(...) Vũ Trọng Phụng
là một nhà văn sở trường về phóng sự
dài (...) Những tập xuất sắc nhất của ông
là Kỹ nghệ lấy Tây và Cơm thầy
cơm cô.
(...) Quyển Kỹ nghệ lấy Tây chỉ có giá
trị ở những đoạn tả chân nho nhỏ, ở
những sen đấu khẩu, những sen đánh nhau, những
sen gợi t́nh rất linh hoạt và rất tức cười
của mấy cặp vợ chồng. Ở những
đoạn ấy, đôi khi người ta thấy một
lối tả chân triệt để, làm cho người
đọc có cái cảm tưởng như thấy trước
mắt một cảnh tượng bẩn thỉu, ghê gớm
(chương III - Mày không muốn nhận tao là chồng?
trang 34 -Chương IX - Tư tưởng độc
quyền, trang 112, vân vân)
Cơm thầy cơm cô là một tập phóng sự
về những kẻ làm tôi tớ. Tập này là một
phóng sự hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ng̣i
bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi ông tả
những cảnh nghèo khổ. (...) Trong tập phóng sự
này, họ Vũ tự đóng một vai đứa ở,
cũng như Tam Lang đă tự nhận ḿnh là một
chân xe hàng. Nhờ đóng một vai đứa ở, nên
cái việc kháo chuyện chủ nhà với bọn “cơm
thầy cơm cô” hóa ra một chuyện dễ, và cũng
nhờ đấy, câu chuyện hóa ra đằm thắm,
thân mật, như những chuyện nói xấu chủ nhà
của anh chàng Gil Blas. Nhà này chủ ác nghiệt, nhà kia chủ
có con gái hư, nhà kia ông chủ biển lận. Thật
không bao giờ hết chuyện. Tác giả có thể viết
dài nữa về chỗ đứa ở kháo chuyện chủ
nhà, nhưng tác giả đă muốn dè dặt, có lẽ v́
chính ḿnh cũng là... một ông chủ.
Chương VII (Bi hài kịch) trong quyển Cơm
thầy cơm cô là một chương tuyệt hay.
Vui buồn, đủ cả, linh hoạt vô cùng và cũng
thảm thiết vô cùng. Đây là mấy điệu chèo cổ,
rồi kia là đám thính giả nheo nhóc và khốn nạn,
rồi nào cái cảnh thảm thương của con sen
động kinh, câu chuyện của anh đầu trọc,
của thằng bé ho lao, của bà cụ già, rồi lại
chuyện lính mật thám đến bắt, thật là
đủ cách, đủ tṛ, việc dồn dập một
cách tuần tự và mạnh mẽ. Chỉ mười một
trang giấy mà biết bao t́nh nhân loại, biết bao nỗi
thương tâm (...)
Lục ś là một cuộc điều tra về nạn
măi dâm ở Hà Nội, hay là một thiên nghị luận về
nghề măi dâm theo những giấy tờ của chính phủ
th́ đúng hơn là một thiên phóng sự.
Cuộc điều tra này lại chỉ ở trong phạm
vi đề pḥng cứu chữa và trừng trị, nên tác
giả chọn hai chữ “Lục ś” làm nhan quyển sách.
Nhà Lục ś ở Hà Nội, theo ư tác giả, tuy là nơi
chữa thí, nơi dạy dỗ không lấy tiền cho
vài trăm “gái có giấy” nhưng nhà ấy đành chịu
bó tay trước hàng bốn năm ngh́n “gái” đi ngang về
tắt. (...)
Cây bút của Vũ Trọng Phụng trong những năm
đầu là một cây bút phóng sự, một cây bút phóng sự
sắc sảo và khôn ngoan, sau ông luyện ra nó một cây
bút tiểu thuyết, nhưng cái giọng phóng sự vẫn
c̣n.
(...) Khi Giông tố của Vũ Trọng Phụng mới
ra đời với cái nhan đề cũ là Thị Mịch,
(...) người ta bảo: tiểu thuyết ấy chỉ
hay ở chỗ gợi ḷng dâm dục (...) Những lời
phê b́nh nghiêm khắc của người ta hồi đó
đă gợi tính ṭ ṃ của tôi, làm cho tôi phải t́m tập
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng mà đọc.
Cái đoạn tôi đọc hồi đó là đoạn
Thị Mịch đă về nhà riêng Nghị Hách, đă bị
lăo bỏ lửng, mặc nàng ôm bụng chửa mà buồn
rầu tựa cửa sổ, đứng nh́n trên gác xuống
đường. Rồi từ một cô gái thơ ngây, Mịch
đă hóa ra một người đàn bà oán giận, muốn
tưởng tượng cho ḿnh một cảnh gian díu với
những khách qua đường để báo thù lại kẻ
đă đầy đọa tấm thân ḿnh.
Cái đoạn ấy là một đoạn thật hay.
Trước khi đưa ta đến cái việc sắp
xảy ra (việc Mịch hiến thân cho Long), tác giả
đă mở bộ óc của Mịch cho ta trông thấy, chẳng
khác nào một người thợ mở cho ta xem các bánh xe
và ống dẫn hơi nước, trước khi chỉ
cho ta thấy cái động cơ ở ngoài.
Đến khi quyển Giông tố ra đời, tôi
đă đọc từ đầu đến cuối và
thấy cái đoạn tôi vừa kể, tác giả là một
đồ đệ của Freud. Tác giả tả Thị
Mịch một cách vừa giản dị, vừa tỷ mỷ.
Một cô gái quê khỏe mạnh, vốn nhà nghèo, đă “biết
mùi đời” trong một chiếc xe ḥm kín đáo, bây giờ
lại sa vào cảnh nhàn hạ và phong lưu, cái cảnh
làm cho khối óc non nớt dễ mơ tưởng đến
những điều dâm dục. Freud chả ví t́nh dục
của người ta với một sự đói khát
ăn uống là ǵ? Thị Mịch chính là kẻ đói
khát về đường t́nh đó.
Nhưng chỉ có riêng về đoạn ấy, không đủ
rơ cái giá trị của Giông tố. Quyển tiểu
thuyết của Vũ Trọng Phụng làm cho người
ta thấy rơ ảnh hưởng mạnh mẽ của
hoàn cảnh là nhường nào! V́ hoàn cảnh gia đ́nh,
v́ hoàn cảnh xă hội, hai kẻ vốn tính hiền lành
và ngay thẳng như Mịch và Long, rút cục đă trở
nên người đàn bà bất chính và một thiếu
niên hư hỏng. Ấy là chưa kể Long là một kẻ
đau khổ nhất v́ hoàn cảnh... Đọc chuyện
Vũ Trọng Phụng người ta thấy mọi việc
liên tiếp một cách rất tự nhiên. Đó là tất
cả cái tài dàn cảnh của tác giả.
Tác giả lập chuyện rất khéo, từ cái xă hội
“xôi thịt” mục nát ở thôn quê, đến cái xă hội
“sâm banh x́ gà” ở thành thị, từ cái óc bủn xỉn
của anh đồ kiết cho đến cái thói hoang tàn
của anh trọc phú, ta thấy đầy những ngu dốt,
mê tín, bất công, mà vai tṛ nào cũng đều có mặt.
Cái vai Long tôi đă cho là không được tự nhiên
trong khi chưa đọc hết chuyện, nhưng trong mấy
đoạn cuối, tác giả làm cho chàng hóa ra một kẻ
chơi bời, không thiết đến gia đ́nh, rồi
sau đến phải tự tử. Một kẻ vốn
lương thiện, vốn đạo đức như
Long mà phải ở vào cái cảnh đáng ghét như thế,
đành mặc việc đời xô đẩy ḿnh một
cách bất ngờ như thế, nếu chẳng chơi
bời th́ sống làm sao được. Cái lúc chàng tỉnh
mộng là lúc chàng quyên sinh.
Giông tố là một tiểu thuyết đúc trong một
luân lư sâu xa trên một nền gia đ́nh và xă hội thật
đầy đủ. Ta chả thấy đủ các vai
trong gia đ́nh là ǵ? Rồi ngoài xă hội ta thấy một
vị quan ngay thẳng, một tay mọt dân nhảy lên
đến tột bậc trong quan trường, một
thiếu niên trí thức, vài cô thiếu nữ tân thời với
cái thói đua chen dí dỏm, một thằng con bán trời
không văn tự, những cảnh trụy lạc trong
làng bẹp, trong xóm yên hoa, một tay “cách mệnh”, một
lũ dân đen, một nhóm thợ thuyền, ấy là
chưa kể Thị Mịch, Long và nghị Hách, những
kẻ có thể làm tiêu biểu cho nhiều người
trong xă hội.
Ngoài b́a quyển sách, tác giả đề là “Xă hội tiểu
thuyết”. Nhưng nếu theo ư kiến của các nhà phê
b́nh Âu tây th́ “xă hội tiểu thuyết” là loại thiểu
thuyết viết rặt về cảnh lầm than, vất
vả của thợ thuyền và dân quê. Giông tố
không phải tiểu thuyết loại ấy. Nó chỉ là
một tập tiểu thuyết về phong tục thôi.
Những nhân vật trong tiểu thuyết Giông tố
đáng lư ra nhiều chỗ phải được tả
bằng những nét bút năo nùng cho hợp với cảnh
thê lương của họ, th́ lại hiện dưới
những nét bút sắc sảo quá, dưới những nét
phóng sự mà chủ ư gây cho người đọc mối
căm hờn đối với những sự bất
công. Về đường nghệ thuật, có lẽ chỗ
ấy là chỗ sút kém trong Giông tố.
Nhưng nếu xét một cách tương đối, quyển
Giông tố cũng đáng kể vào số tiểu
thuyết có giá trị của chúng ta ngày nay.
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là
một quyển tiếu thuyết hoạt kê nhưng một
lối hoạt kê không lấy ǵ làm cao cho lắm.
“Xuân tóc đỏ”, một gă nhặt banh ở sân quần
chỉ nhờ ở sự may mắn, ở “số đỏ”
mà thấm thoắt từ phận một gă lang thang trở
nên một tay đắc lực cho một hiệu may tân
thời, rồi dần dần đóng vai “đốc tờ”,
đóng vai diễn giả, đứng lên cải cách Phật
giáo, rồi trở nên một tay cứu quốc, một bậc
vĩ nhân!
Có ai tưởng tượng được rằng trong
một cuộc tranh đấu quần vợt của tuyển
thủ hai nước, nếu tuyển thủ của
nước ḿnh giữ phần thắng th́ nước kia
sẽ khai chiến với nước ḿnh không? Ấy Vũ
Trọng Phụng đă tưởng tượng
được như thế. Cái lối khôi hài của ông
trong Số đỏ là cái lối khôi hài nông nổi,
tuy nhạo đời, nhưng không căn cứ. Nó giông
như lối khôi hài ở một rạp chèo, hay “văn
minh” hơn, nó giống lối khôi hài của mấy vai hề
trên màn bạc.
Đọc Số đỏ không ai nhịn
được cười, người ta cũng phải
cười như nghe mấy vai bông lơn trong một
đám chèo hay xem mấy tay tài tử pha tṛ trong một phim
chớp bóng, nhưng không phải cái cười thú vị
và thấm thía như ta đọc hài kịch của
Molière.
Những đoạn tức cười như đoạn
các nhân viên sở Cẩm phạt lẫn nhau, đoạn
Xuân chữa thuốc cho cụ Cố, đoạn Xuân ứng
khẩu một bài thơ, đoạn Xuân nhét những tờ
giấy nguy hiểm vài túi quần hai nhà vô địch
tennit để rồi giữ giải quán quân, đều
là những đoạn nông nổi, tuy làm cho người
ta phải cười, nhưng chỉ có một lần
thôi, v́ nó là những việc không “đứng” được.
Trong Số đỏ cũng như trong những tiểu
thuyết khác của Vũ Trọng Phụng, tác giả
tin ở thuyết t́nh dục quá, sự tin ấy đôi
khi đàn áp cả mọi xét đoán của ông, làm cho mỗi
khi gặp một “ca” khó hiểu, ông lại đem thuyết
ấy ra giải quyết.
(...) Cái thuyết của Freud không phải hoàn toàn đúng cả,
vậy nếu lại tin ở thuyết t́nh dục một
cách thiên vị, không khỏi có sự sai lầm.
Riêng về mặt tả chân, ng̣i bút của Vũ Trọng
Phụng thật tuyệt. Có những sen con con, ông tả
khéo vô cùng. Đây là một gă nhặt banh ở sân quần
đùa cợt nhả với một chị hàng mía: (...)
Những sen khác như sen bà Phó Đoan xem
tướng, sen Xuân đưa Tuyết vào nhà bà Phó
Đoan một buổi sớm và tiếp đến sen
cưỡng bức đều là những sen tả
rất đúng. Có thể coi là những sen tả
chân triệt để.
Nhưng đọc quyển Số đỏ
người ta thấy tư tưởng ǵ của tác giả?
- Tư tưởng thủ cựu. Trong cả quyển
sách, những chỗ nhạo cái mới, chế giễu những
phong trào cấp tiến đều đầy dẫy. Ông
nhạo báng, chế giễu một cách hằn học những
cái mới, những cái mà người đời cho là tiến
bộ, nhưng ông không hề đề xướng lên một
luân lư nào nên theo cả. Trong quyển Số đỏ,
ông là một người “phản động”, cái tên mà những
người “khuynh tả” thường dùng để chỉ
những người không đồng ư kiến với họ.
(...) Làm đĩ cũng là một tiểu thuyết
mà Vũ Trọng Phụng dùng chủ nghĩa t́nh dục của
Freud làm nền tảng. Nhưng v́ muốn hơn Giông tố
một bực, nên ngoài sự phân tích ái t́nh mà tác giả
cho nó một nghĩa hẹp là dâm, tác giả muốn “t́m một
nền luân lư cho sự dâm và giáo hóa cho thiếu niên biết
rơ t́nh dục là ǵ”(Thay lời tựa, Làm đĩ,
trang 11). Trong khi đưa chúng ta vào mấy bụi cây và
pḥng ngủ để nh́n cho rơ cái dâm của loài người
với hết cả mọi sự suồng să, tác giả
lại khoác áo nhà mô phạm và giảng giải cho chúng ta
biết sự rùng rợn của những việc về
xác thịt. Như vậy, thật là khó, v́ hai sự hành
động ấy không đi đôi được với
nhau. Vũ Trọng Phụng có can đảm hô hào,
nhưng ông không đạt tới mục đích. Muốn
đem vấn đề “nam nữ giao hợp giảng cho
tuổi trẻ”, mà hạng tuổi trẻ này là hạng
chín mười tuổi cho đến mười lăm,
mười sáu. Nhưng tôi dám chắc tác giả chỉ viết
trên giấy thôi, chứ không bao giờ dám thực hành.
Cái khuynh hướng quá thiên của ông về tính giáo dục
làm cho quyển tiểu thuyết tả chân của ông kém hẳn
đi. V́ giảng giải một chuyện t́nh theo khoa học
trong một quyển tiểu thuyết là một việc
nhà văn khó ḷng làm được.
(...) Quyển Làm đĩ c̣n một cái nhược
điểm này làm cho người đọc mất cả
hứng thú, tác giả đă dồn chứa đủ tất
cả các việc làm cho Huyền nhất định phải
sa vào ṿng trụy lạc, không c̣n sức ǵ để chống
đỡ cả. Tác giả tả Huyền là một cô
gái dâm dục, rồi từ chín tuổi trở đi, mỗi
ngày nàng một bị sa ngă, như bị lăn trên dốc
xuống vực sâu, không c̣n bám bíu vào đâu được:
Nào hết gặp thằng Ngôn ranh mănh trong lúc thơ ngây,
đến gặo người anh họ đến trọ
học trong lúc gia đ́nh suy đốn, đến lúc lấy
chồng, chồng lại mắc sẵn bệnh giang mai
đồng thời chồng nàng lại có một người
bạn rất lịch sự, đẹp trai vừa giàu
tiền vừa giàu trí, rồi đến lúc dan díu với
bạn chồng và việc thông dâm vỡ lở, th́ người
bạn ấy lại bỏ đi phương khác, làm cho
nàng phải theo mà không gặp, đến nỗi tiền
hết và phải hiến thân cho khách làng chơi để
sống qua ngày. Khi các ông thấy một vật ǵ lăn
trên một dốc thẳng băng, không có một chỗ
nào mấp mô hay quanh co ngăn cản, tất nhiên các ông
đoán ngay rằng thế nào nó cũng lăn tuột xuống
hố. Vậy đọc quyển Làm đĩ cũng thế,
đến đoạn Huyền lấy phải anh chồng
có sẵn bệnh giang mai và gần nàng lại có thêm anh
chàng đẹp trai và sang trọng, người ta cũng
đoán chắc đời Huyền sẽ kết liễu
như thế nào. Thành ra năm mươi trang gần
như thừa.
Có một đoạn làm cho khi mới đọc, người
ta phải cảm động, đó là đoạn Huyền
bị chồng hành hạ và biết hối quá. Nhưng
xét cho kỹ, một kẻ tội nhân bị xích chân và bị
cùm kẹp, rồi mới chịu đi đập đá
th́ cũng không lấy ǵ làm lạ.
Thật ra Huyền chỉ là một “ca” đặc biệt.
Nếu căn cứ hết cả vào Huyền để
giảng giải cái dục t́nh chung của tất cả
các phụ nữ th́ rất sai. V́ không thể căn cứ
vào một việc đặc biệt để rút lấy
một phương pháp giáo dục chung được. Vả
lại, vệc giáo dục con gái ở như sự ǵn giữ
họ, chứ không phải ở như sự giảng giải
cho họ biết việc nam nữ giao hợp. Đến
thời kỳ biết họ sẽ biết, cái biết
do ở bản năng, như tôi đă nói trên. Theo sự
xét nhận của các nhà giáo dục, nếu giữ ǵn cho
người đàn bà được đến năm
25-26 tuổi - sự ǵn giữ này phải là sự ǵn giữ
âu yếm của người mẹ hay người chồng
- th́ không c̣n lo ngại mấy, v́ tuổi này là tuổi
thành nhân của đàn bà.
Cũng như những quyển khác của Vũ Trọng
Phụng, quyển Làm đĩ cũng có những
đoạn tả người tả cảnh thú vị, tỏ
ra tác giả là một người lịch duyệt việc
đời, đă từng băn khoăn về những
điều trông thấy (...)
*
Người ta bảo những người ngực
yếu phần nhiều là những người dâm dục.
Vũ Trọng Phụng cũng thuộc về cái “ca” ấy.
Trong tất cả các văn phẩm của ông, dù là phóng sự
hay tiểu thuyết, bao giờ ông cũng bị ư tưởng
dâm dục ám ảnh. Từ Kỹ nghệ lấy
Tây cho đến Lấy nhau v́ t́nh, không một
phóng sự nào không một tiểu thuyết nào của ông
là không có những chuyện hiếp dâm với những ảnh
hưởng tai hại của nó. Ông tin ở chủ nghĩa
tính dục một cách thái quá và tưởng rằng bất
kỳ việc ǵ ở đời cũng có thể đem
chủ nghĩa ấy ra giảng giải: bởi thế
cho nên nhiều khi xét đoán rất sai lầm.
Người ta sở dĩ ham đọc văn ông là v́ ngọn
bút tả chân của ông. Ngọn bút ấy thật là sắc
sảo, nó tả như vẽ, chỉ vài ba nét người
ta đă h́nh dung được những cảnh vật mà
tác giả định tả với những màu sắc
linh động vô cùng. Nếu chỉ đứng về mặt
tả chân đừng xen lẫn những ư kiến về
luân lư, về giáo dục vào, có lẽ tiểu thuyết của
Vũ Trọng Phụng sẽ là những tập văn rất
giá trị. Nhưng ông đă đi lạc đường
và ông đă sớm khuất, không kịp trông cậy vào thời
gian để sửa chữa.
Về phóng sự, những sự bừa băi, những
điều giảng giải nhiều khi có thể tha thứ,
nên về phóng sự ông thành công hơn là về tiểu
thuyết.
Tuy đời văn của ông ngắn ngủi (ông mất
chưa đầy ba mươi tuổi) nhưng ông đă
để lại một lối văn riêng, gây nên
được nhiều đồ đệ, trong số
đó có người gần được như thầy.
Ông là một người không ưa những sự đổi
mới, những tư tưởng cấp tiến,
nhưng ông cũng không phải người xu nịnh kẻ
quyền quư hay tán dương những sự giàu sang. Ông
là một nhà văn không thiên về chính trị và không thuộc
một đảng phái nào. Bảo ông có óc bảo thủ,
cũng khí quá, v́ thật ra ông chỉ ưa những sự
phải chăng. Đối với giàu sang, ông thường
hằn học, thường tả bằng nét bút căm hờn,
đối với những cái ngu dại, kém hèn của hạng
b́nh dân, ông thường tả bằng những nét bút tai
ác, tàn nhẫn, vậy ai có thể bảo ông có óc b́nh dân
hay quư phái được? Ông chỉ theo lương chi mà
viết, đôi khi theo cả bản năng mà viết nữa,
nên có lúc th́ rất hợp lẽ phải và có lúc thật
là thiên vị, làm cho người đọc phải ngạc
nhiên.
Người ta ham độc ông c̣n v́ những tư tưởng
trào lộng của ông nữa. Ông mỉa đời một
cách cay độc, coi đời như một tṛ múa rối
và điều thú vị là ông biết chính ḿnh cũng phải
đóng một vai tṛ như tất cả mọi người.
Về phần ông, tấn tuồng đă xong rồi (1),
ông có thể hoàn toàn sung sướng, v́ cái vai tṛ về
đường trí thức và tinh thần của ông, tuy
ông đóng không bền, mà đă lỗi lạc hơn nhiều
người múa may từ lâu trên sân khấu.
--------
(1) La farce est jouée - Rábelais
Trích sách NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI. Quyển ba.
Nxb. Tân Dân, 1942.
Vũ Trọng Phụng - con người và tác phẩm,
Nguyễn Hoàng Khung - Lại Nguyên Ân sưu tầm
và biên soạn, Nxb. Hội Nhà văn, H., 1994., tr. 140-150.
|