Mục Lục
Lời Nói Đầu "Kiến Văn"... ... . .
Nội Dung Tác Phẩm:
1. Luận về Lá Cờ Việt Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ... . . .
2. Lịch SưÛ Đời Hùng Vương và Một Số Bài Học Rút Ra Nhân Ngày Giỗ Tổ. . . ...
3. Truyền Thống gần Năm Ngàn Năm Văn Hiến của Dân Tộc Việt... ...
4. Truyền Thống Hiếu Thảo và Biết Ơn của Người Việt và Người Bắc Mỹ... . . .
5. T́m Hiểu về Những Ngày Tết và Nghi Thức Thờ Cúng Tổ Tiên...
6. Sự Tích và Ư Nghĩa Tết Đoan Ngọ... .. . .
7. Tết Trung Nguyên...
8. Tết Trung Thu: Nguồn Gốc và Ư Nghĩa... . . .
9. Tết Halloween:
Nguồn Gốc, Phong Tục, và Biện Pháp An Toàn. ...
10. T́m Hiểu về Lễ Giáng
Sinh, Cây Nô En, và Ông Già Nô En... . . .
11. Những Khám Phá về Trí Thông
Minh Con Người...
12. Các Bạn Trẻ Cần Biết
về T́nh Trạng Trí Tuệ Khi Con Người tới Tuổi
Về Già...
13. Khả Năng Nhận Thức
và Thực Hành ở Các Lứa Tuổi 30, 40, 50, 60, và 70...
14. Vấn Đề Giáo Dục Con
Em tại Bắc Mỹ... .
15. Hiện Trạng Cuộc Sống
Con Em Việt Nam ở Hải Ngoại và Nguyên Tắc Giáo Dục
. .
16. Gia Đ́nh: Nền Tảng Của
Việc Giáo Dục Con Em... .
17. Việc Giáo Dục Con Em Theo Tinh
Thần Nhân Bản...
18. Chuyện Đàn Ông Đàn Bà... .
19. Luận Về Vai Tṛ của Phụ
Nữ Việt Nam Trong Việc
Xây Dựng Gia Đ́nh, Cộng
Đồng, và Đất Nước...
20. Văn Pháp Tiếng Việt và Tiến
Tŕnh Viết Văn... .
21. Cú Pháp Tiếng Việt... .
22. Cách Xưng Hô Bằng Tiếng Việt
Áp Dụng Trong Gia Đ́nh... . .
.
23. Cách Xưng Hô Bằng Tiếng Việt
Áp Dụng Ở Ngoài Xă Hội... . . .
24. Bản Chất và Động Lực
Đích Thực của Con Người... .
25. Thực Trạng Cộng Đồng
Người Việt Hải Ngoại và Biện Pháp Xây Dựng...
26. Phải Tiến Tới Việc
Thành Lập Hội Đồng Phục Quốc để Dứt
Khoát Giải Trừ
Chế
Độ Cộng Sản VN Trước Khi Xây Dựng Tự
Do, Dân Chủ, và Nhân Quyền... . . .
27. Từ Cách Mạng Bản Thân
đến Cách Mạng Cứu Dân Dựng Nước... . .
28. Luận về Nhân Bản... . .
..
29. Đạo Phật và Nhân Bản ... . . .
30. Luận về Thiện Aùc...
31. Nghĩa Đích Thực của
Qui Y Tam Bảo...
32. Luận về Bát Nhă... .
33. Việc Liên Quan đến Ngày Từ Giă Cuộc Đời... . ... . .
34. Sống Lâu, Sống Vui, Sống
Khoẻ, và Sống Có Ích... . . .
35. Trà Dư Tửu Hậu... ...
- Tài Liệu Tham Khảo... . ... . .
- Tiểu Sử Khải Chính Phạm
Kim Thư...
Lời
Nói Đầu
Kiến
Văn
Kính thưa quư bạn đọc,
Kiến văn rất quan trọng
trong đời sống chúng ta. Kiến Văn là những
điều ḿnh trông thấy (kiến) và nghe thấy
(văn), tức là sự hiểu biết của ḿnh nhờ
kinh nghiệm thực tế mà có.
Kiến văn cần phải có thời gian và sự
từng trải ở đời mới trau giồi tới
nơi tới chốn được. Nó bao gồm tất
cả tài trí của con người. Tài trí của con người
phần lớn là do sự mẫn tiệp, sự duy nghĩ
nghiên cứu t́m hiểu qua sách vở, và sự chuyên cần
học tập ở nhà trường mà có. Tuy nhiên, tài trí cần
phải nhờ có kiến văn mới trở nên hoàn hảo
được.
Nhân tài có thể là những người
c̣n trẻ (tài không đợi tuổi), nhưng người
có kiến văn rộng th́ thường là những người
từng trải việc đời. Người xưa có
nói “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là vậy.
Ở Việt
Một số người học
giỏi và có bằng cấp cao cứ tưởng rằng
như thế là nhất và tỏ ra khinh đời ngạo
vật. Nhưng thực tế th́ khác hẳn, muốn thành
công và được mọi người kính phục nể
v́, ta c̣n cần có kiến văn quảng bác nữa.
Để thấy kiến văn
quan trọng như thế nào trong đời sống chúng
ta, xin mời các bạn hăy thưởng thức giai thoại
văn chương sau đây:
Ngày xưa có một danh sĩ làm
quan đến chức Tể Tướng của Trung Hoa,
đời Tống Thần Tông, năm 1074 dương lịch.
Đó là Tể Tướng Vương An Thạch
(1021-1086). Vương An Thạch đậu tiến sĩ
năm 21 tuổi, đời Nhân Tông, năm 1041. Ngoài việc
lo cai trị đất nước cho hùng mạnh,
Vương An Thạch c̣n dành th́ giờ để sáng tác
thơ văn. Ông là người đọc nhiều và từng
trải nên kiến văn của ông rất rộng. Cùng thời với Vương An
Thạch c̣n có Tô Thức. Tô Thức (1036-1101) đỗ tiến
sĩ năm 22 tuổi, đời Tống Nhân Tông, năm
1057. Vào năm 1080, Tô Thức bị
giáng làm Đoàn Huyện Phó Sứ tại Hoàng Châu, thuộc
Hồ Bắc. Ở đây, ông cất nhà ở làng Đông
Pha và lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ và đă làm ra
hai bài Tiền và Hậu Xích Bích Phú (1082). Người ta
thường gọi ông là Tô Đông Pha.
Trong những bài thơ quan Tể
Tướng Vương An Thạch làm, có một bài
được viết theo lối thư họa treo ở
sảnh đường. Một hôm, danh sĩ Tô Đông Pha
được mời vào dinh Tể Tướng để
cùng quan Tể Tưởng luận bàn thi thơ và chính sự. Trong khi ngồi chờ để
được quan Tể Tướng tiếp kiến, Tô
Đông Pha nh́n thấy bài thơ này trên vách sảnh
đường. Bài thơ được viết với một
bút pháp rất linh hoạt, niêm luật rất chặt chẽ,
và tứ thơ rất sâu sắc. Tuy nhiên, trong bài thơ này
có hai câu mà họ Tô thấy thật là phi lư như sau: “Minh
Nguyệt sơn đầu khiếu” (Trăng sáng hót đầu
núi) và “Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm” (Chó vàng nằm trong
hoa.). Cứ trong ư của từ
ngữ mà suy th́ họ Tô thấy tại sao mặt trăng
sáng (minh nguyệt) mà lại hót trên đỉnh núi (sơn
đầu khiếu) được và con chó vàng (hoàng khuyển)
sao có thể nằm trong ḷng bông hoa (ngọa hoa tâm)
được? Sau khi suy nghĩ, họ Tô mới nảy ra
ư sửa lại hai câu thơ này như sau: “Minh Nguyệt
sơn đầu chiếu” (Trăng sáng soi đầu núi)
và “Hoàng Khuyển ngọa hoa âm” (Chó vàng nằm dưới
bóng bông hoa). Sửa hai câu
thơ xong, họ Tô cảm thấy thật đắc ư v́
chỉ sửa có hai chữ (khiếu thành chiếu và tâm
thành âm) mà hai câu thơ lại rơ hẳn ư nghĩa ra và vẫn
giữ được nguyên vận
của bài thơ. Theo họ Tô th́ mặt trăng sáng (minh
nguyệt) đi với động từ chiếu mới
đắc ư v́ trăng sáng th́ chiếu chứ không bao giờ
khiếu được, c̣n hoàng khuyển tức là con chó
vàng th́ phải nằm dưới bóng của bông hoa (hoa âm)
mới có lư chứ không thể nào con chó lại nằm trong
ḷng bông hoa (hoa tâm) được. Chữ âm trong nghĩa của
hoa âm là chỗ không có ánh nắng mặt trời.
Đang mải mê với sáng kiến
của ḿnh, họ Tô rất hứng khởi khi thấy quan
Tể Tướng bước vào sảnh đường.
Sau khi chào hỏi và phân ngôi chủ khách, Tô Đông Pha có ngỏ
ư với quan Tể Tướng Vương An Thạch về
việc sửa hai câu thơ nói ở trên. Quan Tể Tướng
cười và gật gù tỏ ra ưng ư. Sau đó ngài không
nói thêm ǵ về hai câu thơ này cả mà chỉ cùng Tô
Đông Pha đàm luận về quốc sự.
Khoảng nửa tháng sau khi gặp
Tể Tướng Vương An Thạch, Tô Đông Pha nhận
được lệnh đi trấn thủ ở miền
T́m hiểu chỉ để thỏa
măn sự ṭ ṃ của ḿnh chứ Tô Đông Pha cũng chẳng
có ư ǵ khác. Hết thưởng thức tiếng chim hót, họ
Tô lại đi dạo ngắm hoa dưới trăng. Thật
là thú vị khi thấy trong vùng ông trấn đóng có nhiều
loại hoa đóa lớn và hương thơm ngào ngạt.
Ṭ ṃ ngắm mỗi bông hoa, họ Tô nhận thấy đóa
hoa nào cũng có một con sâu to nằm trong ḷng hoa. Ông lấy
làm lạ mới hỏi thăm dân trong vùng về hiện
tượng này. Dân làng cho ông ta biết ở vùng này có loại
sâu tên là Hoàng Khuyển sống bằng cách hút nhụy hoa. V́
thế trong mỗi bông hoa đều có con sâu Hoàng Khuyển.
Nghe đến đây họ Tô mới giật ḿnh và liên
tưởng tới hai câu thơ của Vương An Thạch
mà ông ta đă tự ư sửa.
Với những ǵ đă tai nghe và mắt
thấy ở đây, Tô Đông Pha cảm thấy xấu hổ
về sự suy luận nông nổi của ḿnh khi tự ư sửa
hai câu thơ của Tể Tướng Vương An Thạch
nên đă dâng thư về tạ tội với quan Tể
Tướng. Họ Tô tự nhủ là việc ông ta bị
bổ ra trấn thủ ở miền Nam này là do Tể
Tướng đă cố ư dạy cho ḿnh một bài học
thực tiễn.
Sau đó ít lâu, họ Tô được
triệu về làm quan tại Kinh Đô. Quan Tể Tướng
rất niềm nở tiếp đón Tô Đông Pha. Và từ
đó Tô Đông Pha rất kính phục quan Tể Tướng
cả về tài năng, đức độ, và kiến
văn quảng bác của ngài. Cái thâm thúy của
Vương An Thạch là ông ta không cần phải biện
bạch ǵ với Tô Đông Pha khi họ Tô tự ư sửa
hai câu thơ của ông. Điều tốt nhất là để
cho Tô Đông Pha phải tự ḿnh t́m hiểu bằng cách va
chạm với thực tế. Có thấy mới tin là
đúng. Nghe nói hay đọc được mà biết th́
cái biết đó cũng c̣n mơ hồ.
Quả đúng là tai nghe không bằng
chính mắt ḿnh thấy, thấy không bằng chính ḿnh dự
vào việc luận bàn cho ra nhẽ rồi tự ḿnh thực
hành công việc đă nghe, đă thấy, và đă thảo luận.
Đây cũng là phương giáo dục nhân bản, khoa học,
và tân tiến vậy. Ngày nay, các nhà giáo dục đă và
đang áp dụng phương pháp giáo dục tân tiến
để dạy học tṛ ngay từ lớp mẫu giáo trở lên. Đó là
phương pháp thầy cô hướng dẫn để giúp
trẻ tự t́m ra những điều mà chúng phải học.
Ở các lớp lớn hơn, học tṛ được dạy
cách nghiên cứu và sưu tầm để tự ḿnh t́m ra
những ǵ cần phải học.
Những câu “Ngoài bầu trời này
c̣n có bầu trời khác,” “cao nhân tất hữu cao nhân trị,” “ biển học mênh mông sức
người có hạn,” và “đi một ngày đàng học
một sàng khôn” quả là những bài học về kiến
văn rất thâm thúy vậy.
Có đi ra ngoài và va chạm với đời, ta mới
mở mắt ra được. Phải từng trải,
ta mới hiểu ư nghĩa của cuộc sống.
Cái bất hạnh của người
Việt chúng ta là đă để mất nước vào tay
quân xâm lăng Cộng Sản. Nhưng mặt khác, nhờ
đă đích thân nếm mùi Cộng Sản, ta mới hiểu
bọn chúng vong bản, phi nhân, độc ác, gian tà, táng tận
lương tâm, và đồi bại như thế nào. Biến
cố 30 tháng Tư, 1975 đă làm cho toàn dân Việt ở cả
hai miền Nam Bắc sáng mắt ra. Nhà văn Doăn Quốc Sỹ
đă viết trong tác phẩm Vào Thiền của ông một
câu để đời đại ư là chỉ những ai chịu
hệ lụy của đồng Đô La mới hiểu
đồng Đô La nó ăn ruỗng xương ruỗng tủy
của con cháu họ ra làm sao! Chỉ những ai đă nếm
mùi Cộng Sản mới hiểu rằng quân Cộng Sản bất nhân, bất
nghĩa, tàn bạo, gian ác, phi nhân, và táng tận lương
tâm như thế nào! Lời của Doăn Quốc Sỹ
đă nói lên cái giá trị đích thực của kiến
văn. Thật đúng với tư tưởng của
người xưa chứa đựng trong mấy câu
thơ sau: “Con người là kẻ học nghề,/ Mà thầy
là nỗi ê chề đớn đau,/ Không ai tự biết
ḿnh đâu,/ Nếu chưa từng trải đớn
đau nhiều bề!”
Tài quả có quí thật, nhưng phải
nhờ có kiến văn rộng, ta mới làm cho cái tài của
ḿnh hữu dụng hơn hầu phục vụ cộng
đồng đất nước đắc lực
hơn. Kiến văn giúp cho những điều chúng ta học
hỏi được ở nhà trường trở thành
tinh nhuệ hơn và hữu dụng hơn. Muốn trau giồi kiến
văn, ta phải tham gia mọi sinh hoạt cộng đồng
xă hội, phải dấn thân t́nh nguyện làm việc nghĩa,
phải giao thiệp rộng, và phải đi đây đi
đó khi có khả năng và phương tiện. Người
xưa đă nói “đi một ngày đàng học một sàng
khôn” và “đi cho biết đó biết đây, ở nhà với
mẹ (hay ở nhà với vợ) biết ngày nào khôn” là vậy.
Có ra sinh hoạt với đời ta mới có dịp hiểu
người và sự việc và nhờ đó ta mới có thể
phân biệt được điều hay lẽ phải và
kẻ dở người hay.
Những bài trong tác phẩm Kiến
Văn này là do chúng tôi lấy một số kinh nghiệm về
kiến văn trong suốt cuộc sống gần 70
năm để viết ra. Chúng tôi vẫn biết rằng
kinh nghiệm của mỗi người mỗi khác, nhân
sinh quan của mỗi người mỗi khác, và kiến
văn của mỗi người mỗi khác. Những
điều được tŕnh bày trong tác phẩm này là do sự
góp nhặt những ǵ chúng tôi đă nghe, đă thấy,
đă trải qua, và đă học hỏi được.
Những bài viết trong tác phẩm
này chỉ nên được coi là những tài liệu để
quư độc giả tham khao khi cần đến mà thôi.
Chúng tôi hy vọng tác phẩm này sẽ giúp ích rất nhiều
cho các bạn trẻ trong việc trau giồi kiến
văn, t́m hiểu về phong tục tập quán của
người Việt, có quan niệm chính xác về Phật học,
biết cách giáo dục con cái theo tinh thần nhân bản, hiểu
được tính độc ác gian tà và táng tận
lương tâm của bọn Việt Cộng, xây dựng hạnh
phúc gia đ́nh, trau giồi sức khỏe, và biết làm
cách mạng bản thân cùng cách
mạng cứudân dựng nước nhiên hậu giải
trừ được bọn Việt Cộng để
xây dựng tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt. Đây là điều ước
mong duy nhất của chúng tôi khi viết những bài trong
tác phẩm Kiến Văn này.
Trân trọng,
Toronto, 14 tháng 8,
2001
Khải Chính Phạm
Kim Thư
Luận về Lá
Cờ Việt Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ
Có một số người không hiểu
về lịch sử của lá cờ Việt Nam Tự Do nền
vàng ba sọc đỏ, họ cứ tưởng rằng
lá cờ này mới có từ thời chế độ Việt
Nam Cộng Ḥa. Chính v́ lư do này mà khi có một Phật tử
hỏi vị sư trụ tŕ tại một ngôi chùa ở
Để giúp các Phât tử và toàn thể
đồng bào người Việt hải ngoại hiểu
rơ ư nghĩa và lịch sử của lá cờ Việt Nam Tự
Do, lá cờ truyền thống của dân tộc Việt, hầu
đem hết tâm huyết để bảo vệ lá cờ
này, chúng tôi xin bàn về "Ư
Nghĩa của Màu Sắc Lá Cờ Việt Nam Tự Do Nền
Vàng Ba Sọc Đo,û"
"Nguồn Gốc, Sự H́nh Thành, và Biểu Tượng
Triết Lư của Lá Cờ Việt Nam Tự Do Nền Vàng
Ba Sọc Đỏ," cùng "Ư Nghĩa và Biểu Tượng
Thiêng Liêng của Lá Cờ Việt Nam Tự Do.”
I. Ư Nghĩa của Màu Sắc Lá Cờ
Việt Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ
Lá cờ Việt Nam Tự Do có nền
vàng và ba sọc đỏ. Màu
vàng là màu quốc thổ và cũng là màu da của giống
ṇi Việt
II. Nguồn Gốc, Sự H́nh Thành,
và Biểu Tượng Triết Lư Của Lá Cờ Việt
Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ
Theo như bài "Hồn Nước
Trong Kinh Dịch và Luận Giải Về Lẽ Biến Dịch
của Lá Cờ Việt Nam Quốc Gia" của Học
Giả Việt Chi Nguyễn Hữu Quang đăng trên báo Cộng
Đồng, số 3 tháng 12, 1992, tại Ottawa, Canada, th́ vào
năm 40 Dương Lịch, Hai Bà Trưng đă
“đầu voi phất ngọn cờ Vàng” đem quân
đánh Tô Định lấy được 65 thành tŕ để
lập quốc xưng vương.
Sau này vào thời nhà Nguyễn, triều vua cuối cùng
của nước ta, hai sọc đỏ được
thêm vào lá cờ vàng. Khi chính phủ Trần Trọng Kim cầm
quyền vào năm 1945, một vạch đỏ đứt
giữa được thêm vào giữa hai vạch đỏ
đă có sẵn trên lá cờ vàng tạo thành lá cờ có h́nh
Quẻ Ly Đơn. Tiếp đến, khi về nước
làm Quốc Trưởng vào năm 1948, Cựu Hoàng Bảo
Đại đă cho đổi vạch đứt chính giữa
thành vạch liền tạo thành lá cờ có nền vàng và ba
sọc đỏ giống nhau. Ba vạch đỏ kỳ
này có h́nh Quẻ Kiền. Quẻ Kiền, c̣n gọi là Quẻ
Càn, tượng trưng cho trời
Một tài liệu của Hà Nhân
Văn, bài "Một Giải Pháp Cho VN: Từ Quốc Thống
Đến Cờ Vàng," đăng trên báo Thế Giới
Mới, số 273, ngày 21 tháng 8 năm 1998, cũng giải thích tương tự
là “Bà Trưng phất Ngọn Cờ Vàng” và vua Gia Long
(1802-1820) cũng đă dùng Cờ Vàng làm biểu hiệu cho
quốc gia. Kế đến, đời Vua Khải Định
(1916-1925) có cờ Long Tinh (Tinh là cờ và Long là rồng). Cờ
Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim (1945) bắt
nguồn từ lá cờ vàng thời
Hai Bà (40), cờ vàng đời Gia Long (1802), và cờ Long
Tinh đời Khải Định (1916).
Trong
bài "Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam"
đăng trên một tờ báo mà chúng tôi quên mất
tên, ông Nguyễn Ngọc Huy giải
thích về ư nghĩa của h́nh Quẻ Ly trên lá Cờ Vàng của
thời chính phủ Trần Trọng Kim với đại
ư là Quẻ Ly, một quẻ trong Bát Quái, tượng
trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, và cho văn minh.
Ngoài ra, ông Huy c̣n giải thích thêm là bên trong quẻ Ly hiện
lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một vạch
đứng nối liền hai vạch ấy. Đó là chữ
công trong nghĩa của các từ công nhân và công nghệ, tức
là người thợ và nghề biến chế các tài nguyên
để phục vụ đời sống con người.
V́ thế, Quẻ Ly c̣n hàm ư ca ngợi sự siêng năng cần
mẫn và sự khéo léo của dân tộc Việt
Tuy bắt nguồn từ đời
Hai Bà, năm 40 Dương lịch, tức là cách đây 1961
năm, lá cờ Việt Nam Tự Do chỉ mới
được qui định rơ ràng bằng sắc lệnh
từ năm 1948, tức là cách đây (2001) 53 năm. Thiếu Tướng Nguyễn
Văn Xuân, với tư cách đứng đầu chánh phủ
lâm thời Quốc Gia Việt Nam thời đó đă kư Sắc
Lệnh số 3 ngày 2 tháng 6 năm 1948 để qui định
những tiêu chuẩn về lá quốc kỳ của nước
Việt Nam như sau: “Biểu hiệu Quốc Gia là một
lá cờ nền vàng, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài,
giữa có ba sọc đỏ đi suốt lá cờ, rộng
bằng 1/15 chiều dọc và cũng cách bằng nhau chừng
ấy.”
III. Ư Nghĩa và Biểu Tượng
Thiêng Liêng Của Lá Cờ Việt Nam Tự Do
Cờ Việt Nam Tự Do
được hun đúc bằng khí thiêng trời đất
và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt
gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng
cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái ḥa, và cho sự
thành công vĩnh cửu của giống ṇi Việt
Kể từ năm 40 Tây lịch,
thời Hai Bà, lá cờ Việt Nam Tự Do đă được
cải tiến để có h́nh dạng màu sắc như hiện
nay. Thật qủa là một ư nghĩa cao cả và đáng
được hănh diện. Lá cờ Việt Nam Tự Do
đă thăng trầm với lịch sử oai hùng của
dân tộc, nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho
dân chủ tự do nhân quyền, cho ư chí kiêu hùng của ṇi
giống Việt, cho thái ḥa thịnh trị của muôn dân,
và cho đoàn kết trong việc giữ nước và dựng
nước của tổ tiên ta.
Lá cờ Việt Nam Tự Do không phải
giống như trường hợp lá cờ máu của bọn
Cộng Sản Việt
Lá cờ Việt Nam Tự Do không phải
là của riêng một chế độ hay của riêng một
chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt
Tự Do. Nếu một chế độ nào thối nát,
hay một chính phủ nào làm tay sai cho ngoại bang, th́ Lá Cờ
Việt Nam Tự Do không v́ thế mà bị mang tiếng. Dân
ta phải loại chế độ đó và phải loại
chính phủ đó mà bảo vệ cho màu cờ của tổ
tiên. Nói một cách cụ thể, lá Cờ Việt Nam Tự
Do không phải là lá cờ riêng của chính phủ Bảo
Đại, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, hay của chính
phủ Nguyễn Văn Thiệu sau này. Không thể nào vin
vào lư do là những chính phủ này không c̣n nữa mà ta thờ
ơ với lá Cờ Việt Nam Tự Do nền vàng ba sọc
đỏ được. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là
linh hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ c̣n,
chính nghĩa c̣n. Lá cờ c̣n, tinh thần chiến đấu
c̣n, và lá cờ c̣n, sự nhất trí đoàn kết c̣n v́ nó
là tín bài để chúng ta nhận diện giữa người
Việt Tự Do và bè lũ xâm lăng cộng sản. Chỗ
nào có lá cờ Việt Nam Tự Do th́ chỗ đó có t́nh
thương, có dân chủ, có tự do, và có nhân quyền.
Trong khi chiến đấu với
kẻ địch, lá cờ Việt Nam Tự Do nền vàng
ba sọc đỏ tượng trưng cho chính nghĩa Quốc
Gia. Những ai không chiến đấu dưới lá cờ
này mà lại ca tụng địch quân để làm nản
ḷng binh sĩ sẽ bị chém đầu và kẻ nào thối
lui sẽ bị bắn bỏ. Hiện t́nh của chúng ta ở
hải ngoại là đang trực diện sống c̣n với
quân xâm lăng Cộng Sản tại Việt
Ai bảo bây giờ Cộng Sản Việt
Trong khi chiến đấu với
bọn xâm lăng Cộng Sản, ta phải duy tŕ Lá Cờ
Việt Nam Tự Do cho đến khi thành công. Khi tự do
dân chủ đă thực sự được văn hồi
trên quê hương ta, toàn dân và chính phủ của Việt
Nam Tự Do lúc bấy giờ mới có quyền thay đổi
ǵ th́ thay. Giờ này, đa số nhân dân yêu chuộng tự
do dân chủ, ở trong nước cũng như ở hải
ngoại, mỗi khi nh́n thấy Lá Cờ Việt Nam Tự
Do tức là nh́n thấy vị cứu tinh dân tộc. Hầu
hết các đoàn thể chống Cộng đều công nhận
Lá Cờ Việt Nam Tự Do và coi đó là linh hồn của
đoàn kết và chiến đấu. Bài quốc ca của
Việt Nam Tự Do cũng được coi như thế.
Những cá nhân hay đoàn thể nào
có mưu đồ hợp lưu và ḥa hợp ḥa giải với
Cộng Sản mà chối bỏ Lá Cờ Việt Nam Tự
Do sẽ mắc tội phản bội tổ tiên, vong
ơn bội nghĩa với các chiến sĩ đă chiến
đấu dưới lá cờ này để chống lại
quân xâm lăng Cộng Sản hầu bảo vệ đời
sống của toàn dân Việt trong mấy chục năm
qua. Ngoài ra, họ c̣n mắc tội phản quốc v́
đă làm lợi cho Cộng Sản, làm hại đến
chính nghĩa tiễu trừ Cộng Sản, tự biến
ḿnh thành kẻ thù của các đoàn thể Việt Nam Tự
Do, và cuối cùng sẽ bi bánh xe lịch sử nghiến nát.
Trong bài thơ "V́ Ấu Trĩ," Nguyễn Chí Thiện đă viết
“V́ ấu trĩ thờ ơ u tối,/ V́ muốn an thân và
tiếc máu xương, / Cả nước đă quay về
một mối, /Một mối hận thù một mối
đau thương." Muốn
đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân,
chúng ta phải cố gắng sáng suốt đừng để
vướng vào những hành động ấu trĩ, thờ
ơ, và u tối.
Đừng bao giờ để bọn
Cộng Sản lấy danh quyền lợi bất chính dụ
dỗ chúng ta. Hăy đem hết tâm huyết tài năng và sức
lực để cống hiến cho việc giải trừ
chế độ Cộng Sản. Chúng ta, người Việt
yêu tự do dân chủ, nhân quyền, và chống Cộng Sản,
phải nêu cao ngọn cờ Việt Nam Tự Do và cùng nhau
đoàn kết sau lá cờ này để giải trừ chế
độ Cộng Sản Việt Nam ngơ hầu đem lại
ấm no hạnh phúc và thịnh vượng cho toàn dân.
Chúng ta chỉ loại trừ chế
độ Cộng Sản chứ không loại trừ những
con người đă theo Cộng Sản khi họ biết
thức tỉnh quay về với chính nghĩa tự do.
Chúng ta sẽ tạo hoàn cảnh thuận lợi để
cho những người Cộng Sản thức tỉnh này
cùng chúng ta xây dựng đất nước quê hương
thời hậu cộng sản.
Với lịch sử huy hoàng suốt
gần hai ngàn năm của lá cờ Việt Nam Tự Do nền
vàng ba sọc đỏ, chúng tôi cầu mong lá cờ Nền
Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ rợp bay trên khắp quê
hương Việt Nam ta trong thời gian gần đây.
Lịch SưÛ Đời Hùng
Vương
và Một
Số Bài Học Rút Ra Nhân Ngày Giỗ Tổ
I. Vài Nét Về Lịch Sử Đời
Hùng Vương
Họ thủy tổ của nước
Việt
Kinh Dương Vương lấy
con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ sinh ra Sùng Lăm. Sùng
Lăm nối ngôi cha và xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân
lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, sinh ra một bọc
một trăm trứng nở ra 100 con trai. Sau v́ ḍng dơi Long Quân và ḍng dơi thần
tiên, không ăn ở với nhau lâu được, Âu Cơ
đem 50 con lên núi và Lạc Long Quân đem 50 con xuống miền
biển Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho người con
trưởng làm vua, lấy quốc hiệu là Văn Lang,
xưng là Hùng Vương (Hùng Quốc Vương), đóng
đô ở Phong Châu, thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh
Vĩnh Yên ngày nay. Họ Hông Bàng làm vua được 18
đời, đến năm Quí Măo, tức 257 trước
Tây Lịch kỷ nguyên, th́ bị nhà Thục lấy mất
nước.
Ông vua cuối cùng đời Hùng
Vương là Hùng Tuyền Vương. Từ Kinh
Dương Vương đến đời Hùng
Vương thứ 18, tức là Hùng Tuyền Vương (có
sách chép là Hùng Duệ Vương, hay Hùng Tuấn
Vương), gồm 18 đời, kể cả Kinh
Dương Vương và Lạc Long Quân. Họ Hồng
Bàng trị v́ được 2622 năm kể từ năm
2879 đến năm 257 trước Tây lịch, tức là
cách đây 2258 năm (257+ 2001).
Đền thờ Hùng Vương
hiện nay ở núi Nghĩa Lĩnh, c̣n gọi là Hùng
Sơn, hay núi Nghĩa Lương, thuộc Phong Châu, tỉnh
Vĩnh Phú. Trong đền thờ có khắc tên 18 vị vua
Hùng, từ vua Kinh Dương Vương đến Hùng Tuyền
Vương. Ngày giỗ tổ
được truyền đến nay là ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Người ta thường đi trẩy hội Đền
Hùng ở Phong Châu, Vĩnh Phú, vào ngày này rất náo nhiệt
và vui vẻ. Tuy nhiên, cốt ở ḷng thành và hoàn cảnh,
chúng ta có thể tổ chức giỗ tổ ở bất
cứ nơi nào có con dân Việt và vào trước ngày giỗ hay đúng ngày giỗ đều
được cả. Điều quan trọng là chúng ta phải
nói cho con cháu chúng ta biết về lịch sử Tổ Hùng
Vương và ngày 10 tháng 3 âm lịch
là ngày giỗ tổ là được. Chúng ta c̣n phải giảng
giải cho con cháu chúng ta hiểu rằng “Cây có gốc mới
nảy cành xanh ngọn,/ Nước có nguồn mới bể
rộng sông sâu.”
II. Câu Truyện Rất Điển
H́nh về Truyền Thống Đoàn Kết và Tinh Thần
Xuất Xử của Người Việt Ở Đời
Hùng Vương Thứ 6 : Truyện Phù Đổng Thiên
Vương
Vào đời Hùng Vương thứ
6, Hùng Huy Vương, có giặc Ân rất mạnh, nhà vua sai sứ đi rao truyền
trong nước để t́m người tài ra đánh giặc
giúp nước. Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng
(nay là huyện Vơ Giàng, Bắc Ninh), có cậu bé xin đi
đánh giặc giúp nước. Cậu bé xin vua đúc cho một
con ngựa sắt và một cái roi bằng sắt. Cậu
c̣n xin vua cho ăn thật no trước khi ra đánh giặc.
Nhà vua chấp thuận. Sau đó, dân làng góp sắt, góp gạo,
và thức ăn để đáp ứng những yêu cầu
của cậu bé. Khi ngựa và roi sắt được
đúc xong, cậu bé ăn no nê rồi vươn vai một
cái th́ tự nhiên người cao lớn lên một trượng.
Cậu nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Ngựa phun ra lửa đốt giặc trong khi cậu bé lấy
roi sắt và nhổ tre hai bên đường đánh cho giặc
tan tành.
Phá giặc Ân xong rồi, cậu bé
đi đến núi Sóc Sơn th́ biến đi mất. Vua
nhớ ơn cậu nên truyền lập đền thờ
ở làng Phù Đổng và phong cho cậu là Phù Đổng
Thiên Vương. Hiện nay c̣n có đền thờ ở
làng Gióng, tức là làng Phù Đổng. Hằng năm cứ
đến ngày 8 tháng Tư âm lịch là có hội, tục gọi
là Hội Đức Thành Gióng.
III. Một Số Bài Học Rút Ra
Nhân Ngày Giỗ Tổ
Qua vài nét về Tổ Hùng
Vương và truyện Phù Đổng Thiên Vương, nhân
ngày giỗ tổ, chúng ta có thể rút ra một số bài học
để áp dụng vào đời sống của con dân Việt
hầu làm rạng danh tổ tiên nơi hải ngoại cũng
như góp phần vào sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của tiền nhân.
1. Bài Học Thứ Nhất: Bài Học
Tiên Rồng
Ta vẫn hănh diện là con cháu Tiên Rồng.
Tiên biểu hiện cho ôn nhu, hài ḥa, t́nh cảm hiền hậu,
và vẻ đẹp toàn bích, v.v. Rồng tượng
trưng cho sức mạnh, quyền uy, lư trí, phép tắc, và
luật pháp, v.v. Tiên Rồng là tổng hợp của khôn
ngoan và cường lực, đẹp và khỏe, t́nh và lư
hài ḥa, nghĩa và t́nh khắng khít, v.v. Nhờ vào các đặc tính Tiên Rồng,
con người Việt
2. Bài Học Thứ Hai: Bài Học
Đồng Bào
Ta vẫn thường dùng hai chữ
đồng bào để gọi người Việt với
nhau v́ lấy ư nghĩa một bọc một trăm trứng.
Chỉ có người Việt mới có cách xưng hô này mà
thôi. Chúng ta cần phát huy truyền thống đồng bào
để thương yêu và đùm bọc nhau hơn, nhất
là trong lúc sống ở nơi quê người. Có như thế
chúng ta mới củng cố lại hàng ngũ của
người Việt yêu chuộng tự do hầu kịp thời
đối phó với những độc kế của bọn
Cộng Sản. Tuy nhiên, đối với những kẻ
làm tay sai cho giặc Cộng Sản để hại dân hại
nước, ta phải vạch mặt chỉ tên, nói rơ tội
ác của chúng hầu giúp đồng bào tránh khỏi cạm
bẫy của chúng.
3. Bài Học Thứ Ba: Bài Học
Phù Đổng
Cậu bé phá giặc Ân là tượng
trưng cho tinh thần dân chủ nhân bản cao độ của
nhà vua, các quan, và toàn thể dân chúng. Họ kính trọng nhau,
lắng nghe ư kiến của nhau, rồi cùng nhau hoàn thành sứ
mạng cứu nước. Cậu
bé Phù Đổng c̣n tượng trưng cho tinh thần
đoàn kết chân t́nh cao độ của chính quyền và
toàn thể dân chúng. Nhờ có sự góp sức của gia
đ́nh, các tầng lớp xă hội, và các cấp chính quyền
trong một tinh thần đoàn kết tự nguyện nên
nhà vua mới phá được giặc Ân và giữ ǵn
được bờ cơi. Lửa
ở mồm ngựa sắt phun ra tượng trưng cho
ḷng nhiệt thành của toàn dân. Ngựa và roi sắt tượng
trưng cho ḷng cương quyết sắt đá của
toàn dân. Muôn người như một cho nên thế phá giặc
của ta mới kinh thiên động địa như vậy.
Việc cậu bé Phù Đổng
phá tan giặc Ân rồi biến mất tại núi Sóc Sơn đă thể
hiện tinh thần xuất xử của tổ tiên ta. Khi
đất nước cần đến, tiền nhân ta
t́nh nguyện ra gánh vác trách nhiệm. Khi làm xong phận sự,
tiền ta không tham quyền cố vị hay cậy công mà
làm hư đại sự.
Chúng ta phải làm sao phát huy
được truyền thống tốt đẹp về
tinh thần dân chủ, nhân bản, đoàn kết của tiền
nhân, và nhất là tinh thần xuất xử cao cả để
có thể xây dựng được một cộng đồng
người Việt yêu chuộng tự do thuần nhất
và vững mạnh nơi hải ngoại này hầu góp công
giải thể chế độ Cộng Sản phi nhân ở
trong nước.
IV. Lời Cầu Nguyện Kính Dâng
Quốc Tổ
Chúng con, những người Việt,
v́ nạn Cộng Sản, phải bỏ nước ra
đi t́m tự do. Hôm nay là ngày giỗ Tổ, 10 tháng 3
năm Tân Tỵ (2001), chúng con về tụ họp nơi
đây kính xin Quốc Tổ phù hộ cho chúng con có can đảm
và nghị lực để cư xử với nhau cho có
t́nh có lư, ăn nở với nhau cho được vuông
tṛn, thương yêu nhau trong t́nh huynh đệ đồng
bào, cùng nhau làm việc trong tinh thần dân chủ nhân bản
và đoàn kết đích thực phát xuất tự trong tâm,
và hiểu được bổn phận cùng nghĩa vụ
của con dân Việt trong lúc đất nước đang
bị đọa đầy bởi quân Cộng Sản gian
manh khát máu. Chúng con nguyện sẽ tiếp tục tích cực
phát huy truyền thống tốt đẹp của Tổ
Tiên để làm rạng danh giống ṇi Việt, để
xây dựng một cộng đồng người Việt
tự do hải ngoại thuần nhất và vững mạnh,
và để góp công giải trừ được đại
nạn Cộng Sản đang hoành hành nơi quê nhà. Chúng con sẽ xây dựng quê
hương Việt
Truyền Thống gần Năm Ngàn Năm Văn Hiến của Dân Tộc Việt
Có một số bạn trẻ
đă thổ lộ với chúng tôi là họ không hiểu dân
Việt ta có những truyền thống cụ thể tốt
đẹp như thế nào. Họ chỉ đau xót thấy
nước ta hết bị Tàu rồi đến Pháp đô
hộ, tiếp đến, lại bị bọn tay sai Cộng
Sản quốc tế, tức là bọn Cộng Sản Việt
Nam, một lũ táng tận lương tâm, đă phá hủy
gia tài văn hóa, con người, và đất nước
Việt Nam đến tột cùng.
Loạn và trị là luật của
tạo hóa. Bất cứ nước nào cũng không tránh khỏi
định luật này, lúc th́ cường thịnh khi th́
suy yếu. Mạnh như Liên Bang Sô Viết mà cũng bị
tan ră, cường thịnh như Hợp Chủng Quốc
Hoa Kỳ cũng đang bị tai nạn dân chủ h́nh thức
quá trớn làm cho suy yếu đi. Tuy nhiên, nếu nh́n chung,
ta vẫn thấy mỗi nước đều có truyền
thống tốt đẹp của họ.
Mặc dầu phải chịu bao
nhiêu cảnh điêu tàn do quân xâm lăng Cộng Sản gây
ra, nước Việt của chúng ta vẫn c̣n tồn tại.
Tuy phải sống lưu vong, chúng ta vẫn có văn hóa,
ngôn ngữ, và văn tự riêng biệt. Ngoài ra, người
Việt chúng ta vốn đă thông minh và tài giỏi không thua
kém bất cứ giống người nào trên năm châu bốn
bể. Sở dĩ được như thế là v́ chúng
ta có những truyền thống tốt đẹp từ
lâu đời. Đó là truyền thống văn hiến gần
năm ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt.
I. Văn Hiến :
Văn có nghĩa là chữ nghĩa
và dáng vẻ; hiến là phép nước. Nói chung, văn hiến
chỉ nơi có phép nước, có nhiều sách vở hay,
có nhiều người tài giỏi hiền đức, và có
văn minh lâu đời.
II. Truyền Thống Gần Năm
Ngàn Năm Văn Hiến 4880 (2001+2879)
Căn cứ vào suốt ḍng lịch
sử dựng nước và giữ nước, ta thấy
có biết bao truyền thống văn hiến tốt đẹp.
Dưới đây là một số truyền thống mà ai
đă là con dân đất Việt cũng cần phải nhớ:
1. Truyền Thống Tiên Rồng
Chúng ta là ḍng dơi Tiên Rồng. V́ thế
mà ta được thừa hưởng những đặc
tính tuyệt hảo của tổ tiên: đẹp và khỏe,
khôn ngoan và dũng mănh, có t́nh có lư, và có nghĩa có t́nh. Những
điều này đă được chứng tỏ rơ ràng một
cách hiển nhiên qua những thời đại suốt ḍng
lịch sự và qua chính con người Việt
2. Truyền Thống về Nhân Bản,
Dân Chủ, Nhân Quyền, Tư Do, Đoàn Kết, Kính Trên Trọng Dưới, và Biết
Tới Biết Lui Đúng Lúc
Những truyền thống này ta
đă có từ gần năm ngàn năm, các nước Tây
phương mới có khoảng 300 năm nay mà thôi. Câu truyện
Phù Đổng đánh giặc Ân vào đời Hùng
Vương thứ 6, câu chuyện người phụ nữ
có thai đến xin vua Hùng chia phần thịt, và câu truyện
Hội Nghị Diên Hồng ở đời nhà Trần
trong lúc đánh quân Nguyên đă chứng tỏ những
điều trên.
Câu chuyện Hội Nghị Diên Hồng
vào đời nhà Trần chúng ta ai cũng đă thuộc.
Câu chuyện Phù Đổng chúng ta ai cũng đều nhớ.
Ở đây chúng tôi chỉ rút ra những bài học về
nhân bản, dân chủ, nhân quyền, tự do, đoàn kết,
kính trên trọng dưới, và biết tới biết lui
đúng lúc trong câu chuyện này mà thôi.
Trong câu chuyện về Hội Nghị
Diên Hồng (đời vua Trần Nhân Tông,1279-1293), ta thấy
vua, quan, và toàn dân một ḷng quyết tâm đánh giặc
Nguyên nên ta đă thắng. Đó là bài học về truyền
thống đoàn kết. Trong chuyện Phù Đổng, ta thấy vua hỏi
ư dân, coi trọng dân, và coi trọng cậu bé Phủ Đổng;
vua, quan, quân, và dân một ḷng đoàn kết đánh giặc.
Khi cần giúp dân phá giặc, cậu bé Phù Đổng xuất
hiện; khi hoàn thành nhiệm vụ, cậu bé Phù Đổng
về trời.
T́nh vua tôi, thầy tṛ, cha con, và vợ
chồng cũng đă được chứng tỏ qua việc
kính, trọng, và nhường trong gia đ́nh và ngoài xă hội
của người Việt chúng ta trong suốt gần 5
ngàn năm qua.
Câu chuyện người phụ nữ
có thai đến xin vua Hùng chia phần thịt đă ghi vào
Thần Phả xă Vũ Én, huyện Thanh Ba (do Nguyễn Khắc
Xương sưu tầm, tạp chí Văn Học, số
2-1976). Chuyện xưa kể rằng vua Hùng cùng quân lính
đi săn, lúc xẻ thịt chia phần, một phụ
nữ có thai đến xin chia phần thịt cho bào thai c̣n
trong bụng mẹ, binh lính không cho. Nghe sản phụ tŕnh
bày rằng bào thai trong bụng cũng là một người,
và đă thành người, nhà vua thấy có lư bèn truyền
chia cho sản phụ hai phần thịt dành cho mẹ và
con. Từ đó ta có lệ chia phần cho cả bào thai
trong bụng mẹ. Tác giả
câu chuyện này không nói rơ sự kiện trên đă xảy ra
vào đời Hùng Vương thứ mấy. Nếu chúng
tôi nhớ không lầm, câu chuyện này đă xảy ra vào
đời Hùng Vương thứ Sáu.
Người Bắc Mỹ đến
nay vẫn chưa công nhận cái bào thai là một người.
Nhân quyền, dân chủ, và nhân bản của người
Việt
3. Truyền Thống Đồng
Bào, Bầu Bí Đùm Bọc, Trẻ Cậy Cha Già Cậy
Con, và Hàng Xóm Tối Lửa Tắt Đèn Có Nhau
Ở Việt
Ở Bắc Mỹ này, người
ta phải dùng pháp luật để ra lệnh cho con cái cấp
dưỡng cho cha mẹ. Trước đây, ở Miền
Nam Việt
T́nh hàng xóm của ta cũng rất
thân mật và thắm thiết. Hàng xóm láng giềng tự
động giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt
đèn đă trở thành phong tục. Chúng ta c̣n có danh từ
đồng bào, nó chứa đựng bao thân t́nh yêu
thương và đùm bọc giữa những người
trong cùng một nước mà người Tây phương
không hề có. Ngay trong thời quân chủ, dân ta vẫn có
dân chủ. Câu tục ngữ “phép vua thua lệ làng” đă chứng
tỏ việc này. Người
Bắc Mỹ quá tôn trọng quyền tự do riêng tư
nên t́nh hàng xóm thật là hời hợt. Họ sống bên cạnh
nhà nhau mà không biết tên nhau và số điện thoại của
nhau. Nhờ vả nhau điều ǵ là cả một vấn
đề khó khắn. Truyền thống "tối lửa
tắt đèn có nhau" của người Việt ta
hơn hẳn t́nh hàng xóm của người Bắc Mỹ
rất nhiều.
4. Truyền Thống Vuông Tṛn
Ca dao cua ta có câu: ba vuông sánh với bảy
tṛn, đời cha vinh hiển đời con sang giầu. Ba
vuông tượng trưng cho ba tiến tŕnh của công việc:
thực thể, phát triển, và cải tiến. Bảy tṛn
tượng trưng cho 7 điều căn bản mà
người ta phải theo để thành công trong mọi việc:
hiểu biết tường tận, chuyên cần, thận
trọng tiên đoán pḥng ngừa, làm việc có phương
pháp và khoa học, biết cộng tác thương yêu, có tinh
thần dân chủ, và biết rút ưu khuyết để
tiến tu. Nhờ nguyên tắc vuông tṛn, tổ tiên ta đă
trị nước an dân một cách văn minh vào bậc nhất
trong nhân loại. Vua Hùng Vương đời thứ Sáu
đă căn cứ vào nguyên tắc vuông tṛn để truyền
ngôi cho hoàng tử Tiết Liêu (truyện Bánh Chưng Bánh
Dày). Vuông tượng trưng cho phép tắc luật pháp,
tṛn tượng trưng cho ḷng nhân và t́nh nghĩa. Lấy
phép tắc và ḷng nhân để trị nước an dân th́
thật là tuyệt vời. Vuông tṛn c̣n có nghĩa là ăn ở
có trước có sau, có t́nh có lư, và biết nhớ ơn.
5. Truyền Thống Quyết Thắng,
Được Không Kiêu, Thua Không Nản
Những sự kiện nêu trong truyện
Phù Đổng, sự đoàn kết trong Hội Nghị
Diên Hồng, việc Vua Quang Trung đại phá quân Thanh và việc
B́nh Định Vương đánh quân Minh trong mười
năm trời để giữ và bảo vệ nước
đă chứng tỏ truyền thống này. Sau khi đại
phá quân Thanh, Vua Quang Trung đă sai sứ sang Tàu cầu hoà. Khi thắng trận, B́nh Định
Vương đối đăi với kẻ bại trận
rất khoan hồng độ lượng. Ngài nói rằng:
“Nếu ḿnh muốn thỏa cơn giận một lúc mà chịu
cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng th́ sao bằng
để cho muôn vạn con người sống mà tránh
được cái mối chinh chiến về đời
sau và để lại tiếng thơm lưu truyền
thiên cổ trong sử xanh.” Chính v́ thế, B́nh Đ́nh
Vương đă tiễn biệt kẻ bại trận về
Tàu một cách rất hậu .
Vào năm Mậu Tuất, 1418, ông Lê
Lợi khởi binh ở núi Lam Sơn tự xưng là B́nh
Đ́nh Vương để đánh đuổi giặc
Minh, quân thù của nước ta lúc bấy giờ. V́ thế
lực của B́nh Định Vương lúc đầu c̣n
yếu nên ngài đă phải
rút quân về núi Chí Linh ba lần và gặp nguy cấp nhiều
phen. Sau 10 năm với bao gian truân vất vả, B́nh Định
Vương đă lấy lại được gian sơn
nước nhà từ tay giặc Minh để “
6. Truyền Thống Ḥa
Hóa
Ḥa để tồn tại, hóa
để tiến bộ. Khi thế yếu, tiền nhân ta
đă phải cầu ḥa để tồn tại. Khi bị
quân xâm lăng chiếm mất nước, tiền nhân ta
đă biết cách biến hóa những điều hay của
địch thành cái hay của ḿnh để có nghị lực
chống lại âm mưu đồng hóa của giặc.
Chính nhờ truyền thống ḥa hóa mà dân Việt ta, suốt trong một
ngàn năm bị Tàu đô hộ và một trăm năm bị
Pháp xâm lăng, không những không bị quân Tàu và Pháp đồng
hóa mà c̣n giữ được nền văn minh và văn
hóa riêng cho ḿnh. Đây quả là một truyền thống
độc đáo của dân tộc chúng ta.
7. Truyền Thống Học Giỏi,
Thông Minh, Đảm Lược, và Tài Đức Song Toàn
Chúng ta đă thấy những điều
này trong lịch sử từ trước đến nay. Các
danh sĩ của ta như Mạc Đĩnh Chi (1280-1350), Trạng
Quỳnh (1700-?), Đoàn thị Điểm (1705-1746), Lê Quư
Đôn (1726-1784) đă làm cho vua quan nước Tàu phải
kính nể.
Quân Nguyên (Mông Cổ) tuy toàn thắng
khắp nơi trên thế giới mà phải đại bại
dưới sức mạnh và tài trí của quân ta. Quân Mông Cổ
chỉ bị thua ở Việt
Việc Hai Bà Trưng, nhị vị
nữ lưu, đă đánh đuổi quân Tô Định
để lập quốc và xưng vương một cách
dễ dàng đă làm cho giặc phương Bắc phải
khiếp đảm kinh hồn.
Ngày nay c̣n có biết bao thanh niên
đang làm vẻ vang cho dân Việt ở khắp nơi trên
thế giới. Đó là nhờ có truyền thống học
giỏi và thông minh của tiền nhân ta. Điều này cũng
được khoa học hiện đại chứng minh.
Tổ tiên thông minh th́ con cháu mới thông minh. "Hổ phụ
sinh hổ tử," và "Tel père tel fils"(cha nào con ấy)
là vậy.
Trong bài "Tản Mạn Cuối
Năm về Việt Nam ta," Saigon Nhỏ, 23-02-96, Hà Nhân
Văn nói rằng ngay tại
nước Mỹ hiện nay, trong số khoảng 300 triệu
dân, nước Mỹ mới có 2000 nhà khoa học hàng đầu.
Họ nắm quyền về việc cấp bằng sáng chế
liên quan đến khoa học kỹ thuật trên toàn thế
giới cho bất cứ nhà khoa học nào muốn
được công nhận tác quyền và được cấp
bằng sáng chế khi họ có một phát minh mới lạ
. Trong khi đó, chỉ có khoảng một triệu người
Mỹ gốc Việt thôi mà chúng ta đă có 200 khoa học
gia trong số 2000 nhà khoa học thượng thặng này của
Mỹ. Đó quả là một điều đáng nể và
đáng kính phục.
Người Việt ta là người
đầu tiên trên thế giới đă chế ra loại
súng bắn hỏa tiễn. Từ
đầu thế kỷ thứ 15, Hồ Quí Ly và Lê Trừng
(con Quư Ly) đă biết cách chế súng bắn hỏa tiễn.
Nước Tàu phải học hỏi cách chế súng bắn
hỏa tiễn của nước ta. Sau này các nước
Tây phương mới học lại cách chế súng hỏa
tiễn của người Tàu. Đây cả là một niềm
hănh diện lớn lao cho dân tộc Việt chúng ta.
C̣n biết bao truyền thống tốt
đẹp của ta nữa, kể sao cho xiết. Có hiểu
được như thế, chúng ta mới cảm thấy
hănh điện được là con cháu Tiên Rồng. Chúng ta hăy cùng nhau cầu Quốc Tổ
phù hộ cho người Việt ở trong nước cũng
như ở hải ngoại duy tŕ và phát triển được
những truyền thống tốt đẹp của tổ
tiên để làm vẻ vang ṇi giống và có sức mạnh
cùng khôn ngoan hầu loại trừ quân xâm lăng Cộng Sản
để đem tự do dân chủ và nhân quyền thực
sự về toàn dân Việt.
Truyền Thống Hiếu Thảo
và Biết Ơn của Người Việt và Người
Bắc Mỹ
Theo phong tục Việt
Khi đă kính yêu cha mẹ, người
con tất nhiên biết ơn cha mẹ. Sự biết
ơn cha mẹ được bày tỏ trong việc phụng
dưỡng và sáng viếng tối thăm (thần hôn định
tỉnh). Nhớ ơn thân nhân
và tha nhân, người ta thường thăm viếng và biếu
quà trong các dịp lễ tết.
Nhớ ơn người quá cố được thể
hiện trong việc giỗ tổ tiên, ông bà, và cha mẹ.
Nhớ ơn thần thánh trời Phật được
biểu lộ qua việc xây chùa lập đền tế lễ
tạ ơn và tổ chức hội hè đ́nh đám. Nhớ
ơn các đấng anh hùng liệt nữ và những vị có công với
đất nước được cụ thể hóa bằng
cách lập đền miếu để thờ và đúc
tượng hay dựng đài kỷ niệm để ghi
ơn.
Điểm đặc biệt về
truyền thống hiếu thảo của Việt Nam là nhớ
ơn người quá cố bằng cách cúng giỗ và thiết lập từ
đường, nhà thờ, chùa chiền, đ́nh, đền,
hay miếu để thờ, tế lễ, và mở hội
với mục đích tạ ơn hay kỷ niệm ngày thần
húy (ngày thần hóa hay mất) và ngày thần đản (ngày
thần giáng sinh) của các vị anh hùng có công với đất
nước. Người Âu Mỹ không có phong tục này.
I. Truyền Thống Hiếu Thảo
và Biết Ơn của Người Việt
Người Việt
Người Bắc Mỹ cũng
có hiếu với cha mẹ, nhưng đa số có vẻ coi nhẹ chữ
hiếu v́ họ không được dạy bổn phận
phải phụng dưỡng và nuôi nấng cha mẹ khi già
yếu. Nếu cha mẹ già yếu họ đưa quư cụ
vào viện dưỡng lăo và phú mặc cho nhà nước
nuôi. Chúng ta có được
truyền thống tốt đẹp về hiếu thảo
là do các nhà giáo dục chân chính ở Việt
Trong cuốn Nho Giáo, quyển thượng,
Trần Trọng Kim đă viết
về cách giáo dục con
người như sau:
"trước hết dùng Thi Thư mà dạy, lấy
hiếu đễ mà giáo dưỡng người, lấy
nhân nghĩa mà giảng giải, lấy lễ nhạc giúp
người quan sát sự vật, và sau cùng mới lấy
văn lấy đức để giáo dục con người
cho hoàn hảo."
Thi
Thư là tên hai bộ sách của Khổng Tử gồm Kinh
Thi và Kinh Thư. Kinh Thi gồm các bài ca dao có tác dụng di
dưỡng tính t́nh và mở mang trí thức con người.
Kinh Thư có nội dung giúp hậu thế hiểu
được tư tưởng cổ nhân về đạo
lư, chế độ, phép tắc, và sự tiến hóa của
dân tộc Trung Hoa từ đời nọ tới đời
kia.
Lễ Nhạc là tên hai bộ sách của
Khổng Tử gồm Kinh Lễ
và Kinh Nhạc. Kinh Lễ là bộ
sách chép về lễ nghi với mục đích dạy
người ta nuôi dưỡng t́nh cảm, tiết chế
được cảm xúc, cũng như giữ được
trật tự trong gia đ́nh và ngoài xă hội. Kinh Nhạc
là bộ sách viết về âm nhạc nhằm mục
đích dùng âm nhạc để giáo dục con người.
Trong đạo hiếu, chữ lễ
lại giữ phần tối ư quan trọng. Phụng
dưỡng cha mẹ mà không đúng lễ th́ không phải
là người con có hiếu. Chữ lễ bao gồm từ
h́nh thức nghiêm trang đến tấm ḷng thành ái, từ
t́nh cảm thuần hậu đến dũng cảm
đúng khuôn phép, từ sự phải trái đến trên
dưới có trật tự phân minh, và từ việc tiết
chế thất t́nh của con người như vui mừng
(hỉ), tức giận (nộ), thương xót (ai), sợ
hăi (cụ), yêu thương (ái), ghét bỏ (ố), và ham muốn
(dục) đến việc làm thăng hoa đức ḥa thuận
nhường nhịn và loại
trừ sự tranh quyền đoạt lợi một cách bất
chính. V́ thế cho nên các nhà giáo dục xưa chủ
trương tiên học lễ hậu học văn. Lễ
có cái lợi là ngăn ngừa được việc xấu
lúc nó chưa xảy ra. V́ thế các nhà chính trị giỏi
thời xưa họ lấy lễ để cai trị dân
hơn là dùng pháp luật v́ pháp luật chỉ dùng để
trừng trị những kẻ đă mắc phải tội
lỗi.
Các trường học Bắc Mỹ
không có môn luân lư giáo dục và cũng không chủ
trương tiên học lễ hậu học văn trong
chương tŕnh giáo dục của họ. Mục đích
giáo dục của họ là tạo con người thực
dụng và giúp con người kiếm được việc
làm ngay khi ra trường. Việc làm là trên hết, không cần
phải học cao hiểu rộng, miễn sao có việc
làm là được. Việc làm, tiền, và quyền lợi
quyết định tất cả hành động của họ.
Khi chỉ chú trọng vào điều lợi mà thiếu lễ
th́ con người sẽ trở nên u mê và dễ dàng làm bậy.
Chính v́ thế mà xă hội của họ có rất nhiều
tội phạm.
Trong những cuộc tranh tài về
thể thao hay bất cứ cuộc tranh tài nào khác, Người
Bắc Mỹ đều coi sự thắng là tất cả.
Mọi phương tiện chỉ để tạo mục
đích thắng mà thôi. Tinh thần thượng vơ hầu
như lui vào bóng tối, nhất là trong môn khúc côn cầu
trên băng (hockey game) và banh húc (football game). Các cầu thủ
húc nhau, đánh nhau, và chơi xấu một cách rất tàn
nhẫn với mục đích để hạ đối
phương cho bằng được mà không cần tới
tinh thần thượng vơ. Lư do chính của sự kiện
này là thiếu lễ. V́ nhà trường không đề cao
chữ lễ và không có môn luân lư giáo dục nên hiện nay
người Bắc Mỹ gặp rất nhiều khó
khăn trong vấn đề dạy bảo con em. V́ thấy
nguy cơ đă gần kề,
chính quyền, nhà trường, và phụ huynh đang cộng
tác nghiên cứu để t́m ra phương pháp cải tiến
việc giáo dục con em cho tốt đẹp hơn.
Về mặt luân lư, giáo dục của
Việt
Kẻ nào không có hiếu th́ không những
không giúp ích ǵ cho xă hội được mà c̣n là loại
sâu dân mọt nước. Lư do rất giản dị và dễ
hiểu là cha mẹ anh em ruột thịt của họ mà họ
không phụng dưỡng săn sóc th́ họ c̣n
thương và giúp ích ai được. Những người
con có hiếu và biết ơn cha mẹ, phần lớn
đều giỏi và làm những điều ích lợi
cho gia đ́nh cùng xă hội bởi
v́ người có hiếu tức là người có ḷng nhân.
Chính v́ thế mà thầy cô đă chú tâm dạy trẻ về
khía cạnh biết ơn cha mẹ một cách rất kỹ
càng.
Chúng ta hăy cùng nhau đọc các
đoạn văn sau đây được trích ra từ cuốn
Luân Lư Giáo Khoa Thư để biết nhà trường của
ta trước đây đă đặt nặng việc giáo
dục trẻ em về bổn phận làm con và việc biết
ơn cha mẹ như thế nào:
Bổn Phận Làm Con
Kể từ khi con mới sinh ra cho
đến khi khôn lớn, cha mẹ phải nuôi nấng công
tŕnh, kể biết là bao! Mẹ th́ nuôi con, bồng bế
nâng niu, phải chịu nhiều điều cực khổ.
Cha th́ đi làm lụng vất vả để lo cho con
được no ấm. Cha mẹ lại dạy bảo
con và cho con đi học để mở mang trí tuệ. Vậy
bổn phận con là phải thờ cha mẹ cho trọn chữ
hiếu.
Biết
Ơn Cha Mẹ
Phàm người nào đă biết
kính yêu cha mẹ tất là biết ơn cha mẹ. Cha mẹ
ḿnh sinh ra ḿnh, nuôi dưỡng ḿnh, khó nhọc biết bao
nhiêu, lại lo cho ḿnh nên người tử tế, th́ công
đức ấy kể sao cho xiết được. Vậy
kẻ làm con phải dốc ḷng báo ơn cha mẹ. Lúc nhỏ,
th́ sự biết ơn chỉ cốt ở cách vâng lời
và ḷng yêu mến. Nhưng khi lớn lên, cha mẹ già cả
th́ phải biết hết ḷng
phụng dưỡng: sớm thăm, tối hỏi,
cơm ngon, canh ngọt, quạt nồng, ấp lạnh. Chỉ
có những quân vô học đê hạ như loài vật th́ mới
quên ơn cha mẹ.
Nhớ ơn cha mẹ th́ phải
nuôi cha mẹ khi các người về già. Nuôi cha mẹ
không thôi cũng chưa hẳn là có hiếu. Sự kính cha mẹ
và sự ḥa ái trong khi phụng
dưỡng cha mẹ mới là điều chủ yếu.
Giữ sự kính ái cả lúc thường cũng như
lúc bất thường. Nếu cha mẹ có làm điều
ǵ lầm lỗi, con cái phải t́m cách êm dẹp dịu ngọt
mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe th́ ḿnh vẫn phải
giữ lễ và phụng dưỡng sao cho đúng lễ.
Nếu phải chịu điều ǵ đau đớn, vất
vả, oan ức, hay thiệt tḥi cũng không được
oán hận mà bỏ mặc hay không chăm nom cha mẹ. Công
ơn cha mẹ đă được bao đời công nhận
trong các câu ca dao sau: Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
/ Con nuôi mẹ con kể từng ngày./ Công cha như núi Thái
Sơn,/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra,/ Một ḷng thờ mẹ kính cha, / Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con.
1. Truyền Thống Hiếu Thảo
của Người Việt
Ngày xưa các cụ quan niệm rằng
hiểu thảo là bổn phận chính của người
con trai, nhất là con trai trưởng. Trong tác phẩm Lục
Vân Tiên, Nguyễn Đ́nh Chiểu đă viết ở phần
đầu cuốn truyện mà chúng tôi c̣n nhớ được
như sau: Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời
tiết hạnh là câu sửa ḿnh (câu 5-6). Người con
trai là rường cột trong gia đ́nh sau khi cha mất.
Trong khi đó con gái được các cụ coi là nữ
nhân ngoại tôïc. Ca dao ta có câu: Con gái là con người ta,
con dâu mới thật mẹ cha mua về. Muốn làm tṛn chữ
hiếu, khi cha mẹ c̣n sống, ta phải hết ḷng nuôi
dưỡng; khi cha mẹ mất, ta phải hết ḷng
thương tiếc. Cha mẹ c̣n sống ngày nào ta nên mừng
ngày đó và ăn ở sao cho trọn đạo làm con, chớ
để đến khi cha mẹ mất rồi mới hối
th́ không kịp. Người ta quan niệm rằng làm con mà
có cha mẹ ở bên để báo đáp là điều sung
sướng nhất đời. Phải có duyên có phúc mới
được như vậy.
Việc hiếu thảo tuy vậy
mà rất phức tạp. Những điều người
con tưởng là có hiếu nhưng thực ra lại là bất
hiếu. Có khi chính cha mẹ tạo hoàn cảnh cho các con làm
điều bất hiếu mà không biết. Chính v́ vậy
người ta mới phân biệt ra minh hiếu và ngu hiếu.
Khi thấy cha mẹ làm điều ǵ trái, ta phải liệu
đường can ngăn một cách có lễ độ và
khi thấy cha mẹ nóng giận muốn đánh đập
ta, ta phải liệu đường trốn tránh và đợi
cho đến khi cha mẹ nguôi giận mới giải thích hay xin lỗi
cha mẹ th́ đó mới là minh hiếu.
Nếu ta chiều theo cha mẹ
để về hùa cùng cha mẹ làm điều phi pháp
và nếu ta chiều cơn giận
của cha mẹ để cho cha mẹ đánh ta đến
bị thương tích và có thể nguy đến tính mạng,
đó là ngu hiếu. Trong trường hợp này, ta đă
làm hại cha mẹ v́ để cha mẹ mang tiếng bất
từ và cha mẹ ta c̣n có thể bị vô phúc đáo tụng
đ́nh. Ngoài ra, ta cũng hại chính bản thân ta nữa.
Hiện thời dân Việt đang
gặp đại nạn Việt Cộng nên đạo hiếu
thảo của người Việt bị bọn Quỉ
Đỏ ở trong nước phá hoại đến tận
cỗi rễ. Đạo hiếu
thảo người Việt hải ngoại cũng bị
"văn minh vật chất nước người, làm
mờ hiếu thảo làm vơi nghĩa t́nh." (Thơ Khải
Chính)
a. T́nh Trạng Hiếu Thảo Của
Người Việt Hải Ngoại Hiện Nay
Khi đến định cư ở
Bắc Mỹ, thấy chính phủ của họ có
chương tŕnh trợ cấp xă hội và trợ cấp
tuổi già, một số các đấng con cái dù là dư tiền
nuôi cha mẹ, dù là kỹ sư, bác sĩ, và dược sĩ,
cũng vẫn t́m cách này cách khác đẩy các cụ đi
xin tiền trợ cấp xă hội. Đây là sự thạât
mà chúng tôi đă chứng kiến. Mặt khác, thấy tiền
trợ cấp xă hội dễ xin trong khi nhờ các con lại
khó khăn, các cụ cũng tự t́m cách đi xin tiền
xă hội thay v́ nhờ con. Ngoài ra, chính phủ ở đây
lại quá dễ dăi về vấn đề trợ cấp
xă hội, nên có một số người cho rằng tổ
chức xă hội ở Bắc Mỹ đă đồng lơa
với tội ác trong việc làm cho con cái bất hiếu.
Khi c̣n vị thành niên, một số con cái không vâng lời
cha mẹ, bỏ nhà ra ở riêng v́ trông cậy vào tiền
trợ cấp xă hội. Khi lớn lên, lại v́ tự do,
v́ quyền lợi cá nhân, một số đông con cái đă
phó thác cha mẹ ḿnh cho chính phủ nuôi.
b. T́nh Trạng Hiếu Thảo Của
Người Việt Trong Nước Hiện Nay
Từ ngày Quỉ Đỏ xuất
hiện ở Việt Nam, đầu tiên ở ngoài Bắc,
sau ở toàn cơi, người dân học được cái
thói bất hiếu của Trường Chinh Đặng
Xuân Khu và bè lũ giặc Hồ ly tinh nên các bậc cha mẹ
của họ thật khốn khổ. Ca dao ta mới có câu:
Ai sinh thằng Khủ thằng Khu, tố chết thằng
bác, bỏ từ thằng cha. Các đấng cha mẹ bị
một cổ hai tṛng. Con cái nhiễm thói ăn cắp lừa
đảo bất nhân của bọn Cộng Sản nên sinh
ra bất hiếu với cha mẹ.
Bọn Cộng Sản là bọn
cướp của và bóc lột toàn dân nên những người
dân sống dưới chế độ Cộng Sản
đều phải có thủ đoạn gian manh mới sống
nổi. Họ phải dối trá và lường gạt
để sống c̣n. Chính v́ vậy mà những người
sống dưới chế độ Cộng Sản Miền
Bắc từ năm 1954 đến nay không bao giờ biết
nói tiếng "cám ơn" với ai v́ có ai ở Miền
Bắc làm ơn cho họ đâu. Sống lâu với bọn
Cộng Sản, họ đă nhiễm tính dối trá và
lường gạt của bọn Cộng Sản cho nên khi
vào Miền Nam họ không thể tưởng tượng
là dân Miền Nam trước đó đă có cuộc sống
văn minh, tự do, dân chủ, nhân quyền, và no ấm
đến như thế. Dân Miền
Các bậc cha mẹ bị đảng
Cộng Sản, một tổ chức vô nhân tính, bóc lộc
nên đă khốn khổ lại càng khốn đốn thêm.
Tất cả con em đều
bị bọn Cộng Sản tách ra khỏi ảnh hưởng
của gia đ́nh để dụ dỗ chúng theo dơi các hành động của
cha mẹ chúng hầu báo cáo cho lũ công an để
được tuyên dương là "cháu ngoan" Hồ tặc. Cảnh luân thường đạo
lư bị đảo lộn thật là đau ḷng! Tuy nhiên, với niềm tin vào truyền
thống hiếu thảo lâu đời, người Việt
chúng ta vẫn có dư nội công thâm hậu để phục
hồi đạo hiếu thảo bằng cách loại trừ
loài Quỉ Đỏ ở trong nước và thiết lập
giềng mối chung ở hải ngoại để xây dựng
cộng đồng người Việt chúng ta vững mạnh
về mọi mặt.
Ở đâu và ở thời nào, hiếu
thảo bao giờ cũng là rường cột của mọi
nết ăn ở trên đời. Con người ta nếu
có hiếu thảo với cha mẹ ông bà th́ thường cũng
biết nhớ ơn tiền nhân và có ḷng cứu dân giúp
nước. Kẻ bất hiếu th́ dù nhất thời có
khá giả, nhưng sau cùng cũng là loài vô dụng và sâu dân mọt
nước.
2. Truyền Thống Biết Ơn
Của Người Việt
Truyền thống hiếu thảo
thường đi đôi với truyền thống biết
ơn. Chúng ta hăy cùng nhau t́m hiểu truyền thống biết
ơn này để từ đó có thể giúp nhau duy tŕ và
phát triển sự biết ơn trong cuộc sống mới
cho tốt đẹp hơn. Sự biết ơn của
người Việt
Dân Việt vốn là dân có truyền
thống nhớ ơn từ lâu đời, chẳng hạn
như ta thấy có nhiều nơi thờ những bậc
có công to với dân với đất nước như Trưng Nữ Vương, Trần
Hưng Đạo, và Phù Đổng Thiên Vương,
v.v. Người ta c̣n nhớ
ơn và thờ những vị đă tạo ra một nghề
như nghề sơn, nghề khảm, nghề đúc, nghề
mộc, v.v., và tôn những vị sáng tạo ra nghề này
làm Thánh Sư, Tổ Sư, hay Tiên Sư. Người ta dựng đền
hay miếu để thờ các vị này. Hàng năm dân làng
tổ chức tế lễ hai lần gọi là xuân thu nhị
kỳ, tức là tế vào
tháng hai thuộc mùa xuân và vào tháng tám thuộc mùa thu. Dân làng
c̣n ăn mừng khi được mùa. Mỗi lần trời
cho ḥa cốc phong đăng,
tức là được mùa, th́ dân chúng lại mở đại
hội, thường là vào tháng hai mỗi năm, để
ăn mừng và tế lễ tạ ơn trời phật.
Trong các ngày lễ tết, dân ta
thường có lệ đi tết, tức là biếu quà
trong dịp tết, để tạ ơn và thắt chặt
t́nh gia đ́nh, nghĩa thầy tṛ, và mối thân thiện giữa
bằng hữu. Con cháu th́ đi tết cha mẹ, ông bà, cô,
d́, chú, bác, v.v. Học tṛ đi tết thầy cô. Những
người thọ ơn đi tết ân nhân của ḿnh.
Ngoài việc đi tết, người ta c̣n đi lễ
chùa, đền, miếu để tạ ơn trời Phật
và thánh thần đă ban phước lành cho họ.
Việc tôn sư trọng đạo
của dân tộc Việt được coi là rất quan
trọng. Học tṛ nhớ ơn thầy được thể
hiện trong câu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.
Điều này có nghĩa là hễ ai dậy ta một chữ
hay nửa chữ cũng là thầy của ta. Ca dao ta c̣n có
câu: Không thầy đố mày làm nên. Việc nhớ ơn
thầy và tầm quan trọng của sự giáo huấn
đă làm người ta đưa địa vị ông thầy
(sư) lên trên địa vị của cha (phụ) trong thứ tự: quân, sư, phụ.
Bổn phận đối với
thầy và việc nhớ ơn thầy đă được
coi là định luật không thể thay đổi trong xă
hội Việt
Bổn Phận Ở Với Thầy
Lúc Đang Học
Thầy là người thay cha mẹ
ḿnh để dạy bảo ḿnh. Luân lư ta lấy quân,
sư, phụ làm trọng hơn cả. Người học
tṛ tốt phải biết ơn thầy, phải tôn kính thầy,
phải yêu mến thầy, và phải vâng lời thầy.
Bổn Phận Ở Với Thầy
Lúc Thôi Học Rồi
Lúc thôi học rồi, cũng
như lúc c̣n học, bao giờ ta cũng phải yêu kính thầy
và biết ơn thầy. Ta phải năng lui tới
thăm nom (viếng), lỡ khi thầy đau yếu hay gặp
hoạn nạn, ta phải săn sóc giúp đỡ. Ta đừng
bắt chước những quân vô hạnh làm nên chút danh phận
ǵ, gặp thầy cũ, lờ đi như không biết, lấy
sự phải chào hỏi thầy làm xấu hổ. Như
thế là vong ân bội nghĩa rất đáng khinh bỉ.
Chính nhờ có ḷng biết ơn và
kính trọng thầy nên việc giáo dục của Việt
Ngoài ra, việc xưng hô trong tiếng
Việt cũng phản ảnh tấm ḷng hiếu thảo,
biết ơn, và tôn ti trật tự trong gia đ́nh cũng
như ở ngoài xă hội. Việc thưa gửi, đi thưa về tŕnh, và gọi
dạ bảo vâng trong phong tục của người Việt
chúng ta lại càng tế nhị và văn minh, nhất là
trong vấn đề kính trọng, nhớ ơn, và hiếu
thảo. Phải có nền văn hóa lâu đời người
ta mới đạt đến tŕnh độ xưng
hô, kính trọng, nhớ ơn,
và hiếu thảo đến như vậy.
Truyền thống hiếu thảo
và biết ơn của người Việt chúng ta đă có
nền tảng từ lâu đời, gần 5 ngàn năm
trước. Người Hoa Kỳ mới có văn hóa riêng
cho Hợp Chủng Quốc kể từ năm 1776, tức
là cách đây (2001) 225 năm nay. Người
Ở
Việt Nam ta, trước 1975, các chính phủ Quốc
Gia không để ư đến vấn đề người
già mấy, không có chương tŕnh trợ cấp tiền
già như ở Bắc Mỹ này v́ con cái và gia đ́nh đều
tự lo cho cha mẹ và ông bà. Sự hợp lư và công bằng
từ nền tảng gia đ́nh Việt
II. Truyền Thống Hiếu Thảo
và Nhớ Ơn của Người Bắc Mỹ
Trên đây chúng tôi đă so sánh một
vài khía cạnh giữa sự hiếu thảo và biết
ơn của người Việt và người Bắc Mỹ.
Để hiểu rơ hơn sự hiếu thảo và biết
ơn của ngưới Bắc Mỹ, chúng ta cần phải
đi sâu vào một số vấn đền cụ thể
dưới đây.
Cũng giống như người
Việt
Ở Việt
Ở Bắc Mỹ, chuyện cha mẹ
và con cái thưa nhau ra ṭa không phải là việc hiếm.
Theo tờ London Free Press, số ngày 31-8-1995, vào ngày 30-8-1995, một
ṭa án ở St. Catharines, Ontario, Canada, đă ra lệnh cho bốn
người con phải trợ cấp mỗi tháng một
ngàn đồng cho người mẹ già 60 tuổi tên là bà
Veronica Godwin. Theo London Free Press số ngày 24-10-1996, một
trường hợp khác đă xảy ra ở trường
Đại Học Ottawa, Canada, là vào ngày 23-10-96, Giáo Sư
Henry Edwards, 57 tuổi, khoa trưởng phân khoa xă hội
(the dean of the faculty of social sciences)
đă bị bắt về tội âm mưu giết mẹ
bằng thuốc ngủ.
Nghe thấy những chuyện trên
đây, chắc hẳn mọi người Việt chúng ta
đều thấy ngao ngán cho t́nh nghĩa giữa cha mẹ
và con cái ở đất Bắc Mỹ này. Xă hội Bắc
Mỹ đang khủng hoảng về mặt giáo dục
con em. Luân lư và đạo đức đang trên đà
băng hoại một cách đáng lo ngại. Trên báo The
London Free Press, ngày 28-11-1996, trong bài “Parents Not Only Ones to Blame
for Troubled Teens,” ông Bob Harvey đă lập lại ư kiến của
một số chuyên gia cho là họ đang sống trong một
xă hội mà giá trị đạo đức không c̣n
được truyền dạy cho con em nữa.
Ông Bob Harvey c̣n tŕnh bày ư kiến của
Giáo Sư Robert Glossop thuộc Học Viện Vanier ở
Ottawa liên quan về vấn đề gia đ́nh như sau:
Việc chửa hoang của các thiếu nữ vị thành
niên, việc bạo động của tuổi trẻ, và
các trường hợp tự tử của thanh thiếu
niên đang xảy ra là do ở vấn đề thiếu
đạo đức và thiếu sự chú tâm vào b́nh diện
luân lư trong xă hội chúng ta.
Ông Bob Harvery cũng thuật lại
lời của ông Bill Damon, giám đốc trung
Vào đầu năm 2000, bà
Janet Ecker, Bộ Trưởng Giáo Dục tỉnh bang Ontario,
Canada, đă đưa ra một chương tŕnh cải tổ
giảo dục một cách qui mô nhằm đạt tới một nền giáo dục công lập
có phẩm chất cao về mọi mặt, nhất là về
việc khuyến khích và phát triển sự kính trọng
(kính trên trọng dưới), tinh thần trách nhiệm, và
phép lịch sự giữa học
sinh và nhà trường, giữa học sinh và gia đ́nh, và
giữa học sinh và cộng đồng xă hội. Chúng tôi cũng đă được
bà Bộ Trưởng Janet Ecker gửi thư tham khảo ư
kiến. Nhân dịp này chúng tôi đă đề nghị với
bà cho thiết lập một trung tâm tu nghiệp giáo chức
để giúp thầy cô cải thiện về kiến thức
và phương pháp giáo dục.
Để giúp học sinh trở
thành những học tṛ giỏi và có kỷ luật, những
đứa con ngoan và hiếu
thảo, và những công dân tốt và gương mẫu,
chúng tôi đă đề nghị với bà Bộ Trưởng
Janet Ecker đưa vào chương tŕnh giáo dục học
đường hai môn học: công dân giáo dục và luân lư
giáo dục. Chúng tôi có nhấn mạnh vào mục đích của
việc tiên học lễ hậu học văn và giải
thích với bà ta là kỷ luật hay luật pháp chỉ dùng
để trừng trị những người đă vi phạm
kỷ luật hay phạm pháp, c̣n lễ, tức lễ phép
và lịch sự, có công dụng
giúp học sinh trở nên học tṛ tốt, con ngoan, và
công dân gương mẫu, nhiên hậu chúng tránh được
việc vi phạm kỷ luật hay phạm pháp. Muốn học
sinh có lễ phép và lịch sự, ta phải dạy chúng
ngay khi chúng c̣n nhỏ, tức là trong lúc chúng c̣n ở trên ghế
nhà trường và c̣n ở trong gia đ́nh. Lễ là rường
cột của mọi lẽ ăn ở trên đời v́ một
người có kiến thức cao và chuyên môn giỏi mà vô lễ
th́ sẽ trở thành loại sâu dân mọt nước.
Cũng trên tờ London Free Press, số
ngày 28-11-1996, có tin là ở thành phố Wellesley, Massachusetts,
các thương gia, cảnh sát, các cơ quan tryền thông,
các nhà giáo dục, và các hội nhà thờ đă và đang bắt
đầu t́m giải pháp cho các vấn đề thiếu
nữ chửa hoang ở tuổi vị thành niên, việc
phá phách và bạo động của thanh thiếu niên, sự
nghiện rượu và x́ ke ma túy, cùng việc bỏ học
hay thiếu siêng năng của các học sinh. Ở thành phố
Để tạo cho các em có t́nh
thương cha mẹ và thương tha nhân, các người
con hiếu thảo, các công dân gương mẫu, và các nhà
giáo dục Bắc Mỹ đă đặt ra Ngày Báo Hiếu
Mẹ (Mother's Day) và Ngày Báo Hiếu Cha (Father's Day) để
các đấng con cái có được dịp nghĩ về
công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
Để giáo dục con em về ḷng biết ơn, các nhà
giáo dục và những người quan tâm đến
tương lai trẻ đă tạo cơ hội cho chúng biết
coi trọng ngày sinh nhật (birthday), ngày Lễ Tạ Ơn
(Thanksgiving Day) , Lễ Giáng Sinh, và Tết Tây. Trong những dịp
này người ta đă tạo cho trẻ có thói quen về
việc bày tỏ tấm ḷng biết ơn và săn sóc nhau
một cách chân thành, đồng thời họ cũng vui
hưởng cho ḿnh một cách thỏa thích.
Một điều rất nổi bật
là dân chúng Bắc Mỹ có ḷng vị tha thật cao cả,
chân thành, và đầy t́nh nghĩa. Nhờ có tinh thần vị
tha và t́nh nguyện cao độ này nên chính phủ, các hội
từ thiện, các hội nhà thờ, và dân chúng Bắc Mỹ
đă đứng ra bảo lănh và cưu mang hàng triệu
người ty nạn Cộng Sản chúng ta. Ḷng vị tha
và tinh thần thiện nguyện của người Việt
Người Bắc Mỹ cũng
biết nhớ ơn các vị anh hùng tử sĩ , những
người đă hy sinh v́ lư tưởng bảo vệ tự
do và ḥa b́nh cho nhân loại. Chính v́ thế mà họ tổ chức
long trọng Ngày Chiên Sĩ Trận Vong trên toàn quốc của
họ. V́ đa số theo
đạo Thiên Chúa, dân Bắc Mỹ c̣n biết ơn trời
và các vị thánh thần đă ban cho họ đất
đai màu mỡ, có dư đồ ăn thức uống,
và nhất là đất nước của họ rất mực
thanh b́nh thịnh trị. Để tạ ơn trời và
thánh thần đă ban phước cho họ, hàng năm họ
tổ chức cầu nguyện và ăn mừng vào Ngày Lễ
Tạ Ơn (Thanksgiving Day).
Hơn nữa, trong mỗi bữa cơm tại gia
đ́nh và các bữa tiệc ngoài xă hội, họ đều
có dâng lời tạ ơn chúa về những ân sủng mà họ
đă và đang được hưởng. Cử chỉ
tỏ ḷng biết ơn này đă thành nếp v́ được
các trường theo đạo Thiên Chúa dạy cho những
học sinh ngay từ các lớp mẫu giáo trở lên.
Đă đến định cư ở
các nước Bắc Mỹ, có một số ngưới
chủ trương nên t́m hiểu về truyền thống
hiếu thảo và các ngày nhớ ơn ở đây để
cùng nhau ḥa nhịp vào nếp sống chung một cách có ư nghĩa
và đồng thời làm tăng thêm t́nh nhân loại thân
thương mà tiền nhân đă bỏ bao công tŕnh vun đắp.
Ngoài việc giữ cái hay cái đẹp của ḿnh, chúng ta
cũng cần học thêm cái hay cái đẹp của
người để làm giầu cho truyền thống tốt
đẹp về ḷng hiếu thảo và biết ơn của
ta.
A. Truyền Thống Hiếu Thảo
Của Người Bắc Mỹ
Như trên đă nói, người Bắc
Mỹ v́ quá nặng về nếp sống tự do và rất
trọng sự riêng tư của đời sống cá nhân
nên t́nh đại gia đ́nh rất hời hợt. Tuy nhiên,
nhờ có các người con hiếu thảo, các công dân
gương mẫu, người ta đă t́m cách để
nhắc nhở tha nhân về bổn phận đối với
cha mẹ. Chính v́ thế mà các Ngày Báo Hiếu Mẹ (Mother's
Day) và Ngày Báo Hiếu Cha (Father's Day) mới được
được đặt ra.
1. Ngày
Mother's Day (Ngày Báo Hiếu Mẹ)
Ngày Mother's Day được người
Bắc Mỹ đặt ra để hàng năm vinh danh t́nh
mẫu tử vào ngày Chủ Nhật thứ hai trong tháng
năm. Vào ngày này, nhiều nhà thờ cũng như các gia
đ́nh đều mở tiệc để ca ngợi công
lao của các bà mẹ. Người ta có tục lệ gắn
hoa cẩm chướng (carnation) cho nhau. Bông cẩm chướng
màu hồng hay tím được gắn trên ngực là dấu
hiệu mẹ c̣n sống, và bông cẩm chướng màu trắng
là dấu hiệu mẹ đă qua đời. Tục gắn
hoa cẩm chướng này chỉ áp dụng cho ngày Mother's
Day mà thôi.
Vào thời xa xưa, ngày Mother's Day
được tổ chức lần đầu tiên ở
Anh (England) dưới cái tên là Mothering Sunday, có nghĩa là ngày ghi ơn sự
săn sóc nuôi dưởng của người mẹ đối
với con cái. Tuy nhiên, không có tài liệu nào nói rơ là ngày
Mothering Suday đă được tổ chức vào ngày nào.
Sau đó các nước khác cũng tổ chức những
ngày tương tự như vậy.
Ở Hoa Kỳ, vào năm 1872, bà
Julia Ward Howe là người đầu tiên đề nghị
tổ chức ngày Mother's Day vào
mùng 2 tháng sáu Tây để dâng hiến cho ḥa b́nh nhân loại.
Sau đó, vào năm 1907, bà Anna Jarvis ở thành phố Grafton,
W. Virginia, Hoa Kỳ, đứng ra vận động để
ngày Mother's Day được chính thức công nhận trên
toàn quốc Hoa Kỳ. Bà đă đề nghị chọn
ngày Chủ Nhật thứ hai trong tháng 5 dương lịch,
không thấy nói rơ lư do tại sao, để làm ngày Mother's
Day. Tục lệ đeo hoa cẩm
chướng cũng bắt
đầu từ đây. Bà Anna Jarvis được phái
đoàn của nhà thờ Andrews Church đưa ra quyết
nghị công nhận là người sáng lập ra ngày Mother's
Day. Vào năm 1914, vị tổng thống thứ 28 của
Hoa Kỳ, Tổng Thống Woodrow Wilson, đă phê chuẩn
nghị quyết của Quốc Hội Hoa Kỳ về việc
chấp thuận ngày Mother's Day. Và năm sau đó, 1915, Tổng
Thống Wilson tuyên bố với quốc dân chính thức chấp
nhận ngày Mother's Day là ngày lễ hàng năm tại Hoa Kỳ.
Một điều đặc biệt là không những các
người con tỏ ḷng biết ơn bà mẹ của
ḿnh mà cả các nhà thờ, hội đoàn, và bạn bè đều
tổ chức những buổi họp mặt để ca
ngợi, vinh danh, tặng quà, tặng thiệp, và tặng
hoa cho các bà mẹ.
2. Ngày Father's Day (Ngày Báo Hiếu Cha)
Ở Hoa Kỳ và
Bà Dodd đă viết thỉnh nguyện
thư yêu cầu chính quyền chấp nhận việc tổ
chức ngày Father's Day một cách chính thức trên toàn cơi Hoa
Kỳ. Hội đồng mục sư thành phố Spokane
cùng với cơ quan YMCA địa phương đều
hết sức hỗ trợ cho thỉnh nguyện này. Do sự
cố gắng của Bà Dodd mà ngày Father's Day đă được
tổ chức lần đầu tiên tại thành phố
Spokane vào 19 tháng 6 năm 1910. Măi đến năm 1972, Tổng
Thống Richard M. Nixon của Hoa Kỳ mới kư sắc lệnh
để chính thức công nhận việc tổ chức
ngày Father's Day trên toàn cơi Hoa Kỳ.
B. Truyền Thống Nhớ Ơn của
Người Bắc Mỹ
Sự nhớ ơn của người
Bắc Mỹ rất là ṣng phẳng. Đă chịu ơn ai
th́ họ cố trả cho bằng được. Họ cũng
rất hợp t́nh hợp lư trong cách đối xử với
nhau. Phần đông người Bắc Mỹ rất tôn trọng
lẽ phải. T́nh cảm tuy không đậm đà nhưng
rất lịch sự, trọng h́nh thức, và rất biết
điều. Chính v́ thế, họ cũng biết ơn, nhất
là đối với Chúa, với các chiến sĩ trận
vong và các vị anh hùng liệt nữ đă dựng nước
và giữ nước của họ. Sau đây chúng ta hăy thử
t́m hiểu những dịp mà người Bắc Mỹ
thường bày tỏ ḷng biết ơn đối với
thượng đế, các vị anh hùng liệt nữ, các
ân nhân, thân thuộc, và bằng hữu.
1. Ngày Thanksgiving Day (Ngày Lễ Tạ
Ơn)
Mucï đích của ngày lễ
Thanksgiving Day là để cám ơn Thượng Đế
đă ban phước lành trong năm. Vào ngày này, người
ta làm tiệc ăn mừng và dâng lời cầu khẩn.
Nguyên thủy, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ
chức lần đầu tiên ở New England. New England là phần đất ở
phía đông bắc Hoa Kỳ do Đại Úy John Smith khám phá
ra vào năm 1614 và đặt tên là New England v́ nó trông giống
như địa thế của bờ biển bên Anh. New
England gồm các tiểu bang: Connecticut, Maine, Massachusetts, New
Hampshire, Rhode Island, và Vermont.
Ngày lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ
bắt nguồn từ ngày lễ ở New England này. Ở
Hoa Kỳ, ngày lễ Thanksgiving Day thường mang tính cách của
việc đoàn tụ gia đ́nh với bữa ăn nấu
bằng gà tây (turkey) rất thịnh soạn và ấm cúng.
Ngày lễ này cũng là dịp để người ta suy
tư về niềm tin tôn giáo và dành th́ giờ đi nhà thờ
cầu nguyện. Có một điều không hợp lư về
ngày lễ tạ ơn tại Bắc Mỹ là họ đi
sát hại cả hàng chục triệu gà tây (turkeys) để
ăn mừng và cám ơn. Như thế th́ c̣n đâu là ư nghĩa cám ơn
nữa!
a. Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ư Nghĩa
Thuần Túy Tôn Giáo: Ngày lễ Thanksgiving Day mang ư nghĩa thuần túy tôn giáo
đă được một nhóm di dân người Anh tổ
chức lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào ngày mùng 4
tháng 12 năm 1619 tại đồn điền Berkeley
Plantation bên bờ sông James River
mà bây giờ là thành phố
Charles City, Virginia. Họ tổ chức ngày lễ
Thanksgiving Day này hoàn toàn với mục đích tôn giáo để
cám ơn Thượng Đế và đồng thời
để kỷ niệm ngày đầu tiên họ đặt
chân lên miền đất hứa này.
b. Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ư Nghĩa
Tạ Ơn v́ Được Mùa: Ngày lễ Thanksgiving Day
mang ư nghĩa tạ ơn v́ được mùa đă
được tổ chức lần đầu tiên tại
thành phố Plymouth, Massachusetts, một năm sau khi quân thực
dân Plymouth đến định
cư ở Hoa Kỳ. Plymouth là tên của một thuộc
địa Anh. Một nhóm tín đồ theo đạo Tin
Lành người Anh có đầu óc cấp tiến, bị cấm
hành đạo, di dân sang Bắc Mỹ thiết lập thuộc
địa vào năm 1620 lấy tên là Plymouth Colony. Nhóm tín
đồ này được người ta gọi là Quân Thực
Dân Plymouth. Thuộc địa này bây giờ là miền
đông Massachusetts.
Mùa đông đầu tiên khi ï Quân Thực
Dân Plymouth đặt chân đến Massachusetts rất là khủng
khiếp. Mùa đông này đă làm chết vào khoảng một
nửa số người đến định cư ở đây. Nhưng vào năm 1621, họ
có hy vọng được mùa. Chính v́ thế mà vào đầu
mùa thu năm 1621, Thống Đốc William Bradford đă cho
tổ chức ngày hội để ăn mừng hy vọng
được mùa và cám ơn Thượng Đế về
những tiến triển và thành quả mà dân chúng đă gặt
hái được. Tuy nhiên, từ sau mùa thu năm 1621, ngày lễ
Thanksgiving Day được tổ chức vào cuối mùa
thu khi mà hoa màu đă được gặt hái xong.
c. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Hoa
Kỳ: Phong tục về ngày lễ Thanksgiving Day đă lan
tràn từ Plymouth ra các thuộc địa khác của New
England. Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng của
người Hoa Kỳ khỏi sự cai trị của người Anh
từ năm 1775 đến 1781, Người Hoa Kỳ có tất
cả 8 ngày đặc biệt để tạ ơn sự
chiến thắng và thoát khỏi sự hiểm nghèo. Vào
năm 1789, Tổng Thống George Washington đă tuyên bố ngày 26 tháng 11 là
ngày lễ Thanksgiving Day của quốc gia. Nhưng trong cùng
một năm đó, nhà thờ Protestant Episcopal Church lại tuyên bố ngày thứ Năm đầu tiên
trong tháng 11 là ngày tạ ơn hàng năm.
Trong bao nhiêu năm, Hoa Kỳ không có
ngày chính thức dành cho lễ
Thanksgiving Day. Măi về sau này, nhờ sự khéo léo và bao công
sức vận động của
bà chủ bút tờ Godey's Lady's Book, bà Sarah Josepha Hale,
ngày lễ Thanksgiving Day mới được trở thành
ngày lễ chính thức trên toàn quốc Hoa Kỳ. Sau đó Tổng
Thống Abraham Lincoln tuyên bố ngày thứ Năm cuối tháng 11 năm 1863 là
ngày tạ ơn và vinh danh Đức Thánh Cha. Rồi mỗi
năm sau đó, trong 75 năm, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào
ngày thứ Năm cuối tháng
11. Nhưng đến năm 1939, Tổng Thống Franklin D.
Roosevelt lại cho tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day sớm
hơn một tuần nhằm mục đích giúp cho các
cơ sở thương mại buôn bán thuận lợi
trước mùa Giáng Sinh. Cuối cùng, sau năm 1941, Quốc
Hội Hoa Kỳ đă quyết định chọn ngày thứ
Năm thứ tư trong tháng 11 dương lịch là ngày lễ
Thanksgiving Day và là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa
Kỳ.
d. Ngày Lễ Thanksgiving Day của
Canada: Canada cũng tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day giống
như ở Hoa Kỳ, nhưng lại tổ chức khác ngày
v́ tùy theo vụ mùa. Trước đây ngày lễ Thanksgiving
Day của Canada được tổ chức vào ngày thứ Hai cuối tháng 10 dương lịch. Từ
năm 1957, chính phủ Canada tuyên bố ngày thứ Hai của tuần lễ
thứ nh́ trong tháng 10 là ngày lễ chính thức dành cho
Thanksgiving Day.
2. Ngày Lễ Remembrance Day (Ngày Chiến
Sĩ Trận Vong) của Bắc Mỹ
a. Ngày Lễ Remembrance Day của
Canada: Ở Canada, ngày Remembrance Day được tổ chức
vào ngày 11 tháng 11 dương lịch mỗi năm để
nhớ ơn các chiến sĩ đă hy sinh trong trận
Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Thế
Chiến, và cuộc chiến tranh Cao Ly. Biều tượng
của ngày Remembrance Day là hoa poppy flowers (hoa anh túc) màu đỏ mà người ta
đeo ở ngực trong dịp này. Lư do chính là hoa poppy mọc
rất nhiều trên các băi chiến trường ở Pháp
trong Đệ Nhất Thế Chiến.
Loại cây hoa poppy quí nhất là loại
có hoa trắng và nhựa của nó được dùng để
làm thuốc phiện. Loại cây này được trồng
ở Á Đông từ hồi cổ xưa. Có những loại
cây poppy mọc ở nơi hoang dă thuộc Châu Âu. Hoa poppy có
đủ màu: màu đỏ, màu cam, màu trắng, hay màu hồng
hồng. Nhụy hoa thường là màu tím hơi đen
đen hay màu xanh lam. Hoa poppy đă từng được
ngưỡng mộ là một loại hoa có vẻ đẹp
thanh tao và duyên dáng.
Vào đúng 11 giờ, ngày 11 tháng 11
năm 1918, một hiệp ước đ́nh chiến
được kư kết trên toa xe lửa ởngoại ô
thành phố Compiegne tại Pháp để chấm dứt
Đệ Nhất Thế Chiến, 1914-1918. Từ ngày
đó, người dân Canada luôn luôn lấy ngày 11 tháng 11
để kỷ niệm những người đă hy sinh
cho lư tưởng tự do. Thoạt đầu, ngày lễ
kỷ niệm này có tên là Armistice Day
(ngày hiệp ước đ́nh chiến). Tiếp đó, nó lại có tên là
Thanksgiving Day. Trong đạo luật về các ngày nghỉ
lễ “The Holidays Act” được
kư vào năm 1970, chính phủ Canada chính thức xác nhận
ngày chiến sĩ trận vong của Canada có tên là Remembrance
Day và được kỷ niệm
vào ngày 11 tháng 11 hằng năm.
Với tinh thần của ngày 11
tháng 11 dương lịch, các nước đều kỷ niệm ngày chiến
sĩ trận vong này. Có một số nước dùng cùng
tên và cùng ngày, một số nước khác lại dùng khác
tên khác ngày. Tuy nhiên, mục đích chung vẫn là để
nhớ ơn các chiến sĩ đă hy sinh cho lư tưởng
tự do và ḥa b́nh của nhân loại. Ở Hoa Kỳ,
người ta có hai ngày để
nhớ ơn chiến sĩ: ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ
Trận Vong) và Veterans' Day (Ngày
Cựu Chiến Binh).
Ngày Memorial Day được tổ
chức vào ngày thư Hai cuối tháng 5 dương lịch,
và ngày Veterans' Day được tổ chức vào ngày 11
tháng 11 dương lịch. Ở Pháp, ngày chiến sĩ trận
vong được gọi là Jour Du Souvenir và cũng
được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch.
Ở Anh, ngày chiến sĩ trận vong có tên giống
như của Canada là Remembrance Day và được tổ
chức vào ngày Chủ Nhật gần nhất của ngày 11 tháng
11 dương lịch. Ở Nga, ngày chiến sĩ trận
vong có tên được dịch sang tiến Anh là Victory Day
và được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 dương
lịch. Ở Đức, ngày chiến sĩ trận vông có
tên là Volkstrauertag và được tổ chức vào ngày Chủ
Nhật thứ ba trong tháng 11 dương lịch.
* Truyền Thống Hoa Đeo Hoa
Poppy: Trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến mà người Canada gọi là Great
War, có nhiều trận chiến dữ dội đă diễn
ra tại quận Flanders ở Bỉ (Belgium). Trên băi chiến trường kinh
hoàng đầy chết chóc này, cứ mỗi độ xuân
về trong lúc những người lính đang kịch chiến
ở hầm hố cá nhân hay giao thông hào, hoa poppy màu đỏ
lại nở rộ để đón chào các chiến sĩ
can trường đang bảo vệ tự do và ḥa b́nh cho
nhân loại.
Vị Trung Tá quân y kiêm sĩ quan pháo
binh Canada, Trung Tá John McCrae, đă viết về chiến
trường vinh quang này qua một bài thơ. Với tâm hồn
thơ thôi thúc trong khi đang chiến đấu, Trung Tá
McCrae đă viết những câu thơ bất hủ. Ông bắt
đầu bài thơ “In Flanders' Fields” bằng những chữ:
In Flanders' Fields the poppies blow. Bài thơ này đă được
in trên báo ở Anh, tờ Punch, vào 8 tháng 12, 1915. Chẳng bao
lâu, mọi người lính nơi chiến địa
đă truyền miệng nhau và họ đều thuộc
ḷng bài thơ này và coi nó là bài ca của lính v́ nó đă chứa
đựng tâm tư thầm kín tận đáy ḷng cũng
như sự kinh hoàng cùng cực của họ trong ư nghĩa
cái chết của họ có thể trở thành vô ích và sự
hy sinh của họ có thể bị lăng quên.
Bài thơ “In Flanders' Fields” đă làm cảm động tâm hồn
người Canada cũng như bao người khắp
nơi trên thế giới đến nỗi họ đă chấp
nhận hoa poppy là biểu tượng của nhớ
thương và đă được mọi người mua
gắn trên ngực vào dịp lễ Remembrance Day, 11 tháng 11
dương lịch. Trung Tá John McCrae quê ở Guelph, Canada.
Ông đă tử trận vào ngày 28 tháng giêng năm 1918 trong khi
đang chiến đấu ở mặt trận tại
Pháp. Sau đây là nguyên văn (bằng tiếng Anh) bài thơ
bất hủ "In Flanders' Fields" của Trung Tá John
McCrae.
In Flanders' Fields
In Flanders' Fields the poppies blow,
Between the crosses, row on row
That mark our place, and in the sky,
The larks still bravely singing fly,
Scarce heard amidst the guns below.
We are the dead short days ago,
We lived, felt dawn, saw sunset glow,
Loved and were loved, and now we lie in
Flanders' Fields.
Take up our quarrel with the foe,
To you from falling hands we throw
The torch - be yours to hold it high.
If ye break faith with us who die,
We shall not sleep though poppies grow in
Flanders' Fields.
Chiến Địa Phờ Lan Đơ
(Khải Chính Phạm Kim Thư chuyển
ngữ)
Nơi đây chiến địa Phờ
Lan Đơ, hoa póp-pi khoe ḿnh rực rỡ
Giữa những hàng Tháng Giá mộ
chiến binh,
Và trên không, chim sơn ca can trường
thản nhiên bay cất cao tiếng hót,
Tuy có du dương nhưng hiếm
người nghe được,
Giữa lúc dưới đây lửa
đạn tung trời.
Chúng tôi là những người
đă chết trong mấy ngày ngắn ngủi vừa qua,
Nhưng chúng tôi đă sống,
đă thấy b́nh minh lồng lộng,
Và ngắm hoàng hôn đỏ ối
phương trời.
Chúng tôi đă yêu, yêu say đắm,
Và cũng đă được yêu nồng
thắm một thời.
Nay báo đáp Hồng Ân, đền
bồi nợ nước ,
Thảnh thơi an nghỉ dưới
nấm mộ hoang nơi chiến địa Phờ Lan
Đơ.
Hỡi các bạn c̣n sống nhờ
hy sinh yêu thương đùm bọc ,
Của bao người đă ngă gục
cho tự do,
Hăy đối diện cùng quân thù
hung hiểm,
Hăy tiếp lấy đuốc thiêng
với những cánh tay rắn chắc,
Dâng cao ngọn đuốc nhân bản
soi đường,
Từ tay chúng tôi, những người
đă năm xuống nhưng cố vươn lên.
Nếu các bạn phản bội niềm
tin chính nghĩa Của chúng tôi, những người đă
khuất,
Chúng tôi không thể nào yên giấc,
Dù hoa póp-pi có nở rộ khắp
chiến địa Phờ Lan Đơ!
Hằng năm cứ vào khoảng
độ hai tuần trước ngày lễ Remembrance Day,
ngày 11 tháng 11 ở Canada, và ngày Memorial Day, ngày thứ hai cuối tháng 5 ở Mỹ,
người ta có bày bán hoa poppies giả, cánh hoa màu đỏ,
nhụy màu xanh lam, ở các cửa tiệm và nhà ngân hàng
để gây quỹ giúp thương phế binh. Những
người có ḷng nhớ ơn các chiến sĩ đă hy
sinh v́ chính nghĩa tự do và ḥa b́nh nhân loại đều
mua bông poppy gắn vào ve áo ở trước ngực trong dịp
này.
* Ba Phút Măïc Niệm: Theo phong tục
về sự tưởng nhớ các chiến sĩ trận
vong trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến, ngày kỷ
niệm kư hiệp ước đ́nh chiến Armistice
Day đă được tổ
chức từ năm 1919 theo lời đề nghị của
Anh Hoàng, King George V. Nhà vua yêu cầu
toàn dân Anh dành 3 phút vào đúng 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 để tưởng
nhớ các chiến sĩ trận vong và Bản Tuyên Cáo Ḥa
B́nh.
Trong ngày tưởng niệm đầu
tiên, người ta thấy bất cứ người nào
đang làm việc ǵ cũng tự động ngừng lại
và đứng nghiêm để ngả nón cúi đầu
tưởng niệm trong ba phút. Không những người
ta mà mọi thứ như nhà máy, xe hơi, xe lửa, và ngay cả tàu thủy
cũng tắt máy trong ba phút này, dĩ nhiên máy bay được
hưởng ngoại lệ. Kể từ dạo đó
đến nay, trong ngày Remembrance Day, người ta đều
dành ra 3 phút măïc niệm. Cũng có nơi dành hai phút mà
thôi. Người Việt ḿnh thường chỉ dành 1 phút
măïc niệm để tưởng nhớ các chiến sĩ
trận vong. Đây là sự khác biệt mà chúng ta cần
lưu ư.
b. Ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ
Trận Vong) của Hoa Kỳ: Ngày Memorial Day c̣n được
gọi là Decoration Day. Đây là
ngày lễ mang tính cách ái quốc tại Hoa Kỳ để
vinh danh những người Hoa Kỳ đă hy sinh mạng
sống của ḿnh cho đất nước của họ.
Nguyên trước đây, ngày này chỉ để vinh danh những
chiến sĩ chết trong trận
nội chiến Civil War vào các năm từ 1861 đến
1865. Nhưng hiện nay ngày Memorial Day mang ư nghĩa vinh danh tất
cả những ai đă hy sinh trong các cuộc chiến khi
đang phục vụ cho đất nước Hoa Kỳ.
Sau Đệ Nhất Thế Chiến,
ngày Memorial Day cũng được coi là Ngày Hoa Poppy (Poppy
Day). Từ đó hoa poppy trở thành biểu tượng của
một thảm kịch cũng như của sự tái sinh
bởi v́ những bông hoa poppy đă nở rộ trên khắp
các chiến trường ở Pháp vào thời đó. Có nhiều
cộng đồng người Hoa Kỳ tuyên bố ngày
Memorial Day là do họ khởi xướng mà thành. Tuy nhiên,
vào năm 1966, chính phủ Hoa Kỳ đă tuyên bố thành phố
Waterloo của tiểu bang New York
là nơi khai sinh ra ngày Memorial Day.
Dân chúng thành phố Waterloo đă tổ chức buổi lễ Memorial Day lần đầu tiên
vào ngày 6-5-1866 để vinh danh các chiến sĩ đă hy
sinh trong cuộc nội chiến Civil War của Hoa Kỳ.
Bây giờ, ngày Memorial Day là ngày lễ chính thức của hầu
hết mọi tiểu bang ở Hoa Kỳ và đă
được chính phủ ban hành thành luật kể từ
năm 1971. Các tiểu bang ở phía bắc và một số
các tiểu bang phía nam đều tổ chức ngày Memorial
Day vào ngày Thứ Hai cuối tháng 5 dương lịch.
c. Ngày Veterans Day (Ngày Cựu Quân Nhân)
của Hoa Kỳ: Ngày Veterans Day dùng để vinh danh các chiến
sĩ đă từng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ.
Đây là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa Kỳ
được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch.
Trong ngày lễ này người ta tổ chức các buổi
diễn hành, nói chuyện, và các nghi lễ để vinh danh
các chiến sĩ vô danh trong nghĩa trang quốc gia Arlington
National Cemetery ở Arlington thuộc về miền đông bắc
tiểu bang Virginia trên bờ sông Potomac River, đối diện
với thủ đô Washington D.C., Hoa Kỳ.
Nguyên trước đây, vào năm
1919, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tuyên cáo ngày 11 tháng 11 là ngày Armistice
Day (Ngày Hiệp Ước Đ́nh Chiến) để nhắc nhở dân chúng Hoa Kỳ về những
thảm họa chiến tranh. Rồi một đạo luật
được ban hành vào năm 1938 công nhận ngày Armistice
Day là ngày nghỉ lễ chính thức của liên bang. Sau cùng, vào năm 1954, Quốc Hội
Hoa Kỳ đổi tên ngày Armistice Day (Ngày Hiệp Ước
Đ́nh Chiến) thành ngày Veterans Day (Ngày Cựu Quân Nhân)
để vinh danh tất cả những cựu chiến
binh Hoa Kỳ được tổ chức vào ngày 11 tháng 11
dương lịch.
3. Ngày Independence Day (Ngày Độc Lập)
của Hoa Kỳ
Để nhớ ơn tiền nhân
đă dựng nước và giữ nước, người
Hoa Kỳ hàng năm có kỷ niệm ngày lễ Independence
Day (Ngày Lễ Độc Lập)
của họ. Người Mỹ tổ chức ngày lễ
Independence Day vào mùng 4 tháng 7 hằng
năm để kỷ niệm ngày thành lập Hợp Chủng
Quốc Hoa Kỳ mà ta gọi
là ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ.
Nguyên trước kia, vào ngày 2-7-1776,
Quốc Hội Cách Mạng của mười ba thuộc
địa Anh tại Mỹ đă tuyên bố các thuộc địa này
được hưởng tự do và độc lập.
Nhưng măi tới ngày 4 tháng 7, Quốc Hội Mỹ mới
chấp thuận Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Kể
từ đó, ngày 4 tháng 7 được công nhận là Ngày
Quốc Khánh của Hoa Kỳ.
Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ được
tổ chức đầu tiên ở tiểu bang
Philadelphia vào ngày 8 tháng 7 năm
1776. Vào ngày này, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được
đọc cho dân chúng nghe, chuông từ mọi nhà thờ
đều được rung lên vang dội, các ban nhạc
đều được người ta thi nhau ḥa tấu,
và mọi người dân tưng bừng hoan hỉ đón
chào ngày trọng đại của Hợp Chủng Quốc
Hoa Kỳ. Măi tới năm
1941, Quốc Hội Hoa Kỳ mới tuyên bố ngày 4 tháng 7
là ngày nghỉ lễ hợp pháp trên toàn nước Mỹ.
4. Ngày Canada Day (Ngày Quốc Khánh
Canada)
Người Canada cũng như
người các nước khác rất biết nhớ
ơn tiền nhân đă tranh đấu cho nền độc
lập của quốc gia họ. Ngày Quốc Khánh Canada có
tên là Canada Day. Canada Day là một trong những ngày lễ quan
trong nhất của Canada. Nó được tổ chức
vào ngày mùng 1 tháng 7 dương
lịch mỗi năm để kỷ niệm ngày mà bốn
thuộc địa Anh gồm Newbrunswick, Nova Scotia, Ontario, và
Quebec được thống nhất thành một nước
dưới cái tên Dominion of Canada.
Dominion of Canada do điều luật The British North
America Act có hiệu nghiệm từ ngày 1 tháng 7 năm 1867
chi phối.
Các thuộc địa khác của
Anh gia nhập Dominion of Canada gồm: Manitoba (1870), British
Columbia (1871), Prince Edward Island
(1873), Alberta (1905), Saskatchewan (1905), và Newfoundland (1949). Lănh thổ
Yukon chính thức được
hiến pháp Canada công nhận là lănh thổ của Canada vào
năm 1898. Lănh thổ Northwest
Territories được Anh
chuyển giao cho Canada vào năm 1870.
Lănh thổ Nunavut được
thành lập vào năm 1999. Hiện nay, Canada gồm có 10 tỉnh
và 3 lănh thổ được
chia thành 6 vùng: The Atlantic Provinces (gồm bốn tỉnh:
Newfoundland, NewBrunswick, Prince Edward Island, và Nova Scotia); Quebec;
Ontario; Prairie Provinces (gồm ba tỉnh: Alberta, Saskatchewan, và
Manitoba); British Columbia; và Territories (gồm ba lănh thổ: Yukon
Territory, Northwest Territories, và Nunavut Territory).
Từ năm 1867 đến 1982,
ngày quốc khánh Canada có tên Dominion Day. Sau khi Thủ Tướng
Pierre Elliott Trudeau viết lại hiến pháp Canada, bản
hiến pháp này đă trở thành luật của Canada vào
năm 1982. Từ năm 1982, ngày lễ Dominion Day được
đổi thành ngày Canada Day.
5. Ngày Valentine's Day (Lễ T́nh Yêu)
Ḷng biết ơn, t́nh cảm, cũng
như t́nh yêu có được là nhờ sự quan hệ
và giao thiệp trong cuộc sống giữa cha mẹ, ông
bà, vợ chồng, con cái, anh chị em, thầy tṛ, bằng
hữu, họ hàng, người yêu, đồng nghiệp,
và tha nhân. Ở Bắc Mỹ,
có một ngày đặc biệt gọi là ngày Valentine's
Day dành để kỷ niệm
t́nh thương yêu giữa các cặp t́nh nhân, bạn bè với
nhau, học tṛ và thầy cô, và giữa những người
thân thuộc trong gia đ́nh với nhau.
Ngày lễ Valentine's Day được
tổ chức vào ngày 14 tháng 2 dương lịch. Trong dịp
này người ta gửi cho nhau những thiệp chúc mừng
Valentine. Thiệp Valentine thường được
người yêu tặng cho nhau, bạn bè gửi cho nhau, và
những người trong gia đ́nh cùng thân thuộc trao
nhau để tỏ ḷng biết ơn và nhớ tới
nhau.
Hàng tuần lễ trước ngày
14 tháng 2, các cửa tiệm đều bán đủ thứ
thiệp Valentines và những đồ trang trí cho ngày
Valentine. Biểu tượng của
Valentine là h́nh trái tim màu hồng hay đỏ. Học sinh ở
các trường trang hoàng lớp học với những
trái tim bằng giấy màu hồng hay đỏ cùng với
dây đăng ten bằng giấy nhiều màu. Các em c̣n mua
các thiệp Valentines để tặng nhau và tặng thầy
cô.
Vào ngày Valentine, người ta tặng kẹo,
hoa, và các thứ quà cho người
yêu, bạn bè, thầy cô, cha mẹ, anh chị em, ông bà, và họ
hàng. Các học sinh lớn
hơn thường mở dạ vũ Valentine và tổ chức
các buổi tiệc và các cuộc vui khác thật là linh
đ́nh và náo nhiệt. Như đă tŕnh bày, ngày Valentine không
phải chỉ dành riêng cho những cặp t́nh nhân, nó dành
để mọi người bày tỏ t́nh thân
thương với nhau, trong đó có t́nh yêu trai gái. V́ thế,
nếu ai dịch từ Valentine ra tiếng Việt là Ngày Lễ
T́nh Nhân th́ e không được
ổn.
a. Nguồn
Gốc Ngày Lễ Valentine: Có nhiều sự tích để
giải thích nguồn gốc của ngày lễ Valentine. Có
người cho rằng ngày lễ này bắt nguồn từ
ngày hội của người La Mă tên là Lupercalia. Có người
cho nó có liên quan đến các vị thánh trong đạo
Thiên Chúa lúc mới được thành lập. Theo tín
ngưỡng của người Anh, ngày lễ Valentine được tổ chức vào
14