu bước vào làng văn, thể nghiệm các
sáng tác đầu tay ở thể tài truyện ngắn và
kịch, Vũ Trọng Phụng đă bộc lộ khuynh
hướng t́m đến với chủ nghĩa hiện
thực, có cảm t́nh với các nhà văn tả chân xă hội.
Ông t́m đọc họ, lược dịch để
truyền bá quan điểm, tư tưởng nghệ thuật
của các nhà văn phương Tây thuộc trào lưu hiện
thực phê phán (thế kỷ trước hoặc
đương thời) như G. Maupassant, J. Richepin... Qua
đó ông gián tiếp bộc lộ khuynh hướng sáng
tác của ḿnh cùng đồng nhất với các nhà văn
này. Từ ư kiến của các nhà văn nói trên, Vũ Trọng
Phụng tập trung nhấn mạnh các khía cạnh mà theo
ông là chủ yếu đối với nhà văn tả
chân: - “Chỉ tả sự
thực, toàn một giống thực”. Nhưng sự thực
ở đời và sự thực trong sách là có khoảng
cách, không giống nhau hoàn toàn. “Đó là những sự thực
có ư vị, chớ chẳng cốt nêu cái thực hoàn toàn”. - Nhà văn tả
chân phải là người từng trải cuộc đời,
chú mục phơi bày những cảnh đời b́nh dị,
những con người b́nh thường. Tác phẩm của
họ cần phô diễn tính t́nh và hành động của
các hạng người sao cho sinh động, thanh thoát, tự
nhiên. Qua sự cảm nhận và kinh lịch của ḿnh,
nhà văn tả chân giúp người đọc tỏ
tường các mặt thực của đời, chiều
sâu của đời sống xă hội, sự phồn tạp
trong hoạt động tinh thần, tâm - sinh lư của các
hạng người đời. - Không thể kết
án nhà văn tả chân khi họ miêu tả những thói xấu
của xă hội, những cái đê tiện của người
đời và gọi chúng bằng tên thật của nó. Nhà
văn tả chân dũng cảm đối diện với
sự thật, dù nó tàn nhẫn, khắc nghiệt, trái với
sự mong đợi của ḿnh. Anh ta khi viết không
đổi trắng ra đen, không che đậy hoặc
huyễn hoặc lừa ḿnh, dối người, cũng
không cốt làm hại đến luân lư, phong hóa cần
được tôn trọng. Viết trung thực, có sao nói
vậy, không thêm bớt, tô điểm, vẽ vời, tức
là tôn trọng người đọc, nêu cao tinh thần
khoa học, để có thể khám phá chân lư cuộc sống.
Khuynh hướng tả chân như vậy là phù hợp với
sự phát triển và tiến bộ xă hội, đáp ứng
đ̣i hỏi của người đọc trong một
thế giới văn minh, hiện đại (1). 2. Quan điểm
của Vũ Trọng Phụng trong tranh luận “Dâm hay
không Dâm”. Cuộc tranh luận
từ lúc mở đầu đến lúc kết thúc, kéo
dài trong 3 năm, từ cuối năm 1936 đến cuối
1939. Chính Thái Phỉ,
chủ bút báo Tin văn, trên số báo 25 ra ngày
01/09/1936 là người châm ng̣i cho cuộc tranh luận qua
bài Văn chương dâm uế. Trong bài này, ông không
nhằm vào cá nhân Vũ Trọng Phụng, người mà
ông vẫn quư mến văn tài. Ông chỉ muốn gióng lên
hồi chuông cảnh báo một khuynh hướng văn
chương nguy hại tả cái dâm uế một cách quá
táo bạo, khó coi, trần truồng hết sức gây phản
cảm trong độc giả. Ông gọi đó là thứ
“văn chương dâm uế” không có tính nghệ thuật
cần có. Thái Phỉ không hẹp
ḥi đối với việc lấy dâm uế, sự xấu
xa bẩn thỉu làm đối tượng miêu tả của
văn chương. Ông chỉ phản đối cách miêu
tả những cái đó một cách quá đà, quá mức
đến lơa lồ, sống sượng cốt đánh
vào cân năo người đọc mà không chú trọng đến
mục đích cao đẹp hoàn toàn của nghệ thuật
lành mạnh. Ở đây Thái Phỉ đă chú ư phân biệt
cái mà ngày nay chúng ta gọi là đối tượng miêu tả,
động cơ và hiệu quả của tác phẩm
trong đời sống xă hội, trong sự tiếp nhận
của công chúng. Phải nhận rằng
bài viết này của Thái Phỉ tuy sơ sài, nhưng quan
điểm là đúng mực, có tính chất xây dựng,
không có ư định ǵ công kích tác phẩm của họ Vũ,
hoặc biểu lộ “cái ḷng không thành thực” của
ông đối với Vũ Trọng Phụng, như sau
đó Vũ Trọng Phụng ngộ nhận (2). Chính Thái Phỉ,
cách đấy 2 năm trên Ngọ báo đă có bài
khen ngợi thành công của Vũ Trọng Phụng với
phóng sự Cạm bẫy người. Ông thực
ḷng khen họ Vũ đă có một tác phẩm “có giá trị
về phương diện khảo chứng (documentation) cũng
như về phương diện văn chương”. Cạm
bẫy người được viết một
cách có nghệ thuật, có “sức cám dỗ người
đọc” với mục đích chính đáng là phê phán, “lật
tẩy” hiện tượng xă hội xấu xa là cờ
bạc bịp. Giọng trào phúng mát mẻ của Vũ Trọng
Phụng được coi là thích hợp. Thái Phỉ cũng
đă rất tinh khi nhận ra khuynh hướng tả
chân mà họ Vũ theo gót các bậc thầy như G.
Maupassant, G. Flaubert, đồng thời ông cũng dè chừng
lối viết mà theo ông dễ bị quy là tính chất
khiêu dâm trên những truyện ngắn đầu tay của
Vũ Trọng Phụng. Bởi vậy,
người đọc lấy làm ngạc nhiên khi thấy
Vũ Trọng Phụng phản ứng gay gắt với
Thái Phỉ qua bài Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ
bút báo Tin văn về bài “Văn chương dâm uế”
đăng trên Hà Nội báo số 38 ngày 23/09/1936. Phải
chăng bài của Thái Phỉ chỉ là cái cớ để
Vũ Trọng Phụng nói cho đă, cho hả, công khai
đối lập quan điểm với những người
khác v́ đố kỵ, v́ muốn tranh độc giả
mà châm chọc ông? Vũ Trọng Phụng
nhận rằng do ḿnh là một trong số những nhà
văn tả chân, nên khi đọc bài của Thái Phỉ,
ông thấy có trách nhiệm phải bộc lộ thái độ
cho rành mạch. Ông thẳng thắn nói rằng lư lẽ của
Thái Phỉ là không có sức thuyết phục, bởi tối
tăm, luẩn quẩn, là sự phỉ báng, phạm
thượng đối với văn chương tả
thực. Bắt bẻ chữ
nghĩa của Thái Phỉ đă dùng, Vũ Trọng Phụng
đứng ở vị trí người viết phản ứng
dè chừng trước ư đồ quy chụp thiển cận
rằng ông đă miêu tả cái dâm để khiêu dâm người
đọc, khiến họ mất đi sự tỉnh
táo, phê phán cần thiết. Họ Vũ tự tin với
mục đích viết văn chính đáng của ḿnh: viết
về cái xấu xa, nhơ bẩn, dâm uế để tố
cáo, lên án nó, khơi dậy trong độc giả sự
công phẫn, đối phó chống lại thực trạng
và những kẻ thủ phạm gây ra những tệ nạn
xă hội xấu xa ấy. Có thể thấy,
trên những nét cơ bản, quan điểm của Thái
Phỉ cũng như của Vũ Trọng Phụng về
đối tượng và mục đích viết về những
cái xấu xa, dâm uế, nhơ bẩn của xă hội...
là gần gũi, đồng thuận nhau. Chỗ khác nhau
trong quan niệm của mỗi ông chỉ là ở chỉ
mức độ và cách viết như thế nào th́ là phải
và có thể chấp nhận được, để
không rơi vào t́nh trạng khiêu dâm người đọc. Như trên đă
nói, Thái Phỉ e ngại về sự miêu tả quá đà,
nhồi nhét quá mức cảnh dâm uế vào bất cứ
đâu, làm cho người đọc mụ mị trong cân
năo mà hoặc ghê sợ hoặc “rung động” một
cách lệch lạc, bị kích thích về mặt thú tính của
con người. C̣n Vũ Trọng
Phụng th́ sao? Ông khẳng định: nhà văn tả
chân có quyền và bổn phận tả những cảnh
thuộc về đời sống t́nh dục tự nhiên
của con người, về cái dâm thuộc về thiên
tính - nhưng lúc nào cần tả, lúc nào không nên tả th́
cần phải cân nhắc để văn chương
không rơi vào khiêu dâm. C̣n thứ dâm uế, dâm loạn
- tức những hành vi xấu xa, cần lên án th́ cần
phải mô tả kỹ về nó, lôi nó ra dưới ánh
sáng ban ngày, có vậy mới khiến người đọc
bất b́nh, công phẫn, lên án nó. Vũ Trọng Phụng
không tán thành lối viết nửa kín, nửa hở, che
đậy bằng những câu văn thanh nhă, bóng bẩy
v́ như vậy chỉ tổ làm cho người đọc
ṭ ṃ mà thôi. Ông chủ trương lối viết thẳng
thắn, nói toạc ra các khía cạnh của sự thật
dù có tàn nhẫn, khó coi nhưng đó sẽ là sự thật
cay nghiệt giống như liều thuốc đắng
khó nuốt nhưng sẽ làm cho người bệnh mau khỏi. Ở đây,
không thể không thấy sự cực đoan trong quan
điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng.
Bởi trong miêu tả nghệ thuật, ranh giới giữa
hiệu quả gây tỉnh táo để phê phán, tố cáo
với xui khiến sự ṭ ṃ, chuộng lạ, thích thú tự
nhiên, bản năng... thật khó mà phân biệt một
cách khách quan trên văn bản. Một năm sau
những ư kiến qua lại giữa Thái Phỉ và Vũ
Trọng Phụng, cuộc tranh luận được
đẩy lên đến đỉnh cao khi Nhất Chi Mai
viết bài: Ư kiến một người đọc:
Dâm hay không Dâm? đăng trên báo Ngày nay, số
51 ra ngày 14/03/1937. Nhất Chi Mai
không ngần ngại chỉ trích đích danh Vũ Trọng
Phụng là một nhà văn xă hội kỳ quặc “nh́n
thế giới qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng
đen và một nguồn văn càng đen nữa”. Theo Nhất
Chi Mai, bức tranh xă hội và đời sống con
người trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
thuần một màu đen tối, như một địa
ngục với những kẻ giết người, làm
đĩ, ăn tục, nói càn. Qua đó, không hé ra cho
người ta thấy một tư tưởng lạc
quan nào, một tia hy vọng nào. Mà tệ hơn nữa,
ông lại viết những câu văn sống sượng,
trần truồng, mô tả những cảnh nhơ nhớp
một cách khoái trá, thích thú chẳng khác nào khiêu dâm người
đọc. Nhất Chi Mai chỉ
trích loại văn nói trên không thể xem là “kiệt tác”,
“đúng sự thực”, “can đảm” được,
thực chất chỉ là một loại văn “dơ
dáy, bẩn thỉu, nhơ nhớp” mà thôi - độc giả
có lương tri không nên để ḿnh bị lừa mị
mà tin theo những lời rỗng tuếch, huênh hoang, tâng bốc
nhau của họ. Lúc này Vũ Trọng
Phụng không thể không lên tiếng một lần nữa.
Ông viết một bài dài “Để đáp lại báo
Ngày nay: Dâm hay là không Dâm?” bác lại hoàn toàn ư kiến của
Nhất Chi Mai. Vũ Trọng Phụng
vạch chân tướng của Nhất Chi Mai, chỉ ra rằng
Nhất Chi Mai đă né tránh khi chỉ nhận ḿnh trong
tư cách một độc giả b́nh thường, trong
khi Vũ Trọng Phụng biết một cách tỏ
tường rằng Nhất Chi Mai c̣n là một người
viết, đại diện cho một văn phái, một
khuynh hướng sáng tác đương thời - khuynh
hướng lăng mạn của Thơ mới, của
Tự lực văn đoàn và các cơ quan ngôn luận
của nó là Phong hóa rồi Ngày nay. Vượt lên sự
đối thoại cá nhân với cá nhân, Vũ Trọng Phụng
vạch ra sự khác biệt như nước với lửa
giữa 2 văn phái lăng mạn / hiện thực trong cái
nh́n đời sống xă hội, trong cách miêu tả hiện
thực và con người. Văn phái lăng mạn
bó hẹp trong sự cổ động cho phong trào “vui vẻ
trẻ trung”, giải phóng cá nhân khỏi những lề
thói xưa cũ để được tự do yêu
đương, được ḿnh là ḿnh trong các quan hệ
gia đ́nh. Họ đă chạy xa sự thật nhăn tiền
của xă hội, không thấy những bức xúc rộng
lớn hơn đang tác động vào sự sinh tồn
của con người. Nấp sau những danh từ mỹ
miều, điêu trá, dựng lên những nhân vật phụ
nữ giả dối, có bề ngoài đáng yêu, xinh xắn
nhưng bên trong th́ mục ruỗng cả về tinh thần
lẫn thể xác - văn phái lăng mạn chỉ có thể
sản sinh ra thứ văn chương “tùy thời”,
cơ hội, nhằm chiều nịnh một bộ phận
người đọc mà thị hiếu là ưa thích sự
giả dối, không dám đối diện với sự
thật đau ḷng của xă hội mà tự ru ngủ và
thỏa măn với cuộc sống hiện tại. Đối lập
lại, là một người thuộc văn phái tả
chân, Vũ Trọng Phụng theo một quan điểm
trái ngược, xung đột với quan điểm của
văn chương lăng mạn. Ông dơng dạc tuyên bố:
“Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn
tiểu thuyết là sự thật ở đời. Các
ông muốn theo thuyết tùy thời, chỉ nói cái ǵ thiên hạ
thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ
muốn nói cái ǵ đúng sự thật, thành ra nguy hiểm,
v́ sự thật mất ḷng”. Vũ Trọng Phụng
tiếp tục khẳng định mục đích cao
đẹp của văn tả thực: cất tiếng
nói phản kháng xă hội bất công, mục nát, xấu
xa, phản tiến bộ, trong đó người lao động
lương thiện bị bóc lột, đè nén, bị bần
cùng và tha hóa, bên cạnh đó tầng lớp trên th́ ăn
chơi trác táng, xa hoa, phè phỡn, lố lăng. Ông cho rằng
xă hội đương thời với những vết
thương trầm trọng, thối rữa đến
tận xương tủy như thế th́ có ǵ phải dấu
giếm? Phải vạch trần chân tướng xấu
xa của nó, phanh phui những ung nhọt của nó, chỉ
ra sự bất công và nỗi thống khổ đang tràn
lan, dày ṿ con người, từ đó làm cho dân chúng căm
hờn, phỉ nhổ vào những tệ nạn, bất
công mà đấu tranh cho sự công bằng và những
điều tốt đẹp! Đó há chẳng phải
là sứ mệnh cao cả của văn chương tả
thực xă hội hay sao? Tư tưởng
nghệ thuật mà Vũ Trọng Phụng theo đuổi
tâm huyết nói trên là tiến bộ, cần được
ủng hộ, nhưng cũng phải thấy những mặt
phiến diện, cực đoan có phần quá khích trong kiểu
tư duy ấy. Có nên quá thiên về miêu tả trần trụi
để chỉ trích, lên án những mặt xấu, mặt
trái, hy vọng t́m cách xóa bỏ chúng - chỉ thế mà thôi
không? Trong khi đó cuộc sống vận động cả
ở những phương diện khác: có không ít những
chồi non khỏe mạnh đang trỗi dậy, biết
bao nhiêu là cái đẹp, cái tốt tiềm ẩn trong con
người lương thiện, trong các lực lượng
xă hội tiên tiến - những nhân tố mới ấy cũng
cần được nh́n nhận, phát hiện, chăm
sóc và khẳng định, xây dựng. Liền ít ngày sau
bài đáp lại Nhất Chi Mai, Vũ Trọng Phụng lại
nhấn rơ thêm quan điểm của ông trong bài trả lời
phỏng vấn Lê Thanh về những tiểu thuyết Giông
tố, Làm đĩ, trên báo Bắc Hà ngày
03/04/1937 (3). Vũ Trọng Phụng xếp các
tiểu thuyết của ông thuộc ḍng tiểu thuyết
tả chân xă hội, nó “phản ánh cái xă hội hiện thực”,
chứ không phải là quay lưng lại hiện thực
hoặc hư cấu, phóng túng, tùy tiện mà làm sai sự
thực. Mà xă hội hiện thời sặc sụa những
mùi mục nát, đầy rẫy những cái xấu xa,
nhơ bẩn, không thể không thất vọng, bi quan về
nó. Viết các tiểu thuyết
nói trên, ông “có ư chụp ảnh lấy cái xă hội hiện
thời” trong đó không thể không tả những cảnh
dâm đăng. Tả như thế không có nghĩa là khiêu dâm,
mà chỉ là tả những điều có thực, tuyệt
không “khiêu cái ḷng dâm dục của ta lên”. Trái lại, cách
miêu tả này làm cho “người ta thấy ghê tởm, ghê
tởm v́ trông thấy nhăn tiền cái sự thật nó xấu
xa... đến nỗi phải tức tối lên... quên mất
cái dâm dục” đi. Vũ Trọng Phụng
tự thú rằng ông viết tiểu thuyết là thực
thi trách nhiệm xă hội, trách nhiệm công dân, dù có phải
là người chịu hy sinh, thiệt tḥi, bị hiểu
nhầm đi nữa. Ông tập trung viết về cái dâm
nhằm bài trừ những sự quá đáng trong sinh hoạt
dục t́nh của người ta, để cảnh tỉnh,
chế ngự những mặt trái của hiện tượng
thuộc tâm - sinh lư có tính chất xă hội phổ biến
này (xoay quanh 3 khía cạnh: tả những cái dâm đăng
trong sự phú quư để phê phán sự ích kỷ, hưởng
lạc; tả cái dâm ở tuổi dậy th́ của
người con gái và đề xuất cần phải
giáo dục trẻ em về sự dâm để tránh hư
hỏng về sau này; tả nạn mại dâm do nghèo
đói, thống khổ mà có để khống chế
nó...). Ông tâm sự rằng
ông đi ngược với phong trào Âu hóa của Tự
lực văn đoàn, không có nghĩa là ông bảo thủ.
Nhà văn thiết tha với sự nghiệp giải phóng
phụ nữ và tiến bộ xă hội, nhận rơ con
người có nhu cầu thỏa măn nguyện vọng cá
nhân chính đáng, nhưng đồng thời nhà văn cũng
có trách nhiệm bảo vệ gia đ́nh với những kỷ
cương của nó, đừng để sự mất
quân b́nh, sự quá đáng chi phối. Theo ông, vấn đề
phụ nữ và gia đ́nh phải được đặt
và giải quyết phù hợp với bối cảnh xă hội,
với nghĩa vụ của mỗi hạng người
và đạo đức truyền thống... Có thể nói những
ư kiến Vũ Trọng Phụng tŕnh bày trong cuộc tranh
luận “Dâm hay không Dâm” qua các phóng sự, tiểu thuyết
đă xuất bản của ông đă thể hiện khá
đầy đủ lập trường tiến bộ
của một nhà văn xă hội, chủ trương
dùng bút pháp tả chân để phanh phui những sự thật,
căn bệnh trầm kha của xă hội, những cảnh
bất công, ngang trái, những cái mầm ung nhọt trong
đó, nhằm cảnh báo người đời khiến
họ ghê sợ mà t́m cách thoát ra khỏi thực trạng
đen tối, đi tới những điều tốt
đẹp, công bằng và sự lương thiện. Rốt lại
theo ông, văn chương của ông không phải là
văn chương khêu gợi cái dâm thú tính, tầm thường
mà là tố cáo nó, phanh phui nó để người đọc
phản tỉnh, xa lánh, tiến tới t́m cách chôn vùi, thanh
toán nó. Đó cũng là một công việc xă hội mà nhà
văn phải dấn thân thực hiện, chứ không thể
làm ngơ hoặc ca tụng véo von những điều
không đâu vào đâu cả. 3. Ư kiến
của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết hiện
thực Tắt
đèn của Ngô Tất
Tố Là một cây bút tả
chân, Vũ Trọng Phụng nồng nhiệt khẳng
định giá trị hiện thực và sức mạnh tố
cáo của Tắt đèn. Và ông thử đi t́m nguyên
nhân thành công của tiểu thuyết hiện thực này từ
phía con người tác giả - mặt chủ quan của
quá tŕnh sáng tạo. Theo Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố hơn người ở chỗ, trong khi các tác giả
khác chưa hội đủ các điều kiện cần
thiết để có thể viết một cuốn tiểu
thuyết hay về nông thôn và người dân quê, th́ Ngô Tất
Tố lại là một trong số hiếm hoi các nhà
văn có đủ tư cách và thời gian để viết
về lĩnh vực này của đời sống hiện
thực lúc đó. Ở Ngô Tất Tố có một
định hướng rơ rệt cho ng̣i bút và trong lựa
chọn tâm thế sáng tác; ông được trang bị một
vốn sống phong phú, sâu sắc về nông thôn; ng̣i bút của
ông vốn giàu nghị lực, bản lĩnh. Tiểu thuyết
của ông được cấu trúc theo một kết cấu
mở, hiện đại, căng thẳng, giàu kịch
tính. Vũ Trọng Phụng
đề cao Ngô Tất Tố khi ông viết nhằm mục
đích phụng sự thôn quê, nêu lên những luận
đề xă hội bênh vực phái nhà nông. Là một
người từng trải "được sống
nhiều với đời thôn quê", nên Ngô Tất Tố
có được sự hiểu biết kỹ càng về
tâm tính, lời ăn tiếng nói của đám dân quê nghèo
khổ. Xuất thân Nho học, từng làm nghề báo, tiếp
xúc nhiều, lại chịu khó mở rộng kiến
văn, cầu thị thâu thái những thành tựu mới
của kỹ thuật tự sự phương Tây, nên
trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đă không
đi theo lối ṃn của cách kể chuyện cũ. Ông
kết hợp giữa kể và tả, đứng ở
địa vị khách quan trong khi mô tả và thuật chuyện,
biểu lộ năng khiếu quan sát tinh tường, chu
đáo về cảnh và người, về tâm lư, hành
động của họ, khéo léo khêu gợi những
tư tưởng cải tạo xă hội, phê b́nh sự
vật của người đọc. Những điều
nói trên, theo Vũ Trọng Phụng, đă dẫn đến
những thành công cơ bản của tiểu thuyết hiện
thực Tắt đèn. Tính đến thời
điểm đó Tắt đèn xứng
đáng là một "kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy".
Với những ư
kiến phê b́nh ngắn gọn về Tắt đèn,
Vũ Trọng Phụng đă đề xuất những
yêu cầu cơ bản đối với nhà văn hiện
thực trong việc tích lũy vốn sống trực tiếp,
bồi bổ vốn tri thức, văn hóa và không thể
xem nhẹ khâu trau dồi, nâng cao kỹ thuật viết
sao cho câu chuyện được kể một cách sinh
động, hấp dẫn người đọc. Làm
được như vậy, nhà văn sẽ dành
được thế chủ động, dẫn tác phẩm
đi tới đích tả thực thành công. * Sinh thời, những
ư kiến của Vũ Trọng Phụng về văn học
tả chân qua tiểu thuyết, phóng sự, về việc
mô tả cái dâm phải như thế nào để không sa
vào khiêu dâm, khêu gợi bản năng t́nh dục tầm
thường... ngoại trừ một số rất ít
người phản bác, c̣n lại phần lớn Vũ
Trọng Phụng nhận được sự hưởng
ứng của văn nghệ sĩ tiến bộ, cách mạng.
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là bằng chứng
sinh động về việc ông đă thể hiện
trung thực những quan điểm nghệ thuật về
chủ nghĩa tả chân trong sáng tạo văn
chương. Ngay sau khi ông mất, số Tao đàn
đặc biệt đă ra mắt, với nhiều bài viết
của các nhà văn có tên tuổi. Họ là bạn bè của
Vũ Trọng Phụng, bộc lộ niềm
thương tiếc một nhà văn tài năng xuất
chúng nhưng mệnh yểu. Di sản văn
chương mà Vũ Trọng Phụng để lại
là vô cùng quư giá, dồi dào chất hiện thực của
cuộc sống đương thời, quyết liệt
trong sức mạnh tố cáo, phê phán những cái xấu
xa, đồi bại, bất công của một xă hội
thối nát. Phẫn nộ lên án cái dâm đăng đồi
truỵ, nhơ nhớp, ông đ̣i hỏi con người
phải được giáo dục chu đáo từ nhỏ
để có sức vượt lên cái bản năng thấp
kém mà sống một cuộc sống có ư nghĩa, lành mạnh,
cao đẹp. Các tác phẩm của ông, trong đó đáng
kể là những tiểu thuyết, phóng sự tả
chân, có thể được xem là trợ thủ đắc
lực trong cuộc đấu tranh lâu dài v́ tiến bộ,
dân chủ, dân sinh và công bằng xă hội. Tiếp bước
các nhà văn đi trước như Nguyễn Công Hoan,
Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, các nhà văn lớp
sau: Nguyên Hồng, Tô Hoài, Mạnh Phú Tư, Nguyễn
Đ́nh Lạp, Nam Cao... xuất hiện vào đầu những
năm 40 của thế kỷ trước đă
giương cao ngọn cờ của văn học hiện
thực, đem lại những thành tựu mới cho trào
lưu văn học này. Và chúng ta sẽ
không lấy làm lạ khi đọc lại những ư kiến
dưới đây của Nam Cao, thấy Nam Cao gần gũi
Vũ Trọng Phụng biết bao! Nam Cao đă tiếp tục
đào sâu vào các nguồn văn hiện thực mà Vũ Trọng
Phụng đă khai mở trước đó, nhưng đến
lượt ḿnh ông làm cho nó sâu sắc thêm, nâng cao thêm,
trước hết là trong tư duy nghệ thuật: - "Nghệ thuật
không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên
là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ
là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp
lầm than, vang dội lên mạnh mẽ... chẳng cần
trốn tránh... cứ đứng trong lao khổ, mở hồn
ra đón lấy tất cả những vang động của
đời...". - "Một tác
phẩm thật giá trị... nó phải chứa đựng
được một cái ǵ lớn lao, mạnh mẽ, vừa
đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng
ḷng thương, t́nh bác ái, sự công b́nh... Nó làm cho người
gần người hơn. Như thế mới thật
là một tác phẩm hay..." - "Văn
chương không cần đến những người
thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp được
những người biết đào sâu, biết t́m ṭi, biết
khơi nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những
cái ǵ chưa có...". (4) Hà Nội, tháng
10 năm 2002 Nguồn: Tạp chí Văn học, số
11 (369), tháng 11/2002, tr. 31-38 (1) Những bài viết hoặc bài lược
dịch của Vũ Trọng Phụng về các vấn
đề nói trên được tập hợp trong cuốn
Chống nạng lên đường (chùm sáng tác
đầu tay mới t́m thấy năm 2000) do Lại
Nguyên Ân sưu tầm, giới thiệu, Nxb. Hội Nhà
văn, 2001. (2) (3) Xem: Một bài phỏng vấn Vũ
Trọng Phụng mới t́m được do Lại
Nguyên Ân sưu tầm, giới thiệu. Tia sáng số
5/2002, tr.47-50. (4) Trích suy nghĩ của các nhân vật khi cầm
bút đi vào nghề văn, trong các truyện ngắn Giăng
sáng, Đời thừa của Nam Cao. |