Loạt
bài kỷ niệm 65 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng
(13/10/1939 - 13/10/2004) * Lời Giới Thiệu: Trong nền văn nghệ Việt Nam trải dài xưa nay, tạm nêu từ giai đoạn khởi từ đầu thế kỷ 20 tới giờ, ngoài nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng đă được giới hữu trách... và công chúng vinh danh tên tuổi, sự nghiệp từ nhiều chục năm qua, hiện có Nhà văn Vũ Trọng Phụng đang được nhà nước vinh danh trở lại. Nói tới Nhà Văn đă có công đóng góp cho văn học nước nhà những tác phẩm hiện thực giá trị: Giông Tố, Số Đỏ, Vỡ Đê, Làm Đĩ, Cơm Thầy Cơm Cô, v.v... mà nay giới hữu trách mới cho trả lại Ông Quyền Đứng Đúng Vị Trí Trên Văn Đàn Nước Nhà, th́ hẳn bạn đọc đă hiểu Nhà Văn bị "đời" ngược đăi lâu thật. Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu liên quan tới thân thế, tư tưởng và sự nghiệp của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng mà sưu t́m "cái sự "bỏ quên" rồi lại vinh danh" ông ra sao, chúng tôi trích đăng những bài viết của nhiều nhân vật nổi tiếng xưa nay bàn về Nhà Văn. Trong khi đăng tải lại những bài này, chúng tôi xin được kính lỗi với các đồng nghiệp Website http://evan.vnexpress.net/ Trân trọng Nước Đức 15.10.2004 TX.Triệu Nguyễn Văn Đạm: Đôi điều kể
thêm về Vũ Trọng Phụng |
|
|
(Lại Nguyên Ân ghi) ... Mùa hạ vừa qua chị có hỏi tôi
những ư kiến của tôi về thể phóng sự, tôi
vẫn tiếp tục viết tiểu thuyết? Nguyên
nhân nào dẫn tôi đến phóng sự ư? Và tôi nhằm
những đối tượng nào? Hôm ấy ta vội đi Hà Tiên rồi mải
chơi quên đi nên đến tận hôm nay tôi mới trả
lời. Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể
văn gần nhau. Phóng sự là một thiên chuyện kể
với cơ sở là những điều mà nhà báo đă
từng mắt thấy tai nghe, trừ phi là một thiên
“phóng sự trong buồng”, nhà báo nghe người ta kể
lại cái mà ḿnh chưa biết bằng tai và bằng mắt.
Tôi hết sức tránh cái kiểu viết phóng sự
như vậy. Người viết tiểu thuyết
“tŕnh bày” các sự việc thu nhận được - có
thể từ phóng sự và cho các sự việc tác động
vào nhau đến thành một “nút” để rồi đến
phần cuối tác phẩm “cởi” cái nút ấy ra sao cho
tiểu thuyết là một chỉnh thể, kết quả
của công cuộc sáng tạo. Cho đến nay tôi vẫn
đi con đường viết tiểu thuyết như
vậy. Tôi có tưởng tượng chăng th́ chỉ
là trong việc sắp xếp các chi tiết, c̣n các sự
việc th́ đều đă diễn ra giữa bạch nhật,
dưới thanh thiên. Mỗi cuốn tiểu thuyết,
theo tôi quan niệm, là một bản mô tả hay một
thiên phóng sự thuật lại những sự việc mà
những nhân vật này nọ gây ra hay phải chịu
đựng và bao hàm một ư (mà tôi tạm gọi là một
đề). Hiện nay tôi đang đọc lại bản
thảo một quyển tiểu thuyết mà đề là
con người hư hỏng v́ đồng tiền kiếm
được đột ngột, nhanh và quá dễ dàng; mặt
khác tôi cũng đă đặt dưới tên Cạm bẫy
người ḍng sous - titre “phóng sự tiểu thuyết”. Nguyên nhân nào dẫn tôi đến thể
phóng sự? Năm tôi 21 tuổi thể hiện trong tôi một
ư nghĩ ngày một rơ nét hơn qua một thời gian dài:
con người thường ngại nh́n vào nỗi đau
của người khác và luôn luôn muốn gạt bỏ ra
khỏi trí nhớ của ḿnh những kỷ niệm buồn,
như ở tôi, những h́nh ảnh thời thơ ấu.
Tôi đă mang lấy nghiệp văn chương và
càng trưởng thành tôi càng cảm thấy trong xă hội
nhiều nỗi đau dằn vặt con người trong
thể xác và trong tâm hồn. Cái hố ngăn
cách người nghèo và người giàu ngày càng rộng và
sâu, tà áo lụa của cô tiểu thư vẫn nguyền
rủa những làn gió làm cho nó nhiễm bẩn khi thổi
cho nó quệt phải cái váy đụp của bà lăo nhà quê,
các bàn tiệc vẫn phủ quá kỹ càng thảm cảnh
đói nghèo triền miên. Tôi cũng đă được
tin nhà diêm Hà Nội dự định tuyển vào làm những
trẻ em đang lớn lên, tự ḿnh v́ thiếu ăn
thiếu mặc mà xin được giam vào trước
những cỗ máy để bản thân ḿnh cũng biến
thành những cỗ máy lặp lại mỗi ngày hàng chục
ngàn lần một cử động, những kẻ vô tội
được nhốt trong đề lao, “những thiên
thần trong địa ngục” như người
phương Tây thường nói. Ở ngoài Bắc t́nh
trạng này c̣n trầm trọng hơn ở trong Nam. Văn chương chỉ là một món tiêu
khiển nếu nó than mây khóc gió. Tôi quan niệm văn
chương là một phương tiện tranh đấu
của những người cầm bút muốn loại khỏi
xă hội con người những nỗi bất công, nhen
lên trong ḷng người nỗi xót thương đối
với kẻ bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ
yếu, kẻ bị đầy đọa và cảnh ngu
tối, bị bóc lột, mỗi ngày kiếm ra đủ
bữa ăn tối để nhịn ăn sáng hôm sau.
Tôi sẽ cố gắng nh́n vào những nỗi đau khổ
của xă hội, may ra t́m được những
phương thuốc khiến những cái ung đó có thể
hàn miệng lên da. Tôi có ghi được câu sau đây của
một nhà hiền triết thời nay: “Cuộc sống của
chúng ta có thể ví được với một ngọn
lửa. Muốn
cháy sáng, cháy to, ngọn lửa phải cháy lan ra. Cuộc sống
của con người chỉ thực có ư nghĩa khi ta
phá vỡ cái vỏ cá nhân để sống cả v́
người khác. Mỗi khi cầm bút tôi lại tự nhắc
nhủ tôi làm theo lời răn dạy cao thượng ấy.” Tôi đă
nhận được của anh chị gửi cho hai tập
phóng sự Terre d’ébène và Le chemin de Buenos-Aires của
Albert Londres (1), nếu mua được ở Sài
G̣n anh chị gửi cho tôi quyển La Traite des Lanches cũng
của tác giả ấy. Tôi đă nhận được
phóng sự À l’ombre de la Croix gammée (2) của
Xavier de Hautecloque, tôi đọc được mươi
trang rồi bỏ v́ tôi cũng chẳng muốn biết
ǵ về những dự định chiến tranh của
Hitler... Chú thích: (1) Albert
Londres - Nhà báo Pháp có tài, bị chết trên chiếc tàu biển
bị đốt cháy ở Hồng Hải trên đường
từ Thượng Hải về Pháp. Terre d’ebrène (Xứ
gỗ mun). Le Chemin de Buenos - Aires (Đường
đi Buenos - Aires), hai phóng sự về buôn bán nô lệ da
đen ở Nam Mỹ. La traite des Blanches (Việc buôn
bán phụ nữ da trắng), phóng sự về việc
bán phụ nữ Âu Châu sang Nam Mỹ làm gái điếm. (2) À
L’ombre de la Croix gammée (Dưới bóng chữ thập ngoặc) Trích
thư Vũ Trọng Phụng viết tháng 10/1936 Bạn Đ và bạn Kh
rất thân, Chị
Khuê hỏi tôi về hoàn cảnh đă dẫn tôi vào nghề
phóng sự. Chưa trả lời được cho mọi
cuộc điều tra mà tôi đă tiến hành, tôi hăy gửi
anh chị hồi âm riêng cho Cơm thày cơm cô. Đă một
dạo chúng tôi ở tầng gác một căn nhà mà ông giáo
Toàn thuê tầng dưới cho gia đ́nh ông, hai vợ chồng,
bốn cháu nhỏ lắt nhắt như nhau và một bà cụ
hồi ấy hơn sáu mươi. Bà săn
sóc, bế bồng thằng cu Đông, cháu bé nhất, lúc
đó mới được mười tháng, không kém ǵ những
năm trước, c̣n có sức hơn, bà nuôi nấng hai
chị nó và anh nó. Lần nào thấy thằng cu Đông mỗi
ngày lại mập mạp hơn, cũng như anh chị
nó và anh nó sạch sẽ, nói năng đúng lễ phép
hơn... tôi lại có ư nghĩ: các cháu được
chăm sóc dạy dỗ như thế thảo nào chẳng
khỏe mạnh, sáng dạ, ngoan ngoăn;
thật may cho các cháu là c̣n có bà. Nhưng
không. Ông giáo Toàn kể cho tôi tâm sự của ông: “Chúng tôi
bao giờ cũng coi bà cụ Mía như mẹ. Trước
kia, mẹ đẻ tôi, để rảnh tay đi buôn
bán, đă mướn bà và trông nom tôi. Dù trí nhớ của
tôi có lùi sâu vào thời kỳ nào trong dĩ văng tôi vẫn
thấy h́nh ảnh bà trong buổi thơ ấu và lúc thiếu
thời của tôi. Theo lời mẹ tôi kể lại, tôi
được biết rằng bà nâng niu tôi trong khi
đang chờ đợi lập gia đ́nh để rồi
âu yếm những đứa trẻ mà chính bà sinh ra. Tiếc
thay, mọi việc gia thất đều không thành, bà buộc
phải rẽ một bước ngoặt; bà lấy hạnh
phúc của chúng tôi làm niềm vui của bà, bà khóc những
nỗi đau khổ của chúng tôi và không cầm
được nước mắt khi mẹ tôi nằm xuống,
thầy tôi qua đời.” Từ ngày
ấy tôi để tâm nh́n vào cuộc sống của con
người đă được số phận chỉ
dành cho những thiệt tḥi, thậm chí những đau
thương một đôi khi. Bà c̣n vui vẻ
được chút nào có chăng là các cháu c̣n bé, c̣n quấn
quưt bà, nhưng rồi lớn lên, t́nh cảm phai nhạt dần,
các cháu chỉ coi bà như cái ghế, cái bàn, cần cho
chúng nó khi nó ngồi vào đấy làm bài hay ăn cơm,
nhưng lại cồng kềnh, chiếm mất chỗ
nó đá cầu, đánh bi; có chăng là v́ mỗi năm
vài lần, những dịp tết nhất, bà đỡ từ
tay ông Toàn, bà Toàn một bộ quần áo mới, chẳng
đáng là bao nhiêu, nhưng bà coi là rất quư nên bà gập lại,
trân trọng cất đi để lúc bà buông xuôi hai tay
người ta mặc cho bà; là v́ bà yên trí được
hơi thở cuối cùng ở nơi đây, giữa những
người mà suốt cuộc sống cô đơn trong cảnh
tứ cố vô thân bà coi là những người ruột
thịt. Bà Mía thuộc
loại người mà ta gọi với một giọng
khinh miệt bằng cái tên “người ở”. Đó là những
trẻ em hoặc những thiếu niên đáng lư phải
đi học th́ lại v́ thiếu ăn
mà phải phiêu lưu từ thôn quê ra thành thị để
hầu hạ kẻ cùng tuổi cho học hành tốt
hơn, họa may cơn đói của ḿnh có dịu
được. Đó là những thiếu nữ ra đất
Hà Thành với ư muốn làm ăn lương thiện
nhưng bị những mưu mô xảo quyệt dẫn
bước vào những nơi sa ngă khiến họ chỉ
c̣n biết nuôi miệng bằng cách bán thân. Đó là những
người mẹ mà gia cảnh nheo nhóc thúc giục phải
gạt nước mắt trao con mới lọt ḷng cho mẹ
già nuôi bằng cơm mớm và mang ra Hà Nội bầu sữa
mà mỗi giọt là một giọt vàng để nuôi con
những phu nhân muốn giữ cho bộ ngực cao
được lâu, cho nhan sắc được bền,
dáng đi măi măi kiều diễm. Bà Mía là một
trường hợp đặc biệt. Nếu mọi
người đi ở đều được đối
xử như bà cụ này th́ những cuộc điều
tra mà lúc ấy tôi dự định làm chưa phải là
cần. Tiếc thay, mọi ca khác đều trái ngược
ca này. Tôi kêu gọi
bằng một thiên phóng sự ḷng nhân ái của các ông chủ
bà chủ, để những người hầu hạ kẻ
có tiền may ra được đối xử một
cách dịu dàng hơn; ḷng thương xót con người ở
các hội những nhà từ thiện lập nên để
cưu mang những ai (nói rộng hơn, không riêng ǵ
người đi ở) phải chịu thiếu thốn
đến cả những cái mà khi thiếu sẽ biến
chuyển những t́nh cảm của con người thành
bản năng của con vật; t́nh nhân ái của những
đoàn thể tranh đấu để co hẹp lại
một phần nào khoảng cách giữa những kẻ phải
chịu rét và những kẻ thừa mặc, giữa kẻ
chết đói và kẻ chết no..., tóm lại để
từng bước đưa xă hội ta nhích lại mỗi
ngày một gần hơn cái thế quân b́nh về tài sản
mà ai cũng biết là không bao giờ một xă hội nào
đạt tới. Để tranh đấu về mục
đích này, tôi mong có nhiều nhà báo cùng làm phóng sự với
tôi, về những loại người khác. Chị
Khuê có thể thấy một số chi tiết trong Cơm
thầy cơm cô không phù hợp với những dự
định trên đây; đó là những duyên cớ mà tôi sẽ
tŕnh bầy trong một thứ sau. Anh chị
có sách ǵ gửi ra cho tôi không? Chắc chị Khuê đă nghiền
ngẫm xong Solitudes (1) của Edouard Estaunié.
Tôi ao ước được đọc Le Disciple (2)
của Paul Bourget trong đó tác giả nêu lên trách nhiệm
của nhà văn, nhà tư tưởng, trước thế
hệ mà ḿnh góp phần đào tạo tâm hồn và hun
đúc nên đời sống đạo lư. Một quyển
Anthologie (3) trích từ bài tựa Le Disciple
câu: “Si un jeune homme est poussé au crime par l’influence d’une doctrine
dangereuse ou mal comprise, quelle sera dans son crime la part du maitre dont
il a suivi les leçon?” Thư
đă dài rồi, tôi chỉ c̣n cần nhắc quư vị gửi
ngay ra Bắc cho tôi tin tức và t́nh bạn. Chú thích: (1) Solitudes
- Những cảnh cô đơn, tập truyện ngắn
của nhà văn Pháp Edouard Estaunie (1862-1942) (2) Le
Disciple - Đồ đệ (1889), tiểu thuyết của
nhà văn Pháp Paul Bourget (1852-1935) (3)
Anthologie - tuyển tập. Câu tiếng
Pháp trong thư, tạm dịch: “Nếu một thanh niên bị
đẩy vào tội lỗi do chịu ảnh hưởng
của một học thuyết nguy hiểm hoặc bị
hiểu sai, th́ trong tội lỗi đó đâu là phần
của ông thầy mà anh ta đă học theo?” Trích
thư Vũ Trọng Phụng viết tháng 12/1936 Thân gửi anh chị
Đạm. Tôi muốn
trở lại vấn đề hạnh phúc của con
người mà khi tôi ở chơi trong Các tác giả
từ điển chắc chỉ định nghĩa
được hạnh phúc một cách chung chung: theo tôi muốn
nói được hạnh phúc là ǵ ta phải căn cứ
vào hoàn cảnh riêng của từng người. Về phần
tôi, tôi được hưởng hạnh phúc trước
khi biết cái ǵ làm nên hạnh phúc. Tôi ra đời
chưa được bao lâu th́ mất cha, nhưng mẹ
tôi đă nuôi nấng và dạy dỗ tôi - như sau này lớn
lên tôi c̣n nhớ lại và bà tôi thường kể - với
tất cả tấm ḷng mà một người mẹ có
thể dành cho con mà không v́ đó để sơ suất một
điều ǵ trong việc phụng dưỡng bà tôi. Chia
xẻ mọi t́nh cảm tốt đẹp của ḿnh cho
bà tôi và tôi, mẹ tôi vẫn giữ được ở
bà tôi cũng như trong tôi ḷng thương yêu nguyên vẹn
không chia. Gia sản
chúng tôi không có chút ǵ đáng kể, nhưng không những
không bao giờ chúng tôi phàn nàn cảnh sống nghèo mà chúng
tôi c̣n sống trong hạnh phúc. Người
ta thường lầm tưởng về hạnh phúc và
điều thiện, và nhiều khi người ta cho rằng
nền tảng của hạnh phúc là vàng, tiền, là các
dinh cơ, là ruộng sâu trâu nái, v.v... Tôi cho rằng hạnh
phúc và đạo đức nảy sinh chủ yếu từ
thiện cảm giữa những con người với
nhau, từ những thiện ư của người này
đối với người khác. Hạnh phúc và đạo
đức trong gia đ́nh và trong xă hội đều xuất
phát từ ḷng người; hạnh phúc và đạo đức
lên đến mức độ lư tưởng nếu mỗi
người thực hiện được những lời
kêu gọi mà từ gần hai ngh́n năm nay người
ta vẫn nhắc lại nhưng chưa làm được
là bao: “ Ta hăy yêu thương lẫn nhau”, “Ta hăy nhân ái
như ái kỷ”, “Ta phải lấy cái hay mà đáp lại
cái dở, lấy điều thiện mà đối phó với
điều ác”. Hạnh phúc và đạo đức (tôi muốn
nói đến đạo đức và hạnh phúc thật
sự) không xuất phát từ kỹ thuật xây nhà
năm chục tầng, làm thịt lợn hàng loạt với
tốc độ 16 phút mỗi con, ghi âm nhạc vào đĩa,
“âm nhạc đóng hộp”. ... Hạnh
phúc, đạo đức thực sự nâng cao được
phẩm giá chúng ta, có những cội rễ trong những
t́nh cảm cao đẹp của con người; nếu
nó không xuất phát từ ḷng người th́ nó không thể
có nguồn gốc nào khác.
Tôi
được tiếp xúc với cụ Đạm vào
tháng 10/1992. Lời kể và hai bức thư của ông Phụng
(đề 31/12/1935 và đề tháng 12/1936) mà cụ cho lần
ấy, chúng tôi đă đưa đăng tuần báo Văn
nghệ ở Hà Nội (số 19, ra ngày 8/5/1993). Tư
liệu về cuộc đối đáp giữa ông Phụng
với mấy người Pháp gặp trên đường
phố Sài G̣n và bức thư đề tháng 10/1936 là do cụ
Đạm mới cung cấp gần đây (tháng 8/1993). Nhân việc
in lại các tư liệu này vào sách, chúng tôi xin chân thành cảm
ơn cụ Nguyễn Văn Đạm, cụ bà Đồng
Thị Bích Khuê và bà Tâm con của hai cụ, là những
người đă giữ ǵn và cung cấp các tư liệu
này. Có thể
các bạn trong giới nghiên cứu băn khoăn về
mức độ xác thực của các tư liệu, nhất
là các bức thư... Thiết nghĩ, đây là điều
thường gặp trong việc sưu tầm tài liệu,
khôi phục những văn bản của các thời
đă qua. Để cẩn trọng, xin bạn sử dụng
như những tư liệu tồn nghi, giống như
nhiều trường hợp tương tự. (L.N.Â) |
|