Hệ thống thế giới quan Vũ Trọng
Phụng (bao gồm toàn bộ tư tưởng, t́nh cảm
cùng các trạng thái tâm lư khác) kết cấu trên hai nhân tố
cơ bản: tư tưởng bi quan định mệnh
và tâm trạng phẫn uất mù quáng trên lập trường
cá nhân chủ nghĩa của một người tiểu
tư sản suốt đời điêu đứng bởi
đồng tiền.
Nhân tố thứ nhất là sự đầu hàng trên ư thức
triết học trước một thực tế xă hội
(thực chất có tính chất cục bộ và tạm thời,
nhưng tầm mắt, cách nh́n của Vũ Trọng Phụng
đă gán cho nó tính chất phổ biến trong không gian và
thời gian) trong đó cái đen tối, phi nghĩa luôn
luôn thắng thế. Điều đó có thể hiểu
được nếu chúng ta nhớ đến t́nh trạng
hết sức bế tắc và khiếp nhược của
một thế hệ tiểu tư sản trưởng
thành vào đúng thời gian cuộc khủng hoảng kinh tế
lớn 1929 - 1933 và những năm thoái trào cách mạng sau
1930 - 1931 (năm 1930 Vũ Trọng Phụng vừa 18 tuổi).
Trước mắt họ, thế lực của bọn
thống trị tàn bạo, của đồng tiền lạnh
lùng có khả năng đè bẹp mọi ư chí phản
kháng của con người.
Tuy nhiên giải thích tư tưởng Vũ Trọng Phụng
c̣n phải chú ư đến đặc điểm này trong
hoàn cảnh sinh hoạt của ông nữa: tuy nghèo khổ
thật nhưng ông ít có điều kiện gần gũi
đời sống lành mạnh của nhân dân lao động
(điều này phân biệt Vũ với các nhà văn khác
như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao) ngược
lại thường tiếp xúc với những thứ
rác rưởi của xă hội thành thị trụy lạc
lúc bấy giờ. Thật vậy, lớn lên trong một
căn gác xép phố Hàng Bạc, phía này là dinh cơ “bà” Bé
Tư (1), đầu kia, mấy hiệu buôn vàng bạc,
và rải rác từ Sầm Công đến Mă Mây th́ nhan nhản
những tiệm ăn tiệm hút, nhà săm rạp hát,
con mắt vốn bi quan của Vũ Trọng Phụng
thường bắt gặp hàng ngày nhiều tấn tṛ “vô
nghĩa”, “chó đểu” (tiếng thường dùng của
Vũ Trọng Phụng) của đủ hạng bịp
bợm, dâm ô trụy lạc, giàu là con buôn, me tây “thượng
lưu” công tử bột ăn chơi, nghèo là lưu manh,
gái điếm, lao động không th́ không th́ không thiếu
ǵ những bác thợ hàn, thợ bạc chuyên làm đồ
giả cho các hiệu kim hoàn. Sau này mắc nghiện,
thường xuyên ra vào thế giới những tiệm
hút, dù muốn hay không, Vũ Trọng Phụng cũng cứ
phải nhập tâm đủ thứ chuyện “Mặt
trái đời” nhơ bẩn nhất qua cái miệng méo xệch
của những Vạn tóc mai bên khay đèn dầu lạc.
Đấy là chưa nói đến bản thân cái nghề
làm báo chuyên nghiệp của Vũ mà sự thúc bách của
cơm áo hàng ngày nhiều khi cũng buộc phải giở
đến những ngón chuyên môn không lấy ǵ làm đạo
đức cho lắm (2). Thực tế ấy làm
sao không gặm nhấm dần ở người thanh niên
tội nghiệp này ḷng tin ở ư nghĩa của sự sống,
ở phía tích cực của con người! Chịu ảnh
hưởng sâu sắc của tư tưởng duy tâm thần
bí tư sản, phong kiến được gieo rắc
đầy rẫy trong xă hội đương thời,
trí tuệ ham giải thích, sính triết lư của Vũ
đành bất lực trên đường đi t́m “nghĩa
lư” của đời sống. Chủ nghĩa định
mệnh đến với ông như một điều tất
yếu: một thứ định mệnh vô thần
đi đôi với quan điểm luân lư hư vô chủ
nghĩa, thừa nhận có một sức mạnh siêu h́nh
an bài ra mọi họa phúc ở đời, nhưng là một
sức mạnh mù quáng chỉ đẻ ra toàn những cái
bất công vô nghĩa.
Trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng, nhân tố này
thường biểu hiện ở không khí định mệnh
nặng nề đè lên số phận các nhân vật, ở
tính chất ngẫu nhên, may rủi như một nguyên tắc
xếp đặt các t́nh tiết, ở những chi tiết
tiên tri dự báo (episodes prophetiques), khi th́ gửi trong lời
truyền phán của những nhân vật thầy bói, thầy
tướng (Giông tố, Số đỏ, Trúng số
độc đắc) khi th́ đặt dưới
h́nh thức những điềm may triêu rủi (Dứt
t́nh, Lấy nhau v́ t́nh...) báo trước số phận
tất yếu của những nhân vật chính.
Nhân tố này khi kết hợp với quan điểm tâm
lư học của Frớt (Freud) - xét về phương diện
nào đó, chủ nghĩa Frớt cũng là một thứ
chủ nghĩa định mệnh tâm lư học - và nhu cầu
chạy theo thị hiếu thấp kém của công chúng, phù
hợp với thái độ phá phách vô chính phủ, trở
thành cơ sở triết lư của chủ nghĩa tự
nhiên trong sáng tác Vũ Trọng Phụng.
Hai nhân tố trên thống nhất với nhau ở tính chất
bế tắc của chúng, nhưng lại có mặt đối
lập. Nếu nhân tố thứ nhất là hoàn toàn tiêu cực
th́ nhân tố thứ hai cũng có mặt tích cực của
nó. Nhân tố thứ nhất khuyên Vũ lấy “thản
nhiên sự đời” là “cái đoạ của người
quân tử” (Giông tố, tr.103), nhân tố thứ hai
kéo ông về với hiện thực và thúc ông chống lại
số phận. Sự đối lập giữa hai nhân tố
chính là phép biện chứng nội tại của thế
giới quan Vũ Trọng Phụng, biểu hiện trong
sáng tác thành sự xen kẽ gần như thường
xuyên, phổ biến giữa hai mặt tiêu cực và tích cực
trong nội dung và phương pháp. Mâu thuẫn ấy có
khi hóa thân thành những cặp nhân vật đối lập
với nhau về thái độ sống, chẳng hạn
như Cả Thuận có thái độ phá phách liều lĩnh
với ông bố và người vợ nhẫn nhục của
ḿnh (Không một tiếng vang), như Long, gă t́nh nhân
bị sỉ nhục đang hăm hở muốn trả
thù, với Tú Anh, nhà triết lư hư vô chủ nghĩa (Giông
tố), như Minh, Phú, những thanh niên hăng hái hoạt
động với tham Quang, anh viên chức hiểu đời
nhưng an phận (Vỡ đê). Mâu thuẫn ấy
thường giằng xé nhiều nhân vật (Mịch, Long
trong Giông tố, Phú trong Vỡ đê v.v...) và
có trường hợp tạo ra mâu thuẫn đến vô
lư trong bản thân một tính cách, chẳng hạn như Hải
Vân, một thầy địa lư tin ở bàn tay của
“Hoàng thiên” và một nhà “chính trị” muốn vùng vẫy
để cải tạo xă hội.
Quy luật tư tưởng và sáng tác của Vũ Trọng
Phụng về cơ bản phụ thuộc vào mối
liên hệ biện chứng giữa hai nhân tố đó diễn
biến trên cơ sở những điều kiện xă hội
lịch sử nhất định từ khoảng 1930
đến 1939.
Thời kư thứ nhất của quá tŕnh sáng tác Vũ Trọng
Phụng diến biến từ 1931 đến khoảng
1934, 1935.
(...) Giá trị hiện thực của các tác phẩm Vũ
Trọng Phụng trong thời kỳ này, thực ra
chưa có bao nhiêu. Nội dung hiện thực, ư nghĩa xă
hội của tác phẩm bị hạn chế cả ở
chiều rộng lẫn chiều sâu. H́nh ảnh rơ nét nhất
của thực tại xă hội được phản
ánh dưới ng̣i bút của ông chỉ thu hẹp ở
t́nh trạng phá sản của một tầng lớp tiểu
tư sản và dân nghèo thành thị trong cuộc khủng
hoảng kinh tế (1929 - 1933) mà thôi.
Trong thời kỳ này, nh́n chung, tâm trạng phẫn uất
của Vũ Trọng Phụng chưa có phương
hướng . Nhân vật của ông tuy thường sôi sục
một khát vọng trả thù, nhưng là một thái độ
trả thù liều lĩnh, tuyệt vọng mà thực chất
chính là sự đầu hàng thảm hại trước lẽ
“tất yếu” của lối sống vô lương tâm
trong xă hội tư sản: “Non gan th́ ăn cắp vặt,
già gan th́ ăn cướp giết người” (Không một
mtiếng vang). Bởi vậy dưới ng̣i bút Vũ
Trọng Phụng, “ lối thoát” duy nhất của những
người cùng khổ chỉ có thể là con đường
lưu manh hóa mà thôi.
Thái độ căm uất mù quáng đó tất nhiên không
thể t́m ra kẻ thù cụ thể đích thực của
ḿnh. Khi ấm B đe dọa trả “trả thù cái bọn
đă làm tôi hư hỏng” (Cạm bẫy người),
khi Cả Thuận xách dao đi t́m những kẻ “không muốn
cho ḿnh làm ăn lương thiện” (Không một tiếng
vang) th́ dĩ nhiên là họ nghĩ tới những kẻ
có tiền, nhưng như vậy vẫn hết sức
mơ hồ, cho nên nhân vật phản diện của Vũ
trong thời kỳ này, ngoài cái bóng bên tên Thông Xạ thấp
thoáng trong Không một tiếng vang th́ hầu như
chỉ là một thứ đồng tiền mơ hồ
trừu tượng nào đó đang gieo tai họa trong xă
hội loài người.
Nếu như thái độ phẫn uất của Vũ
Trọng Phụng - một trạng thái tâm lư - có thể nảy
sinh tự phát trên ảnh hưởng những điều
kiện sinh sống hàng ngày, th́ tư tưởng bi quan
định mệnh chủ nghĩa của ông - một
nhân tố thuộc hệ tư tưởng - c̣n đ̣i hỏi
cả một quá tŕnh nghiền ngẫm dựa trên ảnh
hưởng những quan điểm triết lư mà ông tiếp
thu trong xă hội.
Từ Không một tiếng vang đến Kỹ
nghệ lấy Tây, tư tưởng định mệnh
của Vũ Trọng Phụng đă có nhiều biểu
hiện lẻ tẻ và tự phát ở thái độ nhẫn
nhục với số phận của một vài nhân vật
phụ như ta chưa thấy có những dấu hiệu
rơ rệt chứng tỏ nó đă được xây dựng
thành hẳn một quan niệm triết lư có hệ thống.
Số mệnh chưa chi phối một cách tổng quát
các tác phẩn của ông từ phương pháp sáng tác tới
chủ đề, kết cấu và tính cách các nhân vật
v.v...Tuy nhiên, triết lư tiêu cực ấy, với nền
tảng của nó, đă được chuẩn bị
khá chắc chắn trên tinh thần bi quan bế tắc bao
trùm các tác phẩm, và nhất là từ t́nh trạn thảm
hại “vô nghĩa lư” của “nhân loại Vũ Trọng
Phụng” trước quyền lực đồng tiền.
Đến tiểu thuyết Dứt t́nh (1934), chủ
nghĩa định mệnh lần đầu tiên
được Vũ Trọng Phụng phát biểu một
cách có hệ thống qua luận đề triết lư Bởi
không duyên kiếp. (3) Từ đó trở đi,
nhân tố tư tưởng này sẽ chứng tỏ vai
tṛ của nó trong quá tŕnh sáng tác tiếp theo...
Thời kỳ thứ hai của quá tŕnh sáng tác Vũ Trọng
Phụng diễn ra rất ngắn ngủi từ khoảng
cuối năm 1935 tới đầu 1937. Vậy mà chính những
thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất, vang
dội nhất của ông lại ra đời - và chỉ
có thể ra đời - trong thời gian không đầy
hai năm trời đó mà thôi:
Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê.
(...) Khác hẳn những tác phẩm thời kỳ trước,
Giông tố mở ra cả một thế lực phức
tạp bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau, hoạt
động ở nhiều b́nh diện xă hội, trên một
địa bàn khá rộng lớn. Quả thật, không có sự
cổ vũ của không khí thời đại, ng̣i bút của
Vũ Trọng Phụng không thể tung hoành thoải mái
như thế được. Niềm phẫn uất cũng
do đó bớt mù quáng và có phương hướng tích cực
hơn. Nhân vật phản diện trong Giông tố
không c̣n là những “chúng nó” chung chung mơ hồ hay một
đồng tiền siêu h́nh trừu tượng nào nữa
mà là một thằng Nghị Hách bằng xương bằng
thịt, một điển h́nh hiện thực chủ
nghĩa xuất sắc về tầng lớp địa
chủ tư sản phản động nhất, thời
thuộc Pháp.
(...) Những tiếng dội mạnh mẽ của phong
trào quần chúng khiến ông phải tạm thời rời
mắt khỏi cái “lỗ khóa phố Hàng Bạc” để
bắt đầu nh́n nhận tới phía tích cực của
con người. Cho nên “Nhân loại Giông tố” không chỉ
có toàn những kẻ “vô nghĩa lư”. Lẻ tẻ ta đă
thấy xuất hiện trong tác phẩm, một vài con
người theo tác giả, cũng có thể gọi là “có
nghĩa lư”, tức những con người mà ông gọi
là “con tim có óc”, không muốn sống “ích kỷ v́ kim tiền,
v́ ái t́nh v́ vật chất, v́ hư danh” như Tú Anh, huyện
Liên hay Hải Vân.
Nhưng chính ở đây ta lại gặp những vấn
đề hết sức phức tạp của thế giới
quan Vũ Trọng Phụng qua những nhân vật “tích cực”
nói trên, tác giả vừa thể hiện những chuyển
biến tư tưởng ít nhiều tiến bộ của
ḿnh do ảnh hưởng của thời đại,
đồng thời lại vừa lộ những quan niệm
hết sức sai lạc của ông về chính trị cho
h́nh tượng của ông có những tác hại cần
phê phán.
Một là qua những nhân vật ấy, ta thấy niềm
tin chớm nở ở Vũ Trọng Phụng không phải
xây dựng được trên nhận thức đúng
đắn về vai tṛ lịch sử của giai cấp
công nhân, và nhân dân lao động Việt Nam dưới sự
lănh đạo của Đảng mà ở vai tṛ cá nhân của
một vài “nhà chính trị” xuất thân từ tầng lớp
trí thức mà theo Vũ, tŕnh độ học vấn
đă khiến cho biết sống “có nghĩa lư” và nhất
là làm cho nó có thể hiểu được thế nào là
chính trị, thế nào là cộng sản là xă hội hay quốc
gia v.v...
(...) Hai là qua nhân vật Hải Vân, Vũ Trọng Phụng
- có thể là vô ư thức - đă xuyên tạc nghiêm trọng
bản chất của người chiến sĩ cộng
sản.
(...) Ngoài những lệch lạc nói trên, cần thêm rằng,
qua Giông tố ta thấy chủ nghĩa định
mệnh vẫn c̣n chi phối nặng nề thế giới
quan Vũ Trọng Phụng. Số phận chẳng những
ám ảnh không khí chung của tác phẩm mà c̣n như thấm
vào tâm hồn các nhân vật.
(...) Vũ Trọng Phụng đăng Số đỏ
từ tháng 10 năm 1936 cũng trên Hà Nội báo. Tác
phảm đă phát huy đến cao độ tài năng
trào phúng sắc sảo của ông. Cũng vẫn là khối
căm hờn ngày trước nhưng giờ đây ông
không chịu để nguôi đi bằng những lời
chửi rủa tuyệt vọng nữa, mà cho nó ra thành một
trận cười sảng khoái tung vào giữa những
cái nhố nhăng lố bịch của xă hội
đương thời.
(...) Với Số đỏ, chưa thể nói Vũ
Trọng Phụng đă thanh toán được tư
tưởng định mệnh chủ nghĩa của
ḿnh - tác phẩm vẫn c̣n nhiêu chuyện bói toán, số mệnh.
Tuy nhiên tư tưởng đó có bị pha loăng đi bởi
tiếng cười trào phúng khá thoải mái của ông.
Qua Số đỏ, một vấn đề
được đặt ra để giải quyết
là v́ sao Vũ Trọng Phụng lại như muốn nhạo
báng cả vào phong trào b́nh dân. Về vấn đề này,
chúng ta cần phân biệt thái độ phản ứng
khác nhau của Vũ đối với những tầng lớp
xă hội khác nhau lúc bấy giờ.
Một là ông muốn đả kích vào thói xu thời lố
bịch của bọn tư sản lúc đó đua nhau vỗ
ngực là b́nh dân hay có “óc b́nh dân” với quan niệm đó
là một cái “mốt” mới nhất của thời đại
buổi “văn minh tân tiến” mà đến “người
Tây cũng phải theo”. Ông đă cho nhà “cách mệnh” xă hội
Văn minh nói toạc ra như thế.
(...) Phản ứng này của Vũ Trọng Phụng nói
chung là lành mạnh. Nhưng chúng ta cần phê phán nghiêm khắc
phản ứng thứ hai của ông đói với chính
người b́nh dân thật sự. Do thái độ miệt
thị vốn có những người nghèo khổ “vô học”,
Vũ Trọng Phụng cho rằng hiểu thế nào là
b́nh dân, hiểu thế nào là chính trị, chỉ có những
nhà hoạt động xă hội thuộc tầng lớp
trí thức mà thôi. C̣n những cô hàng mía, những bác bán
nước chanh hay những anh nhặt ban quần mà cũng
nói “b́nh dân” th́ chỉ là một sự nhạo báng đối
với phong trào chính trị (...)
Vỡ đê không phải là cuốn tiểu thuyết
đặc sắc về nghệ thuật, nhưng có thể
coi là một trong những tác phẩm văn học công
khai đầu tiên thời thuộc Pháp đă chọn
đề tài trực tiếp ở phong trào đấu
tranh chính trị ngoài xă hội. Bởi vậy Vỡ
đê có điều kiện bộc lộ đầy
đủ nhất, minh bạch nhất nhận thức và
thái độ của Vũ Trọng Phụng đối với
các vấn đề thời sự lúc bấy giờ.
Trước hết, thông qua nạn vỡ đê với
hàng loạt tai họa kèm theo của nó đối với
người nông dân, tác phẩm đă phản ánh được
sự đối lập tàn nhẫn mà Vũ Trọng Phụng
gọi là trên “tinh thần giai cấp” giữa bọn thống
trị và nhân dân lao động. Ảnh hưởng của
sách báo tiến bộ thời Mặt trận dân chủ
đă khiến tác giả có ít nhiều nhận thức mới
mẻ về sự bất công trong xă hội xây dựng
trên quyền bóc lột sức lao động của bọn
nhà giàu “vô tích sự” đối với quần chúng nghèo
khổ. Niềm phẫn uất của ông do đó, không chỉ
thu hẹo ở lập trường cá nhân chủ nghĩa.
Tiếng nói tố cáo của ông trong Vỡ đê
c̣n muốn góp vào tiếng nói căm hờn chung của
hàng ngh́n, hàng vạn người thuộc “cái phần nhân
loại bị bóc lột” chống lại những kẻ
“có ở hai vai ḿnh những cánh tay lao động của
người khác”.
Nhưng cái mới của Vỡ đê c̣n ở chỗ
tác giả muốn đặt vấn đề đi t́m
con đường thoát của lịch sử. Chủ
đề bạo dạn đó được thực hiện
thông qua nhân vật trung tâm của tác phẩm:nhân vật
Phú.
Phú là một thanh niên tiểu tư sản trí thức xuất
thân từ một gia đ́nh nghèo, có truyền thống cách
mạng (...) Thức tỉnh trước những thắng
lợi dồn dập của phong trào Mặt trận nhân
dân Pháp và những hứa hẹn của nó đói với
t́nh h́nh Đông Dương, anh muốn hành động thực
sự để góp phần cải tạo xă hội. Vấn
đề đặt ra cho anh là phải đi theo con
đường nào, phải làm ǵ để thực hiện
được thiện chí đó của ḿnh. Nêu lên vấn
đề ấy, Vũ Trọng Phụng đă chứng tỏ
một bước tiến của ḿnh về tư tưởng.
Bởi v́ đó là thái độ hưởng ứng phong
trào Mặt trận dân chủ, đó c̣n là ư thức trách
nhiệm đối với lịch sử, đối với
nhân dân ở một chừng mực nhất định.
Nhưng khi giải quyết vấn đề ấy, Vũ
quả đă làm một việc quá tầm cỡ của
ḿnh và do đó đă để lộ tất cả những
lệch lạc của ông về tư tưởng và nhận
thức chính trị. Qua nhân vật Phú, chúng ta thấy rằng
tinh thần lạc quan và các nhân tố tư tưởng
mới mẻ khác của ông chỉ nương tựa vào
một ảo tưởng chính trị rất mong manh.
Trước những thử thách của thực tế, ảo
tưởng đó, ngay từ Vỡ đê đă bắt
đầu rạn nứt, báo trước sự tan vỡ
tất yếu của nó trong những năm sau này.
Ảo tưởng ấy bắt đầu nảy sinh ở
Vũ Trọng Phụng từ Giông tố đặt
ở lời tiên tri của ông già Hải Vân trước
khi vượt biển. Nguồn gốc của nó dĩ
nhiên vẫn phải truy t́m ở chính tư tưởng chủ
quan của Vũ Trọng Phụng.
Trước hết cần nhắc lại rằng Vũ
Trọng Phụng trước sau vẫn không thừa nhận
vai tṛ quyết định của quần chúng trong lịch
sử.
(...) Hai là do tinh thần khiếp nhược của giai cấp
tiểu tư sản từ 1930 - 1931, Vũ Trọng Phụng
cho rằng dùng bạo lực cách mạng để giải
phóng dân tộc khỏi sự thống trị của chủ
nghĩa đế quốc Pháp là một chủ
trương dại dột, vô ích. Bởi vậy, xu hướng
chính trị của Vũ, về thực chất không thể
tiến xa hơn chủ nghĩa cải lương hay
“thuyết trực trị” nghĩa là trông đợi ở
“ ḷng bác ái” và sự “biết điều” của người
Pháp mà thôi. Cố nhiên, để cho công bằng, ta cần
phân biệt Vũ với bọn tư sản Tự lực
văn đoàn hay Nguyễn Văn Vĩnh: Vũ không tin rằng
dân tộc Việt Nam có thể tự cứu ḿnh nhưng
vẫn mong muốn có những cải cách dân chủ thực
sự v́ lợi ích của dân nghèo.
Ba là không có quan điểm giai cấp, lại thường
t́m hiểu chính trị qua sách báo tư sản, Vũ Trọng
Phụng không phân biệt được bản chất của
các đảng phái chính trị lúc bấy giờ. Đối
với Vũ, quốc gia hay quốc tế, cấp tiến,
xă hội hay cộng sản đều chỉ là những
nhóm trí thức có những “tín ngưỡng” khác nhau về
chính trị mà thôi. Riêng đối với hai đảng cộng
sản và xă hội, ông lại càng thấy không có ǵ phân biệt
lắm.
(...) Những quan niệm mơ hồ đó, nếu trong
thời kỳ thoái trào cách mạng chỉ càng củng cố
thêm tinh thần bi quan bế tắc của Vũ, th́
ngược lại, từ cuối năm 1935 đến
đầu 1937, chính nó lại nâng đỡ cho niềm lạc
quan phấn khởi của ông đói với t́nh h́nh chính
trị lúc bấy giờ: Phải rồi người Pháp
có văn hóa, đời nào cứ chịu “hủ lậu”
măi. Trước nguy cơ phát xít, một nước Pháp
nhân đạo và khôn ngoan đă thức tỉnh. “Mừng”
hơn nữa là những người cộng sản bây
giờ không “cứng” nữa, họ đă hợp nhất
với đảng xă hội rồi. Bạo động
mà làm ǵ! chỉ tổ chuốc lấy thất bại.
Trái lại, vừa chuyển sang “phương tiện mềm”
có ít ngày mà thắng đă đến ngay rồi: đảng
xă hội lên cầm quyền, chính phủ b́nh dân thành lập
th́ cũng tức là chủ nghĩa xă họi là cách mạng
vô sản đă thắng lợi chứ ǵ! Chỉ nay mai
thôi, chắc chắn những lời tuyên bố của hội
nghị Huyghen và của ông Mutê sẽ được thực
hiện ở các thuộc địa nước Pháp.
Chà! T́nh h́nh biết bao phấn khởi. Tâm hồn Vũ Trọng
Phụng giống như một căn pḥng tói bỗng bừng
sáng v́ bàn tay của lịch sử vô t́nh chạm đúng
vào cái nút điện của hệ thống lô gích chủ
quan của ông. Cho nên Vỡ đê mở đầu
bằng một niềm vui sướng hết sức bồng
bột của Phú. Tờ báo trong tay, anh say mê với những
tin tức thời sự bên Pháp, “miệt mài đọc
như người ta đọc tư của nhân t́nh” (tr.
19). Bởi v́ “xưa kia Phú không bao giờ dám hy vọng
đến cái hy vọng ấy” th́ nay “hy vọng kia đă
hiện ra sự thực” (tr. 17).
Nhưng tội nghiệp cho anh tiểu tư sản ngây
thơ ấy, hy vọng kia chỉ là một ảo tưởng.
Nó càng hợp với chủ quan anh chừng nào th́ lại
càng khập khiễng với khách quan chừng ấy. Trải
qua thực tế, anh lấy làm lạ rằng, tại sao
“Minh bị bắt giữa lúc xứ nay có một ông toàn
quyền cũng có chân trong đảng xă hội?”. Tại
sao “những kẻ sốt sắng đi đón rước
những đại biểu của chính phủ b́nh dân, những
kẻ hành động theo chương tŕnh của Mặt
trận b́nh dân lại cứ theo nhau mà vào tù?” (tr. 249 - 250).
Anh băn khoăn đi hỏi những người trợ
bút của toà báo “Lao động”. Th́ cũng vẫn là Vũ
Trọng Phụng tự ḿnh lại giải đáo cho ḿnh
chứ ai! Cho nên những người “cộng sản” kia
tỏ ra hết sức lúng túng: “Trong cảnh ngộ này,
có một điều rất khó nói, ấy là vấn đề
cái tín nhiệm giữa hai ṇi giống (...) Làm thế nào?
Có phải chỉ c̣n có một cách là ḿnh cứ việc
thành thực, cứ bắt đầu nhượng bộ
để mà tín nhiệm người ta trước
đă, xem sao?”... (tr.250).
Ảo tưởng Vũ Trọng Phụng bắt đầu
rạn nứt như thế đó. Hy vọng vừa nhen
nhóm lên, ông những mong ấp ủ lấy nó để
làm lẽ sống cho ḿnh, bởi v́ những năm tháng bế
tắc, ông từng hiểu hơn ai hết, người
ta không chỉ sống v́ cơm áo, mà c̣n “sống v́ hy vọng”
(tr.23) nữa, Nhưng hy vọng lại muôn buông ông ra. Cuối
tác phẩm, ta thấy Phú vẫn cố níu lấy nó - cái
hy vọng mong manh và khó tính ấy - khi nghĩ đế
ngày mai cỏ cây sẽ tươi tốt sau trận
mưa rào giải hạn. Những bóng mây u ám của chủ
nghĩa bi quan định mệnh cứ kéo thấp dần,
thấp dần bầu trời Vỡ đê. Và tác
phẩm như không cưỡng lại được,
đành phải kết thúc bằng cái tứ rất buồn
của câu ca dao cổ:
Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai.
Nếu chỉ giới hạn trong ba tác phẩm Giông tố,
Số đỏ, Vỡ đê th́ có thể coi Vũ Trọng
Phụng căn bản là một nhà văn hiện thực
chủ nghĩa. Tác phẩm của ông có cả hai mặt
phủ định và khẳng định. Đó là đặc
điểm của sáng tác Vũ Trọng Phụng thời
kỳ này. Nhưng giá trị ng̣i bút Vũ căn bản vẫn
ở mặt phủ định. Người ta thường
nói đến nghệ thuật cá thể hóa nhân vật của
ông khiến cho những Nghị Hách, Phó Đoan, Xuân tóc
đỏ v.v... có khả năng bước vào cuộc sống
thực. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng tài ấy xét đến
cùng vẫn quyết định bởi cái t́nh của tác
giả. Ở Vũ, t́nh đây là chủ yếu
không phải là thương yêu mà là căm giận. Một
niềm phẫn uất mănh liệt lúc nào cũng sục
sôi trong huyết quản khiến ng̣i bút của ông không phải
là công cụ của văn chương (văn
chương của Vũ không phải là đều hay cả;
nhiều nhân vật của ông khá bôi bác, đặc biệt
câu văn của ông th́ lắm lúc th́ thật là cẩu thả),
mà là vũ khí để trả thù, không phải chỉ viết
ra những ḍng chữ mà c̣n để bêu lên những bộ
mặt xỏ xiên lố bịch bằng xương bằng
thịt cho thiên hạ muôn đời nguyền rủa. Niềm
phẫn uất ấy, phần nào được phát huy
theo phương hướng tích cực do ảnh hưởng
của thời đại, đă đưa Vũ Trọng
Phụng đến những thành công nhất định.
Tuy nhiên phải nói ngay rằng ng̣i bút đả kích của
Vũ Trọng Phụng tuy có mạnh nhưng cũng rất
chông chênh nghệ thuật châm biếm tuy có sắc
nhưng chưa thật sâu. Giới hạn đó vẫn
là do quan điểm xă hội mơ hồ, tư tưởng
định mệnh c̣n chi phối và thái độ phẫn
uất chưa thoát khỏi tính chất thù hằn cá nhân.
Cho nên có lúc ông lại như muốn “giảm đẳng”
cho tội lỗi của những nhân vật phản diện
của ḿnh.
(...) Ở thời kỳ này, trong thế giới quan Vũ
Trọng Phụng quả thực có nảy sinh nhân tố
tư tưởng lạc quan và khuynh hướng cố gắng
xây dựng cho ḿnh một niềm tin ở con người
và lối thoát của xă hội. Nhưng như trên đă
nói, niềm tin này hết sức mong manh v́ cơ sở của
nó chỉ là ảo tưởng chính trị mà thực chất
là chủ nghĩa cải lương không tưởng của
tầng lớp tiểu tư sản đầu hàng. Niềm
tin đó tuy có đem đến cho thái độ phẫn
uất của Vũ một phương hướng
đối tích cực và đẩy lùi được phần
nào tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa
ở ông, song hoàn toànn không đủ sức tranh lấy
địc vị ưu thắng trong thế giới quan
ông, trái lại ngày càng chứng tỏ số mệnh yểu
vong của nó.
Thời kỳ sáng tác cuối cùng của Vũ Trọng Phụng
bắt đầu từ khoảng giữa 1937 tới lúc
ông mất. Đây là thời kỳ tiêu cực nhất của
tư tưởng ông.
(...) Chúng ta biết rằng ảo tưởng của Vũ
xây dựng trên ḷng tin của ông đói với vai tṛ của
Đảng cộng sản và Đảng xă hội trong
phong trào Mặt trận dân chủ chống phát xít trên thế
giới và trong nước - được nhận thức
theo quan niệm lệch lạc của ông. ảo tưởng
đó vấp phải thực tế đă làm nảy sinh ở
ông một niềm hoài nghi ấy cứ phát triển lên
măi. Bởi v́ càng ngày ông càng thấy những lời tuyên bố
cảm động của đại họi Huyghen và Mute
chỉ là những lời hứa hăo. Càng ngẫm, ông càng
thêm ngán ngẩm: “ở cái nước Đại Cồ Việt
cố hữu của chúng ta đây, đều chính những
sự đă thay đổi rồi, thí dụ như bao
nhiêu điều cải cách, canh tân của chính phủ, mà
té ra lại cũng chẳng thay đổi ǵ cả”. Nh́n
qua thế giới, t́nh h́nh cũng không có triển vọng
ǵ. ở Pháp, chính phủ b́nh dân cũng bắt đầu
nghiêng ngửa đến nỗi Lêông Bolum phải rời
khỏi ghế thủ tướng (6 - 1937) v.v...ảo
tưởng của Vũ thế là cứ vỡ dần,
vỡ dần. Đến khi ông đi tới hoài nghi luôn cả
những người cộng sản th́ ảo tưởng
đó hoàn toàn phá sản (...)
... Phải nói rằng, so với những người tiểu
tư sản khác, quá tŕnh đó ở Vũ có nhanh chóng và
triệt để hơn. Bởi v́ trong thế giới
quan ông, từ lâu vẫn phục sẵn một tinh thần
bi quan chủ nghĩa rất nặng nề, sẵn sàng
bóp chết niềm tin non yếu của ông khi những sự
kiện 1937 nói trên xẩy tới. Bởi vậy, vừa
mới ngày nào, qua Vỡ đê, ông c̣n ḷng những dặn
ḷng: “Phải tin chứ! Phải tin mới sống
được chứ!” (tr. 22), thế mà đến thời
kỳ này, khi phong trào Mặt trận dân chủ vẫn c̣n
đàn tiếp tục, ông đă thốt ra toàn những lời
bi quan tuyệt vọng, những lời là “Đời sẽ
chỉ có toàn những sự vô nghĩa lư”, những là “Tội
ǵ mà chẳng nghiện, khi ta ở giữa một xă hội
khó thở, mà bao nhiêu kẻ có học thức, có tâm huyết
ngoài cái sự hy sinh làm mồi cho ngục thất và máy
chém th́ thôi, cũng đến khoanh tay chịu vậy, chẳng
làm được tṛ ǵ”, và cái giọng định mệnh
chủ nghĩa lại trở lại với ông có phần
dứt khoát hơn trước: “Sống là mạo hiểm,
là đánh sóc đĩa với tạo hóa” v.v...
Nhưng điều nguy hại hơn nữa là tâm trạng
phẫn uất trên lập trường cá nhân chủ nghĩa
vốn có của Vũ Trọng Phụng, một khi niềm
tin ở những lực lượng tích cực không c̣n nữa
để soi đường cho nó, th́, trong hoàn cảnh
đấu tranh giai cấp diễn ra rất quyết liệt
lúc bấy giờ, sẽ rất dễ dàng trở thành
đối tượng thu hút của bọn phản động,
nhất là của bọn phá hoại tờrốtkít.
(...) Nhưng nếu theo dơi thật sát, ta sẽ thấy rằng
tư tưởng Vũ Trọng Phụng thời kỳ
này cũng có những diễn biến nhất định.
Lúc đầu ông liên tiếp viết những bài báo về
chính trị với thái độ phá phách kiểu tờrốtkít,
rất phản động. Nhưng về sau lại thấy
ông thiên về viết truyện ngắn, kịch ngắn
hay tiểu thuyết mà đề tài chủ đề
như muốn quay lưng lại các vấn đề xă hội,
chính trị đương thời. Phải chăng con
người Vũ Trọng Phụng xét về bản chất
cũng không phù hợp hoàn toàn với con đường
chống phá cách mạng của bọn tờ rốt kít mà
bản chất phản động và thói huênh hoang bịp
bợm càng ngày càng bị bóc trần trước ánh sáng bởi
những người cộng sản và quần chúng cách mạng,
bởi chính những hành động khiêu khích vừa trắng
trợn vừa lố bịch, thảm hại của
chúng? Mặt khác phải chăng kinh nghiệm của cuộc
đời - tuy xét về thời gian th́ cũng ngắn ngủi
thôi - đă đủ sức thuyết phục ông rằng:
“ Đời (...) chỉ có toàn những sự vô nghĩa
lư, những điều ngang tai chướng mắt,
nhưng mà rồi ta phải mũ ni che tai mà ngơ đi,
mới được tiếng là người hiểu biết,
chứ nếu day tay nắm miệng hoặc cố đấm
ăn xôi, té ra là đồ tiểu nhân ngu si, không biết
ǵ”. Thực ra tư tưởng bi quan, chán đời mang
tính chất một thứ chủ nghĩa hư vô mệt
mỏi chán đời mang tính chất một thứ chủ
nghĩa hư vô mệt mỏi đó, Vũ Trọng Phụng
đă từng dùng đến để giúp nhân vật Tú
Anh dội một gáo nước lạnh vào ngọn lửa
cănm hờn của Long trong Giông tố. Cái mới ở
đây là nhân tố tư tưởng ấy đến
nay đă chiếm được địa vị chủ
đạo trong thế giới quan của ông.
Điều đó giải thích v́ sao một con người
vốn sính nói chính trị là thế, một ng̣i bút vốn
hăng hái đề cập đến vấn đề
thời sự xă hội với thái độ dương
đông kích tây là thế mà đến thời kỳ này lại
có thể lặng lẽ ngồi phân tích về những mẩu
tâm lư ca nhân vụn vặt, Hết Lấy Nhau V́ T́nh,
lại đến Ḷng tự ái, hết Cái ghen
đàn ông lại đến Máu mê v.v... hoặc
thản nhiên ngồi viết về những đề tài
chẳng có ư nghĩa xă hội như Đi săn khỉ,
Lấy vợ xấu, Một con chó hay chim chuột...
Một điều khác đáng chú ư trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng thời kỳ này là ông cũng không hay
nói đến cái dâm nữa. Phải chăng Vũ đă
chán cả Frớt và cũng chẳng muốn gây sự làm
ǵ nữa với cái “tai nạn” đó của loài người.
Nhưng nếu như, do đó, chủ nghĩa tự
nhiên muốntừ bỏ ông, th́ một khuynh hướng
sáng tác tiêu cực khác lại đến với ông, có thể
gọi đó là khuynh hướng suy đồi của
văn học tư sản phản động
(...)
1968
Tạp chí văn học, số 3 - 1971
Vũ Trọng Phụng - Con người và tác phẩm,
Nxb. Hội Nhà văn, H., 1994, tr. 278 -296.
|