Loạt bài kỷ niệm 65 năm ngày mất Vũ
Trọng Phụng (13/10/1939 - 13/10/2004) |
|
Vương Trí Nhàn: Nghĩ lại về Vũ Trọng
Phụng - Bước đi tự phát ở một ng̣i
bút ghi chép lịch sử |
|
Ấn tượng sâu sắc nhất
mà có lẽ tất cả bạn đọc đều
chia sẻ khi đọc Số
đỏ, ấy là cái sự nhố nhăng nhảm
nhí của đời sống được nhà văn
phác họa theo lối châm biếm. Nói như Lưu Trọng
Lư, ng̣i bút Vũ Trọng Phụng đă “chế nhạo
tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện
cái đồi bại của một hạng người
một thời đại”. Hiện đại ở
đây đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách, làm
hỏng con người. Hiện đại là một
bước đi không thể chấp nhận được.
Thế nhưng liệu đă có thể nói đó là tất
cả cái cuộc sống trên đường hiện
đại hóa được nói tới trong tác phẩm Số đỏ? Có phải
xă hội đương thời chỉ có tàn lụi mục
nát vô phương cứu văn, hay thực ra nó đang vận
động theo một phương hướng đầy
triển vọng và chính ng̣i bút Vũ Trọng Phụng cũng
đă tham gia vào việc ghi chép lại cái quá tŕnh đổi
khác đó - một việc chắc chắn là chính ông cũng
không ngờ tới? Hiện đại hóa là ǵ và ư nghĩa
lịch sử của nó Đặt xă hội
Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 trong toàn bộ
sự vận động chung của lịch sử dân tộc,
chúng ta thấy nó là một bước rẽ ngoặt mà nội
dung căn bản là h́nh thành nên một xă hội kiểu mới
khác hẳn xă hội Việt Nam từ đó về trước.
Trong cả sử học lẫn các bộ môn khác của
khoa học xă hội, trong đó có lịch sử văn học,
người ta thường gọi đó là quá tŕnh hiện
đại hóa. Trong một bài viết
mang tên T́m nghĩa khái niệm
hiện đại (có in trong sách Nh́n lại một thế kỷ văn học,
NXB Chính trị quốc gia, H.2002) chúng tôi đă có dịp
tŕnh bày cách hiểu về quá tŕnh này, dưới đây là
mấy nét tóm tắt: - Đó là sự
chuyển biến từ kiểu xă hội phong kiến
trung đại sang một xă hội công nghiệp hóa, có
đô thị phát triển. Bắt đầu từ cơ
sở kinh tế, cuộc chuyển biến này kéo theo hàng
loạt biến động, nhiều quan niệm của
con người về bản thân ḿnh cũng như về
thế giới có thay đổi. Đồng thời với
sự trưởng thành của ư thức xă hội th́ con
người cá nhân trong họ cũng được giải
phóng. - Bởi đây là
sự chuyển biến từ một xă hội theo kiểu
phương Đông sang một xă hội xây dựng theo mẫu
h́nh phương Tây lúc ấy, nên người ta c̣n gọi
nó là Âu hóa. Thực chất của
hiện đại hóa trong điều kiện lịch sử
đầu thế kỷ 20 chính là Âu hóa. Không chỉ ở
VN mà ở Trung quốc và ở nhiều nước châu Á
khác, hiện đại hóa đều được sử
dụng với nghĩa cụ thể như vậy. (C̣n tới
cuối thế kỷ 20 nó vẫn được dùng
nhưng có hàm nghĩa mới th́ đó lại là chuyện
khác.) - Muốn hay không
muốn cũng phải xem đây là một bước tiến
bộ. Tính đến hoàn cảnh đương thời,
th́ đây là công thức duy nhất
có thể đưa xă hội ra khỏi điểm chết
mà sự vận động của lịch sử trước
đó đẩy tới. Không phải hiện đại
hóa hoàn toàn đối lập lại quyền lợi chính
đáng của dân tộc. Ngược lại, chính trong
hoàn cảnh hiện đại hóa mà ư thức dân tộc,
vốn có từ trong quá khứ, bắt đầu mang một
nội dung mới thích hợp hơn do đó trở nên
hoàn thiện và có sức thúc đẩy lịch sử tiến
tới. Đặc biệt với công cuộc công nghiệp
hóa, ư thức dân chủ có dịp nảy nở mạnh mẽ. Một trong những
tư tưởng cơ bản được tŕnh bày
trong Văn minh tân học sách của
nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục (tổ chức tập hợp
những bậc trí giả thức thời đầu thế
kỷ 20), đó là t́nh trạng lạc hậu cổ hủ
của xă hội VN trước khi tiếp xúc với
văn minh Tây phương. Đến một nhà yêu nước
như Phan Chu Trinh th́ tư tưởng đó là cả một
ám ảnh. Theo Phan Chu Trinh, nếu không nhận thức và
khắc phục được sự lạc hậu th́ mọi
nỗ lực giành lại độc lập đều vô
nghĩa. Trong Thư gửi
chính phủ Pháp, ông viết: “Nước Nam đă lâu
nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng,
không có liêm sỉ, không có kiến thức.. Trong một làng
một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng ṇi cùng giống
vẫn coi nhau như thù hằn; dẫu ai có muốn lo toan
việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà
nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của
mà tiêu, giá phỏng Chính phủ (đây
là chính phủ thực dân Pháp - VTN) cho mượn
dăm ngh́n khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở,
không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm ǵ th́ làm,
chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau th́ cũng
tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp
đoạt tiền tài th́ cũng giành giật tước
vị, tự chém giết nhau đến chết hết mới
thôi (...)” (1) Có thể nói sự
sáng suốt của những người vừa yêu nước
thương ṇi vừa nh́n xa trông rộng và có tư tưởng
canh tân xă hội trên đây đă có sức chi phối
đối với sự phát triển của xă hội VN
mà quá tŕnh hiện đại hóa nói ở đây là bằng
chứng. Dù công cuộc hiện đại hóa đó tiến
hành dưới sự kiểm soát của bộ máy thực
dân, song vẫn phải ghi nhận một sự thật: dẫu sao quá tŕnh đó đă xảy
ra. Không có quá tŕnh hiện đại hóa này th́ không có xă
hội VN nửa đầu thế kỷ 20 như chúng ta
đă thấy, không những không có đô thị, nhà
trường kiểu mới, đường sắt,
bưu điện, báo chí…, mà cũng không có sự tiếp
xúc b́nh thường giữa VN và thế giới. Nói cho hết
lẽ, phải thấy không có quá tŕnh hiện đại
hóa th́ không có luôn cả sự phân hóa giai cấp như các
nhà nghiên cứu lịch sử thường phân tích, không
có giai cấp công nhân và một bộ phận trí thức
kiểu mới, không có sự du nhập của ư thức
hệ Mác Lê-nin, dẫn đến những biến động
có tính chất bước ngoặt từ sau Tháng Tám
1945. Hiện đại hóa đă tự
phát có mặt trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
như thế nào? Hăy bắt đầu
bằng một chi tiết nhỏ trong chương II của
Số đỏ, cái đoạn
tả cảnh xảy ra tại một bót cảnh sát khi một
viên quản ngồi than thở sự đời với một
thày cảnh sát dưới quyền, thày min đơ: - Thày có tiếc cái thời buổi ngày
xưa, cách đây mười năm không? - Tiếc lắm! Mười
năm trước đây, dân ta c̣n ngu.. - Ngày nay dân ta văn minh mất rồi,
rơ thảm hại! Thày phải biết là xưa kia, xă hội
tinh nhứng du côn với nặc nô, tinh những người
bất lịch sự chỗ nào cũng phóng uế, cũng
đánh nhau. Hồi ấy có khi bốn người ngồi
một xe! Họ chửi nhau hàng nửa giờ, đánh
nhau vỡ đầu, nhà cửa của họ th́ rác
rưởi, nước cống nước rănh tung toé, ngập
lụt. Chó của họ cũng chạy ra ngoài đường
nhông nhông... Xe đi đèo, hay không đèn là nhan nhản.
Bây giờ mọi sự đă thay đổi cả (tr. 22) (2) Điều bất
ngờ là ở chỗ đằng sau câu chuyện mà tác giả
thuật lại để chế giễu tự nó có một
ư nghĩa khác. Không ǵ khác, cái thời buổi ngày xưa mà
hai nhân vật nói ở đây chính là xă hội VN trước
hiện đại hóa, với một nếp sống phải
nói là lạc hậu và chẳng có ǵ là đáng ước
ao, nếu không nói rằng đáng từ bỏ. C̣n thay thế
nó lại là xă hội nền nếp quy củ. Và sự
thay đổi mà các viên cảnh sát than phiền là hỏng
là đáng chê trách th́ theo
lương tri thông thường, lại là một sự
thay đổi theo hướng tiến bộ hợp với
tinh thần của nhân văn và đạo lư. Nếu tiếp tục
khảo sát tác phẩm theo hướng này, người ta
sẽ thấy Số đỏ
vô h́nh trung đă phác họa một khuôn mặt khác của
xă hội trong một giai đoạn lịch sử có những
đảo lộn hàng trăm năm chưa từng có. Từ
đầu thế kỷ 20, trong ḷng xă hội phong kiến,
những nhân tố của một xă hội theo kiểu
phương Tây đă nảy sinh và tới những năm
ba mươi có thể nói cái nền nếp mới ấy
đă trở nên ổn định thay cho nền nếp
xưa “thế là hết nhẵn nhụi” (tr.
22). Đóng vai tṛ đầu tàu cho lịch sử là những
đô thị mới vừa h́nh thành. Trong kiến trúc,
trong đường xá cầu cống, trong kiểu ăn
ở đi lại... của con người, chúng khác hẳn
so với cái gọi là đô thị thời trung đại.
Phân công lao động trong xă hội đă khá cao, nhiều
nghề mới nảy sinh, không phải chỉ có me tây
đĩ điếm như nhiều người thích bêu
riếu, mà quan trọng hơn có người đi du học,
có luật sư bác sĩ, có các loại cửa hàng và khách
sạn đầy đủ tiện nghi, có cả các loại
sân thể thao được xây riêng trong từng gia
đ́nh và thày dạy đánh quần vợt. Đặc biệt,
ư thức công cộng của mỗi thành viên trong xă hội
được nâng lên một bước. Đằng
sau câu nói đơn sơ “Lúc này đến cả thằng phu xe cũng biết
luật”
(tr 22) là một sự thật: xă hội đă vượt
qua giai đoạn tự phát mạnh ai nấy sống.
Làm ǵ người ta cũng phải chú ư xem phản ứng
xă hội với ḿnh là như thế nào. Báo chí có mặt ở
mọi nơi mọi chỗ. Cũng nên lưu ư
thêm là theo sự miêu tả của tác giả th́ Xuân tóc
đỏ có lúc ăn vận theo kiểu hề Charlot
để gây chú ư (tr. 75), cũng như ông Joseph Thiết
có nhắc đến Léon Daudet (tr. 78), ấy là không kể
có cả một buổi hội thảo không chính thức
về học thuyết của Freud (đoạn đầu
chương XIII). Những mẫu h́nh của văn hóa hiện
đại đă xuất hiện để thay thế cho
những khuôn vàng thước ngọc dẫn lại từ
thời Nghiêu Thuấn mà mọi người đều
đă ngán đến tận cổ! Ở trên chúng ta
đă nói rằng con người trong Số đỏ hiện ra với nhiều nét
khó coi, ồn ào học đ̣i, tham lam dâm đăng. Song suy cho
cùng những thói xấu ấy vẫn là bề ngoài. Nếu
không xem các tiêu chuẩn đạo đức vốn có từ
thời phong kiến là bất biến mà xét kỹ cái tŕnh độ sống của
con người, nhất là văn hóa chung sống của
những con người đó, cái ư thức của họ
về sự tiến bộ chung của xă hội,
chúng ta thấy ǵ? Rơ ràng, đặt bên cạnh những
con người đơn giản, sống cầm chừng,
chậm răi rời rạc của xă hội trung đại,
th́ con người lúc này luôn hiện ra với vẻ gấp
gáp linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với mọi biến
chuyển lúc nào cũng có thể xảy ra. Mọi người,
từ Xuân đến bà phó Đoan, từ vợ chồng
Văn Minh đến ông Tipphờnờ … và cả mấy
người già như cụ cố Hồng đều có
ư thức về cuộc đời mà họ đang sống,
muốn sống theo những tiêu chuẩn mới mẻ mà
họ tin tưởng chứ không phải thế nào cũng
được muốn đến đâu th́ đến. Đây là lời bà
Văn Minh giảng giải cho một khách hàng về ư nghĩa
của cửa hàng Âu hóa do hai vợ chồng bà ta chủ
trương: - Thưa bà, chúng tôi chỉ tiến theo
luật tiến hóa chung của xă hội. Giữa buổi
canh tân này cái ǵ là bảo thủ th́ bị đào thải
đi. Bà có biết rằng từ khi chúng tôi mở cửa
hiệu này ra th́ đă bao nhiêu người vợ
được cứu vớt, t́m thấy ḷng yêu của
chồng, lại được hưởng hạnh phúc
gia đ́nh rồi đó không? (tr. 46) C̣n đây, cái quan
niệm về ăn mặc mà cửa hàng của bà ta noi
theo: - Thưa bà, những nguyên tắc về
y phục đă thay đổi. Chúng tôi mà có chế ra kiểu
này cũng là v́ theo cái quan niệm y phục của các nhà
thợ may lớn ở Tây phương. Quần áo để
tô điểm, để làm tăng sắc đẹp chứ
không phải để che đậy …(tr. 48) Đặt trong mạch
chung của tác phẩm th́ đây có vẻ như lời lẽ
ṃn sáo của một kẻ học đ̣i. Nhưng thử
tách nó ra như một văn bản độc lập,
chúng ta thấy đây là những ư tưởng nghiêm chỉnh
(một số điều đến nay chúng ta cũng
đang áp dụng). Con người bấy giờ đặc
biệt có ư thức về một
cuộc sống khác với những ǵ họ sẵn có chứ
không một chiều nệ cổ. Họ đă nh́n rộng
ra cả thế giới chứ không chỉ chăm
chăm quay đầu về cái sân nhà ḿnh hoặc cái làng
con con của ḿnh. Họ lại đă có được ư
thức đúng đắn về thời gian và mối
quan hệ giữa thời gian và bản thân ḿnh. “Nó cảm thấy đời nó
từ nay mà đi dễ thường đă vào một kỷ
nguyên mới.” (tr. 29) Không nên một chiều cười
giễu cái câu tự nhủ ấy của Xuân tóc đỏ,
ngược lại nên ghi nhận ở nhân vật cả
cái ư chí lập nghiệp lẫn một sự tiên cảm
chính xác về tương lai. Số đỏ kết thúc bằng việc
Xuân nhường chức vô địch quần vợt cho
đối thủ người Xiêm La. Câu chuyện có vẻ
hoàn toàn bịa đặt song đằng sau nó cần phải
ghi nhận một điều: một cá nhân như Xuân
đă biết làm chủ hành động của ḿnh, và sự
tính toán ở đây chẳng những là hợp thời mà
c̣n là khôn ngoan. Trong khi làm lại
cuộc sống, cố nhiên, trong tiềm thức, con
người VN nửa đầu thế kỷ 20 tự
hiểu rằng ḿnh có một quá khứ hết sức nặng
nề. Trên mọi phương diện, họ đều
nhận ra một sự đối đầu giữa cũ và mới (tr 136), giữa
lối cổ và lối kim
(tr. 34). Nếu như thường xuyên chúng ta bắt gặp
ở họ cái vẻ huênh hoang th́ chẳng qua cũng chỉ
là một cách nói to lên những điều lớn lao để
tự động viên ḿnh. Sự thay đổi quá nhanh
không khỏi dẫn tới những sự vội vă ép uổng,
những nét kệch cỡm, nhưng không phải v́ thế
mà đáng sổ toẹt tất cả. Có hai con người trong một Vũ
Trọng Phụng Âu hóa không chỉ là tên gọi của cái cửa
hàng thợ may nơi nhân vật Xuân trong Số đỏ đến học việc và bắt
đầu một cuộc tiến thân. Âu hóa cũng chính
là nội dung của quá tŕnh chuyển biến của cái
xă hội nho nhỏ mà tất cả các nhân vật của
cuốn tiểu thuyết này - từ những nhà cải
cách xă hội như vợ chồng Văn Minh, các trí thức
như ông Joseph Thiết, ông đốc tờ Trực
Ngôn... đến lớp người mạt hạng
như Xuân cùng mấy ông thày bói mấy cô bán hàng mấy chị
vú em - bị cuốn hút theo. Suy rộng ra, dễ
ước đoán là qua cuốn tiểu thuyết, tác giả
muốn làm một cuộc tổng kết cơ bản,
khái quát cả quá tŕnh chuyển biến của xă hội
VN nửa đầu thế kỷ 20. Đă rơ là có hai tầng
hiện thực khác nhau được ghi nhận trong các
trang sách của nhà văn họ Vũ: một đằng
là cái đời sống ở cái vẻ nó đập ngay
vào mắt mọi người; và một đằng nữa
là cái đời sống ở bề sâu, cái phần ẩn
giấu và chỉ bộc lộ ra một cách tự phát,
người đọc cũng dễ bỏ qua. Thái độ của
tác giả với hai mảng hiện thực ấy cũng
khác nhau rơ rệt. Có vẻ như với Vũ Trọng Phụng,
cái phần xấu xa của đời sống
đương thời là đáng quan tâm hơn cả. Ông
tố cáo. Ông lên án. Toàn bộ kiệt tác Số đỏ của ông được xây dựng
trên cảm hứng phê phán đó. Ngược lại, cái mảng
hiện thực thứ hai có vẻ nằm ngoài ư thức
của ông. Ông chỉ nhân tiện mà nói tới. Sự chểnh
mảng của ông với cái phần đời sống
này rơ rệt đến mức mà người ta chỉ nắm
được nó bằng cách tách sự việc đứng
riêng ra, để chúng độc lập bên cạnh cái
nh́n của các nhân vật vốn là nhân vật phản diện,
thậm chí độc lập với tác giả. Có điều,
không phải v́ thế mà cái đời sống ở bề
sâu ấy không hiện ra một cách rơ rệt. Bây giờ mọi sự đă
thay đổi cả (tr. 22). Một câu như vậy
quả đă thâu tóm được quá tŕnh biến đổi
của xă hội, và ở chỗ này có thể bảo Vũ
Trọng Phụng là một người
chép sử trung thành, mặc dù ông không có ư thức đầy
đủ khi làm công việc ghi chép quan trọng ấy. Đọc các nhà
văn cổ điển cỡ như Balzac, người
ta đă được chứng kiến không ít trường
hợp trong con người nhà văn có sự đối
lập, trong khi thái độ ông ta đối với thực
tế thế này th́ bức tranh xă hội được
ông vẽ ra lại có ư nghĩa khác hẳn. Trường hợp
Vũ Trọng Phụng ở đây cũng có ǵ na ná
như vậy. Thử giải
thích cái nh́n và thái độ của Vũ Trọng Phụng Yếu tố chủ quan Các nhà viết tiểu
sử đă sớm ghi nhận Vũ Trọng Phụng thuộc
loại dân nghèo mới từ bỏ làng quê để nhập
tịch vào đô thị. Nhưng lên Hà Nội, ông và gia
đ́nh vẫn sống rất thanh bạch. Thay cho cái nghèo
chân chất của người nông dân là cái nghèo nhếch
nhác luộm thuộm của đám người nằm ở
dưới đáy của Hà Nội băm sáu phố phường.
Có những người
nghèo song cam phận, nhẫn nhục, có cái nh́n nhân hậu
đối với sự đời, song lại có những
người do nghèo mà sinh ra cay nghiệt hằn học, chỉ
muốn đập phá hết cả. Vũ Trọng Phụng
chính là thuộc típ người thứ hai. Dù đă nhọc
ḷng đi t́m sự thay đổi, song ông và những
người như ông vẫn không t́m thấy miền
đất hứa để có thể tạm bằng ḷng
với số phận mà sống trong thanh thản. Bởi
vậy, ông nh́n mọi biến thiên xảy ra trong xă hội
như là những chuyện vô lư. Sự đối mặt
thường xuyên với mọi loại sa ngă hư hỏng
bất công giả dối khiến ông đớn đau
căm uất. Nói cách khác, nhà
văn thân yêu của chúng ta không thoát khỏi ḿnh để
có một cách nh́n khách quan với xă hội và xem tiến bộ
xă hội như một tiêu chuẩn đánh giá đời
sống. Khách quan mà xét, phải nói rằng ông bảo thủ,
cố chấp. (3) Qua các hồi ức
của những người quen biết riêng với Vũ
Trọng Phụng, từ lâu người ta đă biết
rằng tác giả Số
đỏ là một người, trong sinh họat hàng
ngày, có nhiều phần nệ cổ chứ không mô-đéc
như những người bạn của ông (mà Nguyễn
Tuân là một ví dụ).Tới đây chúng ta lại thấy
ông nệ cổ cả trong cách nh́n đời nói chung. Từ
sự bảo thủ trong quan niệm đạo đức
tới bảo thủ trong quan niệm xă hội, kể ra
cũng là một bước đi tự nhiên, không thế
th́ mới là chuyện lạ. Yếu tố khách quan Đặc điểm
của hiện đại hóa ở VN là nó diễn ra không
b́nh thường. Nó không nảy sinh như một sự
phát triển nội tại mà là từ bên ngoài ấn vào.
Mà yếu tố bên ngoài đây lại là nước Pháp thực
dân, lúc đó đang đóng vai tṛ của một thế lực
đi xâm lược. Một thời gian dài, với
người Việt Nam, chấp nhận hiện đại
hóa tức là chấp nhận hành động đồng
hóa của bọn xâm lược. Điều đó trái với
tinh thần quật cường chống ngoại xâm (bằng
bất cứ giá nào đẩy các thế lực ngoại
nhập ra khỏi đất nước) đă thành một
truyền thống của lịch sử dân tộc. Chẳng những
thế, trong thực tế, công cuộc hiện đại
hóa diễn ra trong máu và nước mắt. Xă hội VN cuối
thế kỷ 19 đă quá tŕ trệ và con người quen
lặn ngụp trong sự lạc hậu rất ngại
thay đổi. Đổi mới đối với họ
thường khi là một việc làm quá sức. Bởi vậy (kết
hợp cả hai yếu tố trên), người ta không ngạc
nhiên nhận thấy rằng ngay từ khi mới bắt
đầu, hiện đại hóa đă không được
người VN tiếp nhận một cách tích cực. Kẻ
biết nh́n ra ư nghĩa tiến bộ của nó rất
ít. Trong ḷng mọi người, sự ngại ngần trở
đi trở lại. Đủ thứ áo khoác mỹ miều
được lôi ra sử dụng để che đậy
cho sự thù ghét và sợ hăi cái mới. Đọc lại
văn học VN đầu thế kỷ 20, người
ta thấy với Tú Xương rồi Tản Đà tiếp
đó là các nhà văn xuôi như Trọng Khiêm, Đặng
Trần Phất..., hiện đại hóa đều
được miêu tả như một quá tŕnh gây ra
đau khổ cho con người. Tiếp đó, nhiều ng̣i bút
cùng thời với Vũ Trọng Phụng, những Nguyễn
Công Hoan, Lan Khai, Nguyên Hồng, Nam Cao… đều miêu tả
đời sống theo cách ít nhiều lên án hiện
đại hóa. Sự bảo thủ ở Vũ Trọng
Phụng mà chúng tôi nói tới trên đây suy cho cùng cũng
là nét bảo thủ của khá nhiều người, kể
cả những người thuộc diện tinh hoa của
xă hội. Thậm chí c̣n có thể nói nó là một thứ vô thức tập thể đang
chi phối cách nghĩ một thời. Trong trường hợp
này, các nhà văn thực sự chỉ là công cụ của
lịch sử. Đoạn kết Chẳng những
sinh thời Vũ Trọng Phụng, quá tŕnh hiện đại
hóa xă hội VN nửa đầu thế kỷ 20
được một số người xem là có ư nghĩa
tiêu cực mà ở nhiều thế hệ tiếp theo, cho
đến ngày hôm nay của chúng ta, lối nh́n nhận
đó vẫn đóng vai tṛ chủ đạo. Có lẽ
chính v́ thế mà khi tiếp xúc với các tác phẩm ra
đời trong thời kỳ này, người ta thường
chỉ đọc ra cái phần có ư nghĩa phê phán, c̣n
như cái phần mà ng̣i bút chép sử của các nhà văn
đă hoạt động một cách tự phát - như trong
trường hợp của Vũ Trọng Phụng với
Số đỏ - th́ lại
bị đẩy vào bóng tối quên lăng. Về phần
ḿnh, chúng tôi cho rằng nếu nh́n nhận về hiện
đại hóa như trong bài này và trong một số bài viết
trước đây chúng tôi đă thử đề nghị,
th́ ngay với Vũ Trọng Phụng người ta
đă có thể đi tới những kết luận khác
hẳn. Trong khi có vẻ làm giảm hào quang ở ng̣i bút
nhà văn họ Vũ do chỗ bộc lộ ở ông một
ít yếu tố bảo thủ, th́ đồng thời
cách nh́n nhận và đánh giá này làm cho ông, trước mắt
chúng ta, trở nên sâu sắc hơn và những trang văn
của ông cũng trở nên nhiều tầng nhiều lớp
phong phú hơn. Dù không cố
ư, song nhà văn này đă làm được cái thiên chức
mà các nhà văn lớn của một thời đại
thường được giao phó, đó là phản ánh được
một phần, theo cái cách riêng của ḿnh, những phương
diện cơ bản cùng là cái xu thế phát triển của
thời đại (xin hiểu thời đại nói ở đây là khái niệm
thời đại lớn
mà nhà nghiên cứu văn học người Nga đồng
thời là nhà triết học M.M. Bakhtin đề nghị). Riêng đối với con
người VN hôm nay, trong một giai đoạn mới của
công việc hiện đại hóa, trường hợp của
Vũ Trọng Phụng vẫn đang là một bài học,
ít nhất th́ nó cũng có thể giúp chúng ta tham khảo rút
kinh nghiệm để có được một cách nh́n
đúng đắn đối với mọi biến thiên
đang xảy ra trước mắt, phân biệt
được những biểu hiện bề mặt vốn
nhiều rác rưởi và cái xu thế lớn của lịch
sử. © eVăn 2004 ________________________ Chú thích của tác
giả: (1) Dẫn theo Tuyển tập Phan Chu Trinh,
Nguyễn Văn Dương biên soạn, NXB Đà Nẵng
1995, các tr 352, 353. (2) Các dẫn chứng trong bài
có ghi số trang đều trích theo bản in Số đỏ trong Tuyển tập Vũ Trọng
Phụng ba tập, tập III, NXB Văn học, 1988. (3) Thực ra, đọc lại
đoạn đối thoại giữa thày quản và viên
cảnh sát ở tr. 21-22, ta thấy những điều họ
nói về thời đại trước Âu hóa tự nó với
những người có lương tri b́nh thường
đă thành một sự phê phán, và lời than tiếc cuối
cùng của họ rằng: “Cái thời tốt đẹp
của các cụ nhà ta không c̣n nữa” cất lên có chút ǵ
đó ngớ ngẩn và giống như một sự mai mỉa.
Trong thực tế, người đời dù có cổ hủ
đến mấy chắc cũng không ai ăn nói như vậy.
Có lẽ nên giả thiết thêm là trong sự lẫn lộn
giữa đùa và thực, ng̣i bút nhà văn đă có phần
sa đà hơi quá? Hay là ư thức bảo thủ đă vào
sâu trong Vũ Trọng Phụng tới mức nó khiến
ông bất chấp cả mọi lô-gích thông thường? |