tháng 2 dương lịch là do các giống
chim đều kén vợ t́m chồng của chúng vào ngày này.
Có lẽ ngày Valentine tồn tại
được đến ngày nay là do sự tổng hợp
của ba nguồn gốc trên. Thêm vào đó, người ta
tin là mùa xuân là mùa của những cặp t́nh nhân để họ yêu thương, trân trọng,
và tŕu mến nhau.
* Ngày hội Lupercalia của người
La Mă: Người La Mă tổ chức ngày hội Lupercalia vào
ngày 15 tháng 2. Trong buổi lễ này, những người
đàn ông con trai lấy roi da quật nhẹ vào các người
tham dự buổi lễ. Trong khi đó th́ đàn bà con gái
t́nh nguyện đưa thân ḿnh đón lấy ngọn roi v́
tin rằng làm như thế họ sẽ có cơ hội mắn
con (sinh đẻ nhiều). Khi người La Mă đô hộ
nước Anh vào năm 43 dương lịch, người
Anh mới đồng hóa phong tục này của người
La Mă để tổ chức ngày lễ Valentine. Các văn thi sĩ cho rằng ngày
Valentine có liên hệ với
ngày hội Lupercalia v́ nó có ngày
kỷ niệm gần trùng nhau và có tính cách sinh sôi nẩy nở.
* Các vị Thánh Valentines của
đạo Thiên Chúa: Từ hồi xa xưa, Thiên Chúa giáo có
ít nhất là hai vị thánh có tên là Valentine. Chuyện kể
rằng Hoàng Đế La Mă tên là Claudius II, vào năm 200 dương lịch,
đă cấm thanh niên không được lập gia
đ́nh. Nhà vua tin rằng những chàng trai độc thân sẽ
là những chiến sĩ giỏi và can trường hơn
những đàn ông có gia đ́nh. Trong khi đó, một tu sĩ
tên là Valentine lại không tuân lệnh
nhà vua và cứ bí mật làm lễ cưới cho các cặp
trai gái trẻ.
Có chuyện khác kể rằng một
tín đồ đầu tiên của đạo Thiên Chúa có
tên là Valentine đă làm bạn với rất nhiều trẻ
em. Trong thời gian này, người
La Mă đă bỏ tù Valentine bởi
v́ anh ta không chịu tôn thờ Thượng Đế của
họ. V́ không được gặp Valentine nữa, các trẻ
em, bạn của Valentine, rất nhớ anh ta. Chúng viết
vào các mảnh giấy nhỏ những lời nhớ
thương tŕu mến đối với Valentine rồi
ném mảnh giấy qua song cửa nhà tù cho anh ta đọc.
Căn cứ vào câu chuyện này, người ta có thể giải
thích tại sao mà có lệ gửi thiệp với những
lời yêu thương cho nhau vào dịp lễ Valentine. Trong
khi ở tù, anh chàng Valentine
đă chữa sáng mắt cho người con gái mù của
người cai ngục. Sau đó người ta được
biết Valentine đă bị hành quyết vào ngày 14 tháng 2
năm 269 dương lịch.
Măi đến năm 496, Thánh Pope
Gelasius Đệ I đă phong thánh cho Valentine và chọn ngày
14 tháng 2 làm ngày Thánh Valentine (St. Valentine's Day). Ngoài ra, chữ Galantine
trong tiếng Pháp do người xứ Normandy (ở
tây bắc nước Pháp) sử dụng vào thời Trung Cổ
có âm gần giống chữ
Valentine và có nghĩa là
người yêu hay người có tính ga-lăng (lịch sự,
biết chiều chuộng đàn bà con gái). Chính v́ sự
tương đồng này mà người ta cho Thánh
Valentine là vị thánh đặc
biệt của những cặp t́nh nhân. Xin nhớ rằng
người Pháp dùng chữ
Galantine với nghĩa khác và cách phát âm khác, không giống
như người xứ Normandy đă dùng ở thời
Trung Cổ.
b. Các Giống Chim Chọn Vợ Chồng
Vào Ngày 14 Tháng 2 Dương Lịch: Hồ sơ lâu đời
về ngày Valentine's Day ở
Anh ghi rằng các giống chim chọn vợ chồng vào
ngày 14 tháng 2. Đây là điều mà các thi sĩ và kịch sĩ
Anh như Geoffrey Chaucer và Shakespeare đều ca ngợi trong
các tác phẩm của họ.
Geoffrey Chaucer, một thi sĩ của
Anh vào những năm 1300, đă viết trong thi phẩm The
Parliament of Fowls các câu thơ sau:
For this was on St. Valentine's Day, / When every fowl cometh there to
choose his mate ( V́ đây là vào dịp của ngày Thánh Valentine,
Bao nhiêu chim chóc đều về đây kén vợ t́m chồng).
Shakespeare cũng đề cập
ḷng tin này trong kịch phẩm A Midsummer Night's Dream . Một
nhân vật trong vở kịch đă gặp cặp t́nh nhân
trong rừng và hỏi họ: St. Valentine is past; / Begin these
woodbirds but to couple now? (Thánh Valentine không c̣n nữa, / Có phải
những con chim rừng này bây giờ trở thành đôi uyên
ương không?).
Một trong những phong tục thời
xưa là vào dịp Valentine, người ta biên tên của các
cô gái vào từng mảnh giấy nhỏ rồi bỏ vào
trong một caí lộc b́nh (cái hũ) để các đấng
đàn ông con trai rút thăm. Nếu tên của cô nào
được một cậu rút thăm trúng th́ cô đó sẽ
trở thành Valentine của cậu ấy. Cậu ta sẽ
chú ư săn sóc cô ta thật đặc biệt và mua quà
Valentine cho cô này. Chính v́ thế
mà người ta có thói quen gọi người ḿnh yêu
thương là My Valentine.
Ngày lễ Valentine's Day đầu
tiên trên thế giới được tổ chức ở
Anh vào khoảng năm 1400 dương lịch. Hiện nay
ngày lễ này được đa số các nước
trên thế giới tổ chức để mọi người
có dịp bày tỏ và trân trọng t́nh yêu của nhau. Thật
là một tục lệ rất đáng được bảo
tồn và phát huy.
6. Ngày Lễ Christmas Day (Lễ Giáng
Sinh)
Ngày lễ Thanksgiving của Hoa Kỳ
cùng với ngày lễ Giáng Sinh và ngày Tết Tây tạo thành một
mùa nghỉ lễ vui tươi bắt đầu từ
tháng 11 đến hết tháng 12 Dương lịch. Ngày lễ Christmas mà ta thường
gọi là Nô-En (Noel) hay Lễ Giáng Sinh và ngày Tết Tây là hai ngày lễ trọng đại
của người Bắc Mỹ. Không khí của hai ngày lễ
này cũng giống như không khí ngày Tết của ta vậy.
Đây là dịp để mọi người bày tỏ
ḷng săn sóc, cám ơn, và t́nh thương đối với
nhau, đồng thời cũng là dịp cho mọi người
được ăn chơi thỏa thích. Có nghèo đến
mấy, mọi người cũng phải sắm những
món quà tặng nhau, nhất là các bậc ông bà cha mẹ, bằng
đủ mọi cách họ phải mua cho mỗi đứa
con, mỗi đứa cháu hay mỗi người trong gia
đ́nh một món quà thật là ưng ư. Con cháu cũng mua
quà và thiệp Giáng Sinh tặng bố mẹ và ông bà.
Người ta chuẩn bị cho lễ
Giáng Sinh hàng hai tháng trời trước đó. Kể từ
đầu tháng 11 dương lịch, mọi người
đều háo hức rộn rực đón mừng Giáng Sinh
và năm mới giống như người Việt ta chuẩn
bị cho ba ngày Tết vậy. Có một điều khác biệt
là người ta ăn mừng Giáng Sinh vừa theo tinh thần
tôn giáo vừa theo phong tục dân gian. Cao điểm của sự háo hức
rộn rực là vào tối trước ngày Giáng Sinh
(Chirstmas Eve). Sau đó mọi thứ coi như bị x́
hơi từ từ cho tới đêm trừ tịch của
Tết Tây th́ không khí vui nhộn lại bùng lên một chút rồi
tắt lịm.
Tết ta mang nặng ư nghĩa phong
tục dân gian nhiều hơn. Có nhiều người Việt
chúng ta chuẩn bị cho 3 ngày Tết trước đó cả
năm. Náo nức nhất là từ tháng một (tháng 11)
đến tháng chạp (tháng 12). Đêm giao thừa th́ thật
là tuyệt vời. Đây là giờ phút thiêng liêng nhất của
một năm. Sau ba ngày Tết, dân gian ta c̣n vui cái không khí của
Tết cho măi đến hết tháng giêng (tháng 1). Ca dao ta có
câu: Tháng giêng ăn Tết ở nhà, tháng hai cờ bạc,
tháng ba hội hè.
Dù giầu nghèo thế nào mặc
ḷng, người ta cũng phải lo cho ba ngày Tết thật
chu đáo. Người xưa có câu: Giầu ba ngày Tết,
khốn khó cũng ba ngày Tết. Người Bắc Mỹ
cũng vậy. Họ c̣n vay nợ để tiêu xài cho thỏa
thích trong mùa Giáng Sinh. Đây là cái mốt của mọi
người. Trước đây,
chính phủ Canada c̣n cấp cho
dân ăn tiền trợ cấp xă hội (welfare) một
khoản tiền đặc biệt chỉ dành để
tiêu xài trong mùa Giáng Sinh .
Tuy rằng ngày lễ Giáng Sinh là ngày
lễ của các người theo đạo Thiên Chúa
được tổ chức mỗi năm vào ngày 25 tháng
12 dương lịch để kỷ niệm ngày sinh của
Chúa Jesus, nhưng đă hàng bao thế kỷ nay, ngày lễ này
đă trở thành phong tục truyền thống của
đời và đạo. Mọi người, dù có theo đạo
Thiên Chúa hay không, cũng đều tổ chức mừng
ngày Chúa ra đời.
Truyền thống tôn giáo gồm có
các sinh hoạt như kể chuyện về ngày Chúa ra đời,
hát các bài hát Giáng Sinh gọi là Christmas Carols, đi lễ nửa đêm vào tối
hôm trước ngày Giáng Sinh, và trang hoàng nhà cửa cùng nhà thờ
bằng những cảnh chúa sinh ra đời như hang
đá và máng cỏ, v.v.
Truyền thống dân gian gồm có
diễn hành Santa Claus Parade, trang trí nhà cửa và các công viên bằng
h́nh Ông Già Nô-En (Santa Claus), cây Nô-En (Chirstmas Tree), dây đèn đủ màu săùc,
và ṿng hoa (Wreath). Mọi người
tặng quà cho nhau, mở tiệc và dạ vũ, kể chuyện
cho trẻ em nghe, và hát những bài hát vui tươi hay đọc
thơ như bài “The Night Before Christmas” (ĐêmTrước Lễ
Giáng Sinh) v.v.
Ngày Lễ Giáng Sinh và Tết
Dương Lịch quả thật
là thời gian tuyệt vời để mọi người
nghĩ tới nhau, săn sóc nhau, tỏ ḷng biết ơn
nhau, và vui chơi thỏa thích. Mùa đông tháng giá cũng v́
thế mà ấm áp lên, có vẻ ngắn đi, và mang đầy
ư nghĩa thân t́nh.
III. Nhập Gia Tùy Tục, Nhập
Giang Tùy Khúc
Đành rằng phong tục của
người Việt ta phải giữ, nhưng chúng ta chỉ
nên giữ lấy cái hay cái
đẹp của phong tục ḿnh và tránh những điều
có thể gây phiền hà cho người chung quanh cũng
như làm sao để khỏi lôi thôi tới pháp luật ở
nơi quê hương mới này. Để được
sống hạnh phúc nơi quê hương mới này, đa
số người Việt đang sống ở hải ngoại
đều đồng ư là ta phải học thêm những
cái hay cái đẹp của người để làm giầu
cho phong tục Việt và nhất là để ḥa ḿnh vào nếp
sống mới cho đời chúng ta được thoải
mái và con cháu chúng ta được vui tươi.
Các nhà giáo dục đều nhận
thấy vai tṛ của phụ huynh và các hội đoàn
người Việt ở hải ngoại rất là quan trọng
trong việc tiên phong hướng dẫn con em chúng ta về
truyền thống hiếu thảo và ḷng biết ơn của
người Việt. Tuy sống và lớn lên ở xứ
ngưới, con em chúng ta vẫn cần phụ huynh khuyến
khích chúng học hỏi cái hay cái đẹp về phong tục
mới của người bản xứ trong khi vẫn
giúp chúng duy tŕ phong tục và tập quán của người
Việt Nam. Người ta tin rằng việc làm cụ thể
và có hiệu quả nhất là phụ huynh và cộng đồng
nên làm gương cho con em về những hành động hiếu
thảo và biết ơn.
Chúng tôi ghi nhận được
những hoạt động đầy ư nghĩa của các
hội đoàn người Việt trên toàn cơi Bắc Mỹ.
Có rất nhiều nơi đă tổ chức được
những ngày cám ơn Canada, Thank You Canada, hay ngày cám ơn nước Mỹ,
Thank You America, để cám ơn chính phủ và nhân dân Canada
và Hoa kỳ về nghĩa cử cao đẹp mà họ
đă làm để giúp đỡ người Việt tỵ
nạn cộng Sản chúng ta.
Đă có rất nhiều các hội
đoàn người Việt tham dự và đặt ṿng hoa
tại đài kỷ niệm nhân ngày chiến sĩ trận
vong Remembrance Day của
Canada, ngày chiến sĩ trận
vong Memorial Day, và ngày cựu
quân nhân Veterans Day của Hoa Kỳ.
Trong các ngày quốc khánh của Canada cũng như của
Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt chúng ta
c̣n tham gia vào các cuộc diễn hành và triển lăm nữa.
C̣n có nhiều hội đoàn tổ chức ngày nhớ
ơn người bảo trợ thật là trọng thể.
Đây là những việc làm đáng được khuyến
khích và tuyên dương.
Chúng tôi c̣n nhớ ở thành phố
London, Canada, hồi Hội Người Việt London mới
được thành lập vào 1979, một đại diện
của hội đă hiện diện và đặt ṿng hoa
trong buổi lễ chiến sĩ trận vong Remembrance
Day. Một điều đặc
biệt hơn nữa là có trên năm chục hội
đoàn của những người di dân thuộc các nước
khác ở London mà dạo đó
chỉ có vị đại diện
của Hội Người Việt London ghi danh tham dự
buổi lễ này mà thôi. Các viên chức ṭa đô chính London
và các giới cựu chiến binh Canada đă hết sức thán phục
nghĩa cử biết ơn cao đẹp của đồng
bào người Việt chúng ta.
Vào năm 1996, các hội đoàn
người Việt ở Toronto, Canada c̣n có sáng kiến tổ
chức ngày vinh danh thầy cô, Teachers' Day. Buổi sinh hoạt
này đă thành công mỹ măn và làm các viên chức của sở
giáo dục, thầy cô người Canada, và các cấp chính
quyền địa phương hết sức thán phục
truyền thống biết ơn thầy cô của dân Việt. Người Canada chưa có ngày nào
dành riêng để nhớ ơn thầy cô cả. Học
tṛ ở đây coi việc dạy học của các thầy
cô như một dịch vụ thương mại, nhất
là ở bậc đại học. Hằng năm, cứ
đến cuối học kỳ, sinh viên của một số
các trường đại học có quyền cho điểm
thầy cô. Tùy theo chúng thương hay ghét mà thầy cô có
được dạy tiếp trong học trong niên khóa tới
hay không.
Đa số học sinh, và ngay cả
phụ huynh người Bắc Mỹ đă không coi trọng
thầy cô như học sinh và phụ huynh người Việt
chúng ta. Chính v́ thế mà việc làm của cộng đồng người Việt Toronto đă
làm cho các bậc phụ huynh và chính quyền Canada phải
xét lại thái độ của họ đối với thầy
cô. Thầy cô giữ vai tṛ tối quan trọng trong việc
giáo dục trẻ. Địa vị của thầy cô có
được kính trọng, công việc làm của thầy
cô có được phụ huynh và học tṛ nhớ ơn,
th́ việc giáo dục con em mới khá được. Cao
dao của ta có câu: Muốn sang
th́ bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thời yêu
lấy thầy.
Trước đây, Liên Hiệp Quốc
có yêu cầu các quốc gia tổ chức ngày vinh danh các thầy
cô của họ. Tên bằng tiếng Anh của Ngày Vinh Danh
Các Thầy Cô là World Teachers' Day. Theo tin tờ Toronto Star, số
ngày 5-10-2000, ngày Vinh Danh Thầy Cô
là ngày Thứ Năm, 5-10-2000.
Tuy nhiên, chưa thấy ngày Vinh danh Thầy Cô
được ghi trong các tự điển hay trong World
Book, Millennium 2000. Ngày này cũng chưa được phổ
biến rộng răi. Rất nhiều học sinh chưa biết
tới Ngày Vinh Danh Thầy Cô. Dù sao đây cũng là một
tiến bộ lớn lao trong sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc.
Chúng tôi cũng đă chứng kiến
một hội đoàn người Việt ở Toronto tổ
chức buổi sinh hoạt hằng năm vào mùa báo hiếu
Vu Lan để vinh danh các bậc cha mẹ rất có ư nghĩa
và rất cảm động đối với những
người có mặt ngày hôm đó. Ngoài ra, chúng tôi c̣n thấy
có nhiều tờ bao Việt Ngữ và các tổ chức cộng
đồng người Việt ở Bắc Mỹ có nghĩa
cử vị tha thật cao đẹp. Đó là việc tổ
chức quyên tiền giúp nhân dân Bắc Mỹ tại những
nơi bị các trận thiên tai như động đất
và băo lụt. Cử chỉ cao đẹp này đă làm vẻ
vang người Việt ở Bắc Mỹ trong tinh thần:
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ nguồn,
và Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn.
Chúng tôi lại tận mắt thấy
trong một số các gia đ́nh Việt Nam ở Bắc Mỹ
có những người con dù đă ngoài 60 tuổi mà vẫn
đích thân chăm nom săn sóc cha mẹ già, tuổi từ
85 đến ngoài 90. Dù có bận trăm công ngh́n việc,
các người con này cũng giữ cha mẹ ở nhà
để phụng dưỡng chu đáo, chứ không chịu
giử cha mẹ vào viện dưỡng lăo như người
bản xứ đă và đang làm.
Trên đây là những cử chỉ
đẹp và đầy ư nghĩa. Tuy nhiên đó mới chỉ
có một số các hội đoàn và cá nhân làm được
mà thôi. Chính v́ vậy mà các người hoạt động
cộng đồng lâu năm đều đồng ư với
nhau rằng các phụ huynh và cộng đồng người
Việt phải khuyến khích con em ḿnh tham gia mọi sinh hoạt
của địa phương nơi ḿnh đang định
cư. Phải coi đất nước này ít ra cũng
như quê ngoại của ḿnh, coi mọi sinh hoạt ở
địa phương cũng như sinh hoạt của
gia đ́nh ḿnh. Có như thế chúng ta mới xứng
đáng với truyền thống hiếu thảo và biết
ơn của tiền nhân để
lại.
T́m Hiểu về Những Ngày Tết
và Nghi Thức Thờ Cúng Tổ Tiên
I. Các Loại Ngày Tết
Là con dân đất Việt, chúng ta,
nhất là những người đă phải rời bỏ
nơi cố quận chỉ v́ quân xâm lăng Cộng Sản
tàn phá quê hương, hăy cùng nhau nhớ lại những ngày
Tết cùng ư nghĩa của chúng. Tục lệ thờ cúng
tổ tiên cũng là một phong tục hết sức có nghĩa
mà những con cháu có hiếu thảo cần phải hiểu
biết và thực hiện để sưởi ấm ḷng
nơi đất khách quê người.Người xưa
đă chọn ngày mồng một tháng giêng ta để làm
ngày Tết, tức là Tết Nguyên Đán. Trong một
năm, các bậc tiền nhân c̣n bầy ra nhiều dịp
để ăn Tết, nhưng Tết Nguyên Đán
được tổ chức long trọng hơn cả.
Trong phạm vi bài này, sau đây chúng tôi chỉ đề cập
một cách hết sức tổng quát và tóm tắt sơ
lược về các ngày Tết mà thôi. Chúng tôi sẽ viết
đầy đủ chi tiết về mỗi loại Tết
khi có dịp thuận tiện.
1.Tết Hàn Thực: Tết Hàn
Thưc (Hàn Thực nghĩa là ăn đồ lạnh)
được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch mỗi năm. Trong dịp này,
người ta nấu bánh trôi bánh chay để cúng gia tiên.
Ta du nhập tục lệ này của Tàu. Người Tàu tổ
chức Tết Hàn Thực để kỷ niệm vị
công thần tên là Giới Tử Thôi (thường gọi tắt
là Giới Tử) thuộc nhà Tấn đời Xuân Thu bị
chết thiêu.
2. Tết Thanh Minh: Tết Thanh Minh
được tổ chức vào tháng ba ta. Thanh Minh nghĩa
là tiết trời mát mẻ trong sáng. Trong dịp này người
ta đi tảo mộ, tức là thăm mộ thân nhân, nhổ
sạch cỏ hoang, và đắp lại mộ của ông
bà và tổ tiên cho đẹp đẽ rồi thắp nhang
cùng bày hoa quả cúng mộ. Sau khi tảo mộ, người
ta về nhà làm cỗ cúng gia tiên.
Trong những tài liệu nói về
phong tục Việt, người ta không đề cập
rơ ngày nào là ngày Thanh Minh. Nguyễn Du cũng chỉ nói: “Thanh
Minh trong Tiết tháng Ba,/ Lễ là Tảo Mộ, Hội là
Đạp Thanh (Kiều, câu 43-44). Thanh Minh vừa là ngày lễ
vừa là ngày hội vui như ngày Tết. Chính v́ thế
người ta mới coi Thanh Minh là một ngày Tết. Tuy
nhiên, trong lịch ta, nhà làm lịch đă tuỳ theo thời
tiết để ấn định ngày nào là ngày Thanh Minh.
Mỗi năm có ngày Thanh Minh khác nhau. Chẳng hạn, trong
năm Tân Tỵ, ngày 12 thang 3 ta, tức là ngày 5 tháng 4, 2001,
là ngày Tết Thanh Minh.
3. Tết Đoan Ngọ: Tết
Đoan Ngọ hay Đoan Dương mà người ta c̣n gọi
là Tết Giết Sâu Bọ được tổ chức
vào ngày 5 tháng 5 ta. Trước
ngày Tết này độ một hai tuần, người ta
làm rượu nếp để cúng và ăn vào sáng ngày mùng
5. Đây là món ăn tiêu biểu cho ngày Tết Đoan Ngọ
của Việt Nam ta để "giết sâu bọ."
Ngoài ra, trong ngày Tết Đoan Ngọ,
dân ta c̣n nấu bánh đa kê và mua các trái cây như mận,
xoài, dưa hấu, chanh, v.v. để cúng gia tiên rồi cho
trẻ con và người lớn ăn để "giết
sâu bọ." Sáng ngày mùng 5, mọi người đi hái lá
cây như lá cối xay và lá vối
đem phơi khô nấu nước uống để trừ
bệnh hoạn. Trong dịp này, nhiều người c̣n
mua bùa đeo vào cổ cho trẻ con để trừ tà ma nữa.
4. Tết Trung Nguyên: Tết Trung
Nguyên được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 ta. Tết
này c̣n được gọi là Tết Rằm Tháng Bẩy,
Lễ Vu Lan, Mùa Báo Hiếu, Ngày Nhớ Ơn Cha Mẹ, hay
Ngày Xá Tội Vong Nhân. Theo đạo Phật, người
dưới âm phủ được tha tội vào ngày hôm ấy.
V́ thế người ta mua vàng mă và làm cỗ cúng gia tiên và
cúng cô hồn vào dịp này. Người ta c̣n đi lễ
chùa đọc kinh báo hiếu để tỏ ḷng biết
ơn cha mẹ, ông bà, và tổ tiên.
5. Tết Trung Thu: Tết Trung Thu
được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 ta. Tết này
c̣n được gọi là Tết Rằm Tháng Tám, Tết
Nhi Đồng, hay Tết Trẻ Em. Vào đêm rằm tháng
tám, trăng thu rất tṛn, rất đẹp, trời trong
sáng, và khí hậu rất mát mẻ. Trong dịp này, có nhiều
thú vui để trẻ em và người lớn ăn
chơi. Trẻ em th́ rước đèn, ca hát các bài hát Trung
Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng các thứ trái cây do cha
mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới h́nh thức
mâm cỗ.
Theo tục lệ ở một số
nơi tại Việt Nam ta trước ngày 30 tháng 4, 1975, việc
trẻ con thưởng thức bánh kẹo trái cây trong
đêm Trung Thu này được gọi là "phá cỗ."
Người lớn th́ tổ chức các đội múa lân,
ăn bánh trung thu, uống trà tàu, và thưởng trăng.
Người ta c̣n mua bánh trung
thu và hoa quả để cúng
gia tiên trong dịp này. Thật là một dịp vui
chơi vui thỏa thích và đầy ư nghĩa.
6. Tết Táo Quân: Tết Táo Quân (Táo
Quân là Vua Bếp) được tổ chức vào ngày 23
tháng 12 ta, tức là tháng Chạp. Theo tục truyền, vào
ngày ấy Vua Bếp lên chầu Ngọc Hoàng Thượng
Đế để tâu việc thiện ác của trần
gian. V́ thế người ta làm lễ tiễn Táo Quân vào
ngày đó. Trong lễ cúng, ngoài các thứ khác, đặc biệt
phải có một con cá chép để làm ngựa cho Táo Quân
cưỡi về trời. Có nơi người ta vẽ
tranh c̣ bay ngựa chạy để cúng và tiễn Táo Quân về trời.
7. Tết Trùng Cửu: Tết Trùng Cửu
c̣n gọi là Tết Trùng Dương được tổ
chức vào ngày mùng 9 tháng 9 ta (số 9 là số dương).
Tết này lấy sự tích từ câu chuyện lánh nạn
của Hoàng Cảnh, đời Hậu Hán bên Tàu (25-250).
Hoàng Cảnh theo học đạo tiên với Phi Trường
Pḥng. Một hôm Phi Trường Pḥng bảo Hoàng Cảnh là
đến ngày 9 tháng 9 (năm ?) gia đ́nh của anh ta sẽ
gặp phải tai nạn, muốn tránh nạn th́ cả nhà
phải đi lên núi chơi vào ngày hôm ấy, nhớ mang theo
rượu hoa cúc để uống, phải đeo ở
tay mỗi người một túi đỏ đựng hạt
tiêu, và ở chơi trên núi cao đến tối mới trở
về.
Quả thực đến tối
khi trở về, Hoàng Cảnh thấy gia súc trong nhà đều
bị chết hết. Chính v́
tích này mà vào dịp Tết Trùng Cửu, người ta có tục
bỏ nhà lên núi uống rượu cúc. Ngày nay, không mấy
ai tổ chức Tết này v́ nó hoàn toàn theo tục của
Tàu, người Việt ḿnh ít ai theo. Tuy nhiên, các tao nhân mạc
khách thường mượn dịp này lên núi uống
rượu làm thơ.
8.Tết Trùng Thập: Tết Trùng
Thập là Tết được tổ chức vào ngày 10
tháng 10 ta. Tết này cũng là Tết của người
Tàu, ít được người Việt ta theo. Chỉ có
các nhà đồng cốt (người lên đồng bóng)
và thầy thuốc ta c̣n theo tục ăn Tết này. Ở
nhà quê cũng có một số
nơi người Việt ta ăn Tết Trùng Thập.
Người ta thường làm bánh dầy và chè kho để
cúng gia tiên và cúng thần trong dịp Tết Trùng Thập. Có nơi ăn Tết Trùng Thập
vào ngày 31 tháng 10 để nhớ đến công Tiên Nông và
để ăn mừng công việc gặt hái của vụ
mùa đă xong. Không thấy sách nào ghi rơ về nguồn gốc
Tết Trùng Thập.
9. Tết Nguyên Đán: Tết Nguyên
Đán, như trên đă nói, được mọi người
Việt ḿnh tổ chức rất linh đ́nh và long trọng,
kéo dài suốt ba ngày, từ ngày mồng một tới ngày mồng
ba tháng giêng ta. Vào chiều 30 Tết, người ta làm cỗ
để cúng và rước tổ tiên về. Tới nửa
đêm 30 rạng mồng một Tết, tức là Đêm Trừ
Tịch, người ta làm lễ cúng trời đất
để tiễn năm cũ và đón năm mới. Việc
cúng vào giữa đêm 30 này được gọi là cúng Trừ
Tịch hay cúng Giao Thừa.
Ngày xưa người ta c̣n ăn Tết
Nguyên Đán suốt cả tháng giêng, tháng hai, và tháng ba ta. Ca
dao ta có câu: “Tháng Giêng ăn tết ở nhà, /Tháng Hai cờ
bạc, tháng Ba hôi hè.” Trong ngày Tết Nguyên Đán, người
ta rất niềm nở chào hỏi nhau, xá nhau, tay bắt mặt
mừng, và c̣n ôm nhau nữa. Thời thế đổi thay
ta mới có nhiều cách chào nhau như vậy.
Theo phong tục Việt, người
ta không bắt tay để chào hỏi nhau. Trong trường
hợp người dưới chào người trên hay
người trẻ chào người già, người ta chỉ
khoanh tay cúi đầu hay chắp tay để trước
ngực rồi cúi đầu xuống để chào.
Người trên cũng chắp tay lại gật đầu
chào đáp lễ người dưới. Cách chắp tay lại
để ở trước ngực và cúi đầu chào gọi
là “xá.” Xá là cách chào thuần túy của người Việt
ta từ trước tới nay.
V́ bị ảnh hưởng văn
hóa Tây Phương, người Việt ta lại du nhập
lối chào bằng cách ôm nhau và hôn nhau. Kiểu chào này
được tên Hồ tặc của bọn Việt cộng
áp dụng một cách triệt để khi hắn ta gặp
đàn bà con gái người Nga.
II. Ư Nghĩa Ngày Tết Nguyên Đán
Tuy rằng ta có nhiều ngày Tết
nhưng ngày Tết Nguyên Đán mới đích thực mang
đầy đủ ư nghĩa của ngày Tết. Chính v́ thế
mà mỗi khi nói đến Tết là người ta chỉ
liên tưởng đến Tết Nguyên Đán mà thôi. Ngày Tết
mà chúng tôi đề cập trong phần này là để chỉ
Tết Nguyên Đán. Ngày Tết là dịp để mọi người
hân hoan chúc cho nhau những điều tốt lành nhất
cho năm mới và bỏ qua hết những xích mích đă
làm mất ḷng nhau trong năm cũ. Ai ai cũng đều
tay bắt mặt mừng và dành nhiều th́ giờ đến
thăm họ hàng, bạn bè, và bà con lối xóm.
Ngày Tết c̣n là ngày khởi đầu
cho một hy vọng mới, một cố gắng mới,
và một cuộc đời mới trong tương lai.
Ngày Tết cũng là ngày đoàn tụ. Người đi
làm ăn xa xôi đến mấy cũng cố trở về
quê, tức là nơi ḿnh
được sinh ra hay quê quán của cha mẹ, để
ăn Tết và cúng tổ tiên cùng
mừng tuổi ông bà, cha mẹ, họ hàng, và bà con lối
xóm. Mọi người đều nghỉ ngơi và ăn
chơi cho bơ những ngày làm lụng vất vả.
Người Việt ta có thói quen là
quanh năm chăm chỉ làm ăn. Suốt cả năm ở
nơi thành thị, đa số những người buôn
bán và các công nhân viên ở xưởng máy không có th́ giờ
nghỉ ngơi. Ở nơi nông thôn đồng ruộng cũng
vậy, quanh năm người nông dân cũng không có ngày nào
là ngày Chủ Nhật nên mọi người đều mệt
mỏi và không có th́ giờ để đi thăm họ
hàng bà con cùng bằng hữu ở xa được. Chính v́
thế mà người Việt ta đă nhờ những ngày
Tết để có dịp nghỉ xả hơi và thăm
hỏi nhau hầu xiết chặt mối dây t́nh cảm giữa
gia đ́nh, bạn bè, và hàng xóm.
Ngày Tết c̣n có một ư nghĩa
cao đẹp nữa là việc tỏ ḷng biết ơn
đối với tổ tiên cùng báo hiếu ông bà và cha mẹ.
V́ thế cho nên ta đă thấy trong bất cứ ngày Tết
nào người Việt ḿnh cũng bày cỗ cúng gia tiên. Tết
c̣n mang một ư nghĩa đại đoàn kết, tha thứ,
cởi mở, biết ơn, và vui sống của mọi
người dân Việt. Đây là một truyền thống
tốt đẹp cần phải duy tŕ và phát triển!
III. Việc Cúng Gia Tiên
1. Ư Nghĩa Của Việc Cúng Gia
Tiên
Cúng gia tiên là cúng tổ tiên trong nhà,
tức là ông bà cha mẹ đời trước. Đây là bổn
phận thiêng liêng của con cháu để tỏ ḷng nhớ
ơn cha mẹ,ông bà, và tổ tiên. Tục cúng gia tiên của
ta rất thành kính. Con cháu có của ngon vật lạ thường
dâng cúng gia tiên trước rồi mới ăn. Trong dịp
giỗ Tết, người ta thắp nhang đèn, bày hoa quả,
rượu, trầu cau, ba ly nước trong, cỗ bàn, và
bánh mứt. Khi cúng phải mặc quần áo tề chỉnh,
thắp nhang (hương), đánh chuông, và khấn vái. Có
người cho việc thờ cúng tổ tiên là một cái
đạo, Đạo Thờ Cúng Ông Bà. Đạo ở
đây không có nghĩa của tôn giáo mà là đạo làm
người trong gia đ́nh Việt Nam, lấy t́nh cảm
và liên hệ gia đ́nh làm chủ yếu. Khi người
nhà mất, thân nhân thương xót và nhớ ơn rồi
sinh ra ḷng thành kính.
Cúng gia tiên là phản ảnh sự
hiếu thảo và t́nh thương yêu của con cháu đối
với người quá cố. Người ta bày tỏ sự
biết ơn và thương nhớ này bằng cách cúng gia
tiên trong ba ngày Tết Nguyên Đán, trong các ngày Tết khác
trong năm, và trong các ngày giỗ kỵ. Theo phong tục Việt
ta th́ chỉ có con trưởng nam mới có bổn phận
lo việc thờ cúng tổ tiên từ ngũ đại
(năm đời) trở xuống. Thí dụ như con th́
cúng cha mẹ, ông bà, cụ, và kỵ (xin đọc bài
"Cách Xưng Hô Bằng Tiếng
Việt" của Khải Chính có đăng trong tác phẩm
này). Người ta c̣n lập
từ đường cho mỗi họ để con cháu
cúng lễ. Tuy nhiên, sự cúng tổ tiên là để bầy
tỏ ḷng nhớ ơn, hiếu kính, và thương tiếc
nên con nào đứng ra lo tổ chức cúng giỗ cũng
được, chứ không nhất thiết phải là con
trưởng, miễn sao có ḷng thành kính là được,
không cần phải quá câu nệ.
2. Các Đồ Thờ Cúng Gia Tiên
a. Bài Vị: Bài Vị hay Thần Chủ
được làm bằng gỗ táp (cây táp sống lâu
được ngàn tuổi) có dán miếng giấy ghi tên Húy (tên khi sống kiêng không
được gọi), tên Thụy (tên vua ban cho những
người có chức tước sau khi chết), tên Hàm hay
Hèm (tên người nhà đặt cho người chết
để dùng khi cúng giỗ), bằng cấp, phẩm
tước, tuổi, ngày sanh, và ngày mất. Bài Vị hay Thần Chủ
được đặt trong ḷng cái khám có cánh cửa, khi
nào cúng tế mới mở ra. Cái khám được làm bằng
gỗ quí, h́nh khối chữ nhật, có cánh cửa, chạm
trổ rồng chầu mặt nguyệt, và sơn son thếp
vàng. Cái khám được đặt phía giữa ở
trong cùng của bàn thờ.
b- Ảnh Người Quá Cố : Nếu
có ảnh của người quá cố ta nên đóng khung và
bày bên cạnh bài vị để con cháu chiêm ngưỡng
trong khi cúng.
c- Lư Hương: Lư
hương dùng để đốt trầm được
đặt ngay trước vị. Việc đốt trầm
(thứ cây gỗ có mùi thơm dùng để làm hương
đốt) cốt để tạo không khí thơm tho ấm
cúng và trang nghiêm ở nơi thờ cúng. V́ bát nhang thường
thấp và nhỏ trong khi lư hương thường lại
to và cao nên bát nhang thường được đăït ở
phía ngoài lư hương để tiện cho việc cắm
nhang, nhất là trong các buổi tế lễ ở nơi
công cộng có đông người đến dâng
hương. Tuy nhiên, cũng có gia đ́nh bày bát nhang ở
ngay trước bài vị và lư hương ở phía
ngoài của bát nhang. Đây là tùy theo sự tiện lợi
mà thôi.
d- Bát Nhang: Bát nhang c̣n gọi là bát
hương được đặt ở chính giữa
bàn thờ và trước lư hương. Bát nhang hay bát
hương là một cái bát đựng tro hay cát đă
được đăi và rửa sạch để cắm
nhang. Nếu không có tro hay cát, người ta lấy gạo
để thay thế. Để tăng thêm vẻ trang
nghiêm và trịnh trọng, người ta phải có "ống
đựng nhang" đặt trên bàn thờ.
đ- Hai Chân Đèn Cầy (Nến):
Hai chân đèn cầy để cắm nến (đèn cầy) được bày ở hai bên bát
nhang.
e- B́nh Bông (Hoa) và Mâm Ngũ Quả (5
thứ trái cây): B́nh bông và mâm ngũ quả được
bày ở hai bên bàn thờ theo quy tắc “đông b́nh tây quả,”
tức là b́nh bông bày ở hướng đông và mâm ngũ
quả bày ở phiá tây của bàn thờ. Hướng của
bàn thờ luôn luôn được coi là hướng nam và
hướng của người đứng lễ luôn luôn
được coi là hướng bắc. Việc bày b́nh
bông và mâm ngũ quả này rất phù hợp với khoa học
v́ hướng mặt trời mọc, hướng đông,
có ảnh hưởng làm cho hoa nở.
g- Ba Ly Đựng Rượu: Ba ly
đựng rượu hay ba ly đựng nước trong
tinh khiết được đặt giữa b́nh bông và
mâm ngũ quả.
h- Cỗ Bàn: Cỗ bàn được
bày trên một mâm riêng hay đặt ngay trên bàn thờ cũng
được.
i.
Ba Bát (Chén) Cơm: Ba bát cơm được xới
(đơm) tới lưng bát mà thôi. Ba bát cơm này
được bày ở phía ngoài cùng của bàn thờ.
k- Ba Đôi Đũa Son hay Đũa
Ngà: Khi bày 3 bát cơm ta cũng phải bày 3 đôi đũa,
thường là đũa son hay đũa ngà. Theo phong tục,
ta phải có "ống đựng đũa" để
cùng với lư hương, hai chân đèn, và ống đựng
nhang hợp thành bộ "Ngũ Sự."
3. Quy Tắc và Ư Nghĩa của Việc
Trang Hoàng và Bày Bàn Thờ Tổ Tiên
a. Quy Tắc Âm Dương và Vô Cực:
Theo phong tục Việt Nam, việc bày bàn thờ phải
tuân theo quy tắc đă được ấn định từ
xưa như đă được tŕnh bày trong phần “Các
Đồ Thờ Cúng Tổ Tiên” ở trên. Người ta trang hoàng bàn thờ
bằng hai màu chính là vàng và đỏ. Căn cứ trong cách
giải thích vũ trụ quan của Lăo Giáo, hai màu vàng và
đỏ biểu tượng cho khí âm dương tiên
thiên.
Vào thời nguyên thủy, hai màu vàng
đỏ trộn lẫn với nhau trong Thái Cực, Thái Cực
sinh ra âm dương, âm dương sinh ra ngũ hành để
tạo ra trời đất.
Bát nhang tượng trưng cho “vô cực,” tức là
tính không cùng cực trong nghĩa cái lư vô cực của trời
đất. Lư hương tượng trưng cho âm
dương. Lư hương và hai chân đèn gọi là bộ
“Tam Sự.” Nếu có thêm "ống đựng
hương" và "ống đựng đũa"
th́ lư hương, hai chân đèn, ống đựng
hương, và ống đựng đũa được
gọi là bộ “Ngũ Sự.”
b. Quy Tắc Ngũ Hành: Việc bày
bàn thờ c̣n phải theo tiêu chuẩn của ngũ hành: Kim
(lư hương, chân đèn), Mộc (chân nhang, đũa,
bài vị), Thủy (nước và rượu), Hỏa
(đèn, nến), và Thổ (cát trong bát nhang, hay các đồ
bằng sứ). Mâm ngũ quả cũng tượng
trưng cho ngũ hành, gồm: đào, lê, mận, lựu, và
phật thủ. Ngày nay người ta bày 5 thứ trái cây ở
địa phương hợp với ước muốn của
dân chúng như măng cầu, xoài, đu đủ, thơm, và mận,
v.v.
c. Đông B́nh Tây Quả: B́nh bông
(hoa) và mâm ngũ quả (trái cây) được bày theo quy tắc
“đông b́nh, tây qủa,” tức là b́nh bông đặt ở
phía đông và mâm ngũ qủa đặt ở phía tây v́ có
hoa rồi mới có quả. Nhờ ánh sáng mặt trời
phát xuất từ phương đông nên hoa mới kết
thành quả. Hoa quả mang ư nghĩa dưỡng dục
sinh thành của tổ tiên, ông bà, và
cha mẹ.
Để dễ phân biệt hướng
đông và tây, người ta dựa theo địa lư và bản
đồ. Nếu lấy hướng trước mặt
là phương bắc để làm chuẩn th́ bên phải
là phương đông, bên trái là phương tây, và sau
lưng là phương nam. V́ bàn thờ được thiết
lập tùy theo tiện nghi trong nhà, không nhất thiết phải
theo đúng phương hướng thực của đất
trời nên người ta phân biệt đông và tây bằng
cách căn cứ vào hướng của bàn thờ đă
được thiết lập sẵn.
Không cần biết hướng thật
của bàn thờ là hương nào nhưng người ta cứ
đương nhiên coi hướng bàn thờ là hướng
nam. Lư do chính là theo phong tục về nghi lễ, khi xây từ
đường, miếu, chùa, hay đền thờ, người
ta thường xây mặt tiền quay mặt về hướng
nam. Chính v́ thế mà người ta có thói quen bày bàn thờ ở
trong nhà, nếu có thể được, theo hướng
Nam.
Nếu không thể bày theo hướng
chính nam, người ta cũng cứ coi hướng bàn thờ
đă bày là hướng nam. Nếu coi hướng bàn thờ
là hướng nam th́ b́nh bông phải được để
ở bên trái (phía đông) và mâm ngũ quả được
bày ở bên phái (phía tây) của bàn thờ tính theo hướng
của bàn thờ.
d. Quy Tắc Tam Tài (Thiên Địa
Nhân): Ba bát cơm, ba đôi đũa, ba chén rượu hay
nước bày trên bàn thờ tượng trưng cho Tam Tài
tức là Thiên, Địa, và Nhân, có nghĩa là Trời,
Đất, và Người. Điều này có liên quan đến
lẽ biến dịch của vũ trụ. Người
được coi là nơi qui tụ đức của trời
và đất. Khi cúng, mỗi người thường tháp
3 nén nhan cũng nằm trong ư nghĩa này.
Trên đây là nói theo quy tắc và
phong tục. Tuy nhiên, việc bày bàn thờ thời nay c̣n tùy
theo mỗi nơi và mỗi gia đ́nh, tùy theo phương
tiện, giàu nghèo, bầy thế nào cũng được,
miễn sao thể hiện được sự trang nghiêm,
thành kính, và đẹp mắt th́ thôi. Việc cúng bái cũng
phải tùy tiện và uyển chuyển. Người ta nói
“lễ bạc ḷng thành” là vậy. Câu này có ư nói là lễ tuy
đơn sơ ít ỏi nhưng miễn sao có ḷng thành kính
là được.
Việc cúng tổ tiên c̣n thể hiện
trong câu “sống sao thác vậy.”
Câu này có ư là tuy người thân đă mất nhưng ḷng
kính mến của người trong gia đ́nh đối với
người quá cố vẫn giống như lúc họ c̣n
sinh tiền. Sống thích thứ ǵ, khi chết được
con cháu cúng thứ đó.
IV. Nghi Thức Cúng Gia Tiên
Khi cúng th́ chủ gia đ́nh phải
đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn
điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng
trước rồi những người trong gia đ́nh
theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương)
đèn để mời và chuông để thỉnh tổ
tiên. Khi cúng th́ phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn.
Khấn là lời tŕnh với tổ
tiên về ngày cúng liên quan đến ngày tháng năm ta và tây,
tên địa phương ḿnh ở, tên ḿnh và tên những
người trong gia đ́nh, lư do cúng và lời cầu nguyên,
v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rơ nhỏ.
Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của
người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu
bố cúng con th́ chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu
cúng tổ tiên th́ phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rơ về
ư nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
1. Định Nghĩa của Cúng,
Khấn, Vái, và Lạy
a. Cúng: Khi có giỗ Tết, như
trên đă nói trong mục cúng gia tiên, gia chủ bày hoa (bông) quả,
nước, rượu, cỗ bàn, chén bát, đũa, muỗng
(th́a) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp
đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy
để tỏ ḷng hiếu kính, biết ơn, và cầu
phước lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. C̣n
trong nghĩa b́nh thường, cúng là thắp nhang
(hương), khấn, lạy,và vái.
b. Khấn: Khấn là lời cầu
khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng, tức là lời
nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng
năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ,
cúng ai, tên những người trong gia đ́nh, lời cầu
xin, và lời hứa. Sau khi khấn, người ta thường
vái v́ vái được coi là lời chào kính cẩn. Người
ta thường nói khấn vái là vậy. Trong truyện Kiều,
Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm khấn
vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước
mồ bước ra.” (câu 95-96)
c. Vái: Vái thường được
áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp
lễ ở ngoài trời. Vái
thay thế cho lạy ở trong trường hợp
này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực
rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu
và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên,
đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống
khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người
ta vái 2,3,4, hay 5 vái (xem phần sau).
d. Lạy: Lạy là hành động
bày tỏ ḷng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn
và thể xác đối với người trên hay người
quá cố vào bậc trên của ḿnh. Có hai thế lạy: thế
lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà.
Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4
lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều
có mang ư nghĩa khác nhau.
- Thế Lạy Của Đàn Ông:
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng
theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và
dơ cao lên ngang trán, cúi ḿnh xuống, đưa hai bàn tay
đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay
mặt đất th́ x̣e hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống,
đồng thời qú gối bên trái rồi gối bên phải
xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần
hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người
lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để
lên đầu gối trái lúc bấy giờ đă co lên và
đưa về phía trước ngang với đầu gối
chân phải đang qú để lấy đà đứng dậy,
chân phải đang qú cũng theo đà đứng lên để
cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc
đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho
đủ số lạy (xem phần Ư Nghĩa của Lạy).
Khi lạy xong th́ vái ba vái rồi lui ra.
Có thể qú bằng chân phải hay
chân trái trước cũng được, tùy theo thuận
chân nào th́ qú chân ấy trước. Có điều cần
nhớ là khi qú chân nào xuống trước th́ khi chuẩn
bị cho thế đứng dậy phải đưa chân
đó về phía trước nửa bước và t́ hai bàn
tay đă chắp lại lên đầu gối chân đó
để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo
kiểu này rất khoa học và vững vàng. Sở dĩ phải
qú chân trái xuống trước v́ thường chân phải
vững hơn dùng để giữ thế thăng bằng
cho khỏi ngă. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy.
Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước
được vững vàng là nhờ chân phải có thế
vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy phủ phục của
mấy nhà sư rất khó. Các thầy phất tay áo cà sa,
đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và
đồng thời qú hai đầu gối xuống luôn.
Khi đứng dậy các thầy đẩy hai bàn tay lấy
thế đứng hẳn lên mà không cần phải để
tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được
như thế là nhờ các thầy đă tập luyện
hàng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng quí
cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn thận v́
không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy
của mấy thầy th́ rất có thể mất thăng
bằng.
-Thế
Lạy Của Đàn Bà: Thế lạy của các bà là
cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng
chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên
để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc
áo dài th́ kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía
trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che
mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại
để ở trước ngực rồi đưa cao
lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp
đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm
mặt đất th́ đưa hai bàn tay đang chắp
đặt nằm úp xuống đất và để đầu
lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một
hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế
ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại
đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo
thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy
cần thiết (xem phần Ư Nghĩa của Lạy). Lạy
xong th́ đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất
thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp
dụng thế lạy theo cách qú hai đầu gối xuống
chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại
đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế
chắp đó mà cúi ḿnh xuống, khi đầu gần chạm
mặt chiếu th́ x̣e hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi
để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy
theo cách đă tŕnh bày trên. Thế lạy này có thể làm
đau ngón chân và đầu gối mà c̣n không mấy đẹp
mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ
hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy
của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt,
tượng trung cho âm. Thế lạy của đàn ông có
điều bất tiện là khi mặc âu phục th́ rất
khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên c̣n áp dụng
thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. C̣n phần
đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà
thôi.
Thế lạy của đàn ông và
đàn bà là truyền thống rất có ư nghĩa của
người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang
nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Nếu muốn giữ phong tục
tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh niên phải
có ḷng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất
là thế lạy của đàn ông, ta phải tập dượt
lâu mới nhuần nhuyễn được. Nếu đă
muốn th́ mọi việc sẽ thành.
2 . Ư Nghĩa Của Lạy và Vái
Số lần lạy và vái đều
mang một ư nghĩa rất đặc biệt. Sau đây
chúng ta hăy t́m hiểu về ư nghĩa của vái và lạy.
a. Ư Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái:
Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống
như trong trường hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ.
Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của
người quá cố như em, con cháu, và những người
vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy. Nếu vái sau khi
đă lạy, người ta thường vái ba vái. Ư nghĩa
của ba vái này, như đă nói ở trên là lời chào kính
cẩn, chứ không có ư nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp
người quá cố c̣n để trong quan tài tại nhà
quàn, các người đến phúng điếu, nếu là
vai trên của người quá cố như các bậc cao
niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác,
cô, d́, v. v., của người quá cố, th́ chỉ đứng để
vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đă được hạ huyệt,
tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người
quá cố 4 vái.
Theo nguyên lư âm dương, khi
chưa chôn, người quá cố được coi như
c̣n sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng
trưng cho âm dương nhị khí ḥa hợp trên
dương thế, tức là sự sống. Sau khi người
quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
b. Ư Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái: Khi đi lễ Phật,
ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật,
Pháp, và Tăng (xin bài về Nghĩa Đích Thực của
Quy Y Tam Bảo trong tác phẩm này). Phật ở đây là
giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, và thông hiểu mọi
lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với
tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh,
không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải
theo. Tuy nhiên, c̣n tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen,
người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường hợp cúng Phật,
khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy
khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái
trước bàn thờ Phật.
c. Ư Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái:
Bốn lạy để cúng người quá cố như tổ
tiên, thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ
thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc
dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc:
thuộc âm), và tứ tượng (Thái Dương,Thiếu
Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm
cả cơi âm lẫn cơi dương mà hồn ở trên trời
và phách hay vía ở dưới đất nương vào
đó để làm chỗ trú ngụ. Bốn vái dùng để
cúng người quá cố như tổ tiên, thánh thần,
khi không thể áp dụng thế lạy.
d.Ư Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái:
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy
tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa,
và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành
thổ màu vàng đứng ở giữa. C̣n có ư kiến cho
rằng 5 lạy tượng
trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và
trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ
Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ
thường lạy 5 lạy
v́ Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống ṇi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng
thế lạy v́ quá đông người và không có đủ
th́ giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
V. Kết Luận
Phong tục có được là do
thói quen mà mọi người đă chấp nhận, nhiều
khi không giải thích được lư do tại sao lại
như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi
gia đ́nh Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy,
chúng ta, con dân nước Việt, hăy cố gắng thiết
lập một bàn thờ gia tiên. Có như thế, con cháu ta
mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập
bàn thờ gia tiên, và hiểu được ư nghĩa của
việc thờ cúng ra sao. Thờ cúng là cách biểu thị
ḷng nhớ ơn tổ tiên cũng như ḷng thương
và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây
là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của
người Việt mà chúng ta cần phải duy tŕ.
Chúng ta cũng nên duy tŕ cách “xá” nhau
trong khi chào hỏi. Đây là đặc tính văn hóa độc
đáo trong cách chào của người Việt chúng ta.
Người bản xứ càng quí trọng chúng ta hơn ở
chỗ chúng ta có duy tŕ được văn hóa của ḿnh
hay không. Ngoài ra, mỗi cộng
đồng người Việt ở hải ngoại nên cố
gắng tổ chức Tết Nguyên Đán, lễ giỗ Tổ
Hùng Vương, và các ngày kỷ niệm anh hùng liệt sĩ
để mọi người có dịp gặp gỡ, thắt
chặt thêm t́nh đồng hương nghĩa bầu bí,
và tạo sức mạnh đoàn kết hầu giúp vào việc
giải trừ chế độ Cộng Sản nơi quê
nhà để toàn dân Việt sớm được hưởng
ánh sáng tự do, dân chủ, và nhân quyền.
Sự Tích và Ư Nghĩa Tết
Đoan Ngọ
I. Sự Tích Tết Đoan Ngọ
Tết Đoan Ngọ c̣n có tên là Tết
Đoan Dương, Tết Mồng Năm, hay Tết Chính
Dương. Đoan có nghĩa là ngay chính. Ngọ có nghĩa
là phương nam, giữa trưa (giờ ngọ: 11giờ
đến 13 giờ), và tháng thứ 5 (tháng ngọ).
Dương có nghĩa là phương nam, chỗ có nắng,
và khí dương, trái với âm. Đoan Ngọ có nghĩa là
chính ngọ hay giữa trưa và để chỉ ngày Tết
vào mồng năm tháng năm ta.
Tết Đoan Ngọ được
tổ chức vào ngày mồng 5 tháng 5 ta. Tuy tết này có nhiều
tên, nhưng phần đông dân ta đều dùng tên Tết
Đoan Ngọ để gọi. Trong dịp Tết Đoan
Ngọ, người ta có tục nhuộm móng chân móng tay cho
trẻ, trừ ngón trỏ, và đeo chỉ bùa cho trẻ.
Sáng sớm ngày Tết này, người ta thường
ăn rượu nếp hay rượu cái cùng các thứ
hoa quả như mận, đào,
chanh, trứng luộc, và bánh đa kê với đường
cát mà tục gọi là để giết sâu bọ. Đến
giờ ngọ, người ta đi hái các thứ lá về
nấu nước uống để pḥng và chữa bệnh.
Tết Đoan Ngọ được
người Việt coi rất trọng. Tục ngữ ta
có câu “Tết mồng năm, rằm tháng bẩy” là để
chỉ tầm quan trọng này.
Dân gian cũng đă có bài ca dao nói về 4 cái tết gồm
Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung
Nguyên ( rằm tháng bẩy), và Tết Trung Thu: “Tháng giêng
ăn tết ở nhà,/ Tháng hai cờ bạc tháng ba hội
hè./ Tháng tư đong đậu nấu chè,/ Ăn tết
Đoan Ngọ trở về tháng năm./ Tháng sáu buôn nhăn bán
trăm,/ Tháng bẩy hôm rằm xá tội vong nhân./ Tháng tám
chơi đèn kéo quân,/ Trở về tháng chín chung chân buôn hồng./
Tháng mười buôn thóc, bán bông,/ Tháng một tháng chạp
nên công hoàn thành.”
Tết Đoan Ngọ do ta du nhập
từ Trung Quốc. Truyện xưa kể rằng từ
đời Xuân Thu, ở nước Sở, triều đại
Sở Hoài Vương bên Trung Quốc, có quan Đại Phu
Khuất Nguyên là người học rộng, nhớ dai, giỏi
việc chính trị lại có tài văn chương. Ông giúp
vua bàn quốc sự và ra hiệu lệnh, tiếp các chính
khách, và ứng đối với chư hầu. Trước
được vua rất tin cậy, sau có người dèm
pha là ông khinh vua nên ông bị vua ghét bỏ và không được
trọng dụng nữa. Khuất Nguyên can vua không được
nên đă buồn rầu và viết ra thiên Ly Tao dài 370 câu
để tả nỗi sầu bị vua bỏ. Ly Tao có nghĩa
là xa vua mà buồn. Ông cũng làm bài “Thiên Vấn” gồm 172
câu để hỏi ông trời và bài phú “Hoài Sa” thật là
ai oán vô cùng.
Vua Sở không nghe lời khuyên can của
Khuất Nguyên mà cứ đi đánh nước Tần nên
nhà vua đă thất bại và chết tại đất Tần.
Từ đó Khuất Nguyên buồn cùng cực và đă làm
bài phú “Hoài Sa” rồi ca hát như người điên, và cuối
cùng đă ôm đá gieo ḿnh xuống sông Mịch La tự tử.
Hôm đó là ngày 5 tháng 5 âm lịch. Từ đấy, mỗi
năm đến ngày 5 tháng 5 người ta tổ chức
cuộc lễ đua thuyền ngụ ư để vớt
xác Khuất Nguyên và tỏ ḷng mến tiếc một bậc
trung thần. Tục ấy lâu ngày thành ra một lệ
để vui chơi và trở thành một ngày Tết.
Cứ vào ngày Tết Đoan Ngọ,
người ta lấy lá nhuộm các đầu ngón tay ngón
chân cho trẻ ngoại trừ ngón trỏ, bôi vôi hay hồng
hoàng vào thóp đầu, thái dương, ngực, và rốn của
trẻ với mục đích là để khử trùng. Người ta c̣n
đeo chỉ ngũ sắc và cục hồng hoàng với
những túi nhỏ làm bằng the hay lụa có màu sặc sỡ
và được kết thành h́nh quả đào, quả khế,
và quả ớt,v.v. Hồng hoàng hay hùng hoàng là một khoáng
vật có màu vàng thuộc về chất lưu huỳnh dùng
để làm thuốc chữa bệnh. Sáng sớm hôm ấy
mọi người ăn rượu nếp hay rượu
cái, bánh ú, bánh tro, và hoa quả như mận, đào, muỗm,
và chanh với ư là để giết sâu bọ.
Rượu
cái là thứ rượu nấu (cất) bằng nếp
lật đem ủ với men trong 2 hay 3 ngày. Sở dĩ gọi
là rượu cái v́ nó có nhiều cái ít nước, có vị
ngọt, và cay như rượu. Món rượu cái này là món
ăn tiêu biểu cho Tết Đoan Ngọ v́ người
ta chỉ làm rượu cái trong dịp tết này mà thôi. Vào
Tết Đoan Ngọ, người ta cũng có tục hái
lá ngải cứu, lá ích mẫu, lá cối xay, lá muỗm, lá
vối đem về ủ rồi phơi khô để khi
có bệnh đem ra nấu lấy nước uống để
chữa bệnh. Tục lệ này có tên là “Đi hái lá mồng
năm.”
Giữa trưa Tết Đoan Ngọ
người ta c̣n làm cỗ cúng gia tiên. Đây là một đặc tính
đầy ư nghĩa trong việc ăn tết của
người Việt ḿnh. Tháng năm là mùa dưa hấu nên
nhiều nơi người ta có lệ khi cúng gia tiên vào dịp
Tết Đoan Ngọ th́ bắt buộc phải có dưa hấu
với đường cát để làm lễ vật.
Người Tàu tổ chức Tết
Đoan Ngọ là để
tưởng nhớ và vinh danh Khuất Nguyên. Người
Việt ta thấy ư nghĩa hay mà làm theo người Tàu. Có
điều là theo th́ theo, không mấy người c̣n nhớ
tới Ông Khuất Nguyên mà chỉ nhớ tới sự vui
mừng được ăn rượu nếp hay rượu
cái, ăn bánh tro bánh ú, và ăn hoa qủa thật sướng
miệng mà thôi.
II. Ư Nghĩa Tết Đoan Ngọ
Qua sự tích Tết Đoan Ngọ,
ta có thể rút ra được một số ư nghĩa mà
dân ta đă thể hiện qua tục ăn tết này:
- Dân ta vốn trọng các bậc hiền
tài, lương đống, và người có ḷng trung hiếu
dù người ấy ở bất cứ quốc gia nào.
Chính v́ thế mà tổ tiên ta mới theo tục lệ
người Tàu mà ăn Tết Đoan Ngọ để tỏ
ḷng nhớ tới Khuất Nguyên, một bậc trung thần
lương đống. Mới đầu là thế,
nhưng sau người ta quên mất Khuất Nguyên mà chỉ
nhớ tới ngày Tết Đoan Ngọ để vui
chơi thích thú mà thôi.
- Tết Đoan Ngọ c̣n là dịp
chứng tỏ dân ta từ xưa đă trọng kiến thức
về khoa học trong vấn đề giữ ǵn sức
khỏe để bảo tồn tấm thân do cha mẹ
sinh ra. Thực vậy, khi trẻ con ăn (không phải uống)
rượu nếp, ăn chanh mận th́ dun sán lăi trong bụng
được tống ra ngoài. Uống nước ngải
cứu, nước vối, hay nước ích mẫu để
chữa bệnh cảm mạo và đau bụng rất hiệu
nghiệm. Điều này đă là sự thật hiển
nhiên đối với dân ta.
- Tết Đoan Ngọ rất hợp
với tính t́nh của dân ta là vốn ưa nhàn, thích đoàn
tụ vui chơi, và biết cách dung ḥa giữa việc làm
ăn và giải trí. Trong khi
hưởng cảnh vui tươi vẫn nhớ tời tổ
tiên và mong mọi người được đầm ấm
an ḥa. Chính v́ thế mà dân ta nổi tiếng là anh dũng hiền
ḥa. Tiếng tốt này đă bị mất đi từ ngày
có loài quỉ đỏ nảy sinh trên đất nước
ta. Dân ta ngày nay ở trong nước không c̣n được
hưởng cái không khí tự do vui chơi và hưởng cảnh
thanh nhàn đoàn tụ như xưa. Thật là điều
đáng buồn vậy!
Tuy được du nhập từ
Trung Quốc, Tết Đoan Ngọ đă được
người Việt ta đồng hóa và được coi là một tục lệ tốt và
có ư nghĩa mà tiền nhân ta đă từng duy tŕ và phát triển,
chúng ta cũng cần phải
tiếp tục duy tŕ và
phát triển để bảo tồn văn hóa và làm
tăng thêm ư nghĩa cho cuộc sống chúng ta.
Tết Trung Nguyên
Tết Trung Nguyên được tổ
chức vào ngày 15 tháng 7 ta. Tết này c̣n được gọi
là Tết Rằm Tháng Bẩy, Lễ Vu Lan, Mùa Báo Hiếu,
Ngày Nhớ Ơn Cha Mẹ, hay Ngày Xá Tội Vong Nhân. Theo
đạo Phật, người dưới âm phủ
được tha tội vào ngày hôm ấy. V́ thế người
ta mua vàng mă và làm cỗ cúng gia tiên và cúng cô hồn vào dịp
này. Người ta c̣n đi lễ chùa đọc kinh báo hiếu
để tỏ ḷng biết ơn cha mẹ, ông bà, và tổ
tiên.
Theo phong tục Âu Tây, trong ngày Tết
Halloween, người ta cầu nguyện cho những người
chết giống như trong tục lệ Tết Trung
Nguyên. Cả hai ngày tết này đều là ngày để
người ta tưởng nhớ và vinh danh người
đă chết. Văn hóa Đông và Tây gặp nhau ở một
điểm là đều công nhận có linh hồn sau khi
người ta chết. Nhưng có một điều khác biệt
là người Việt Nam ta coi trọng linh hồn của
người thân hơn. Chính v́ vậy, trong dịp Tết
Trung Nguyên, ta mới có lệ cúng lễ, cầu siêu, đọc
kinh báo hiếu, cũng như đốt vàng mă cho người
thân như cha mẹ, ông bà, và tổ tiên. Sau đó, người
ta mới cầu nguyện cho những linh hồn của
người vô thừa nhận.
Ở Âu Tây, phần lớn người
ta theo đạo Thiến Chúa nên trước đây việc
cúng lễ hay cầu siêu cho ông bà cha mẹ không được
coi làm trọng. Ngày nay tuy có phần đổi mới
hơn trước, nhưng vẫn c̣n trong t́nh trạng giao
thời.
Ta cũng nên hiểu rơ hai danh từ
“Trung Nguyên” và “Vu Lan.” “Trung
Nguyên” nghĩa là rằm tháng bảy, c̣n “Vu Lan” là tên cái
giường “Giường Vu Lan.” Cái giường này
được làm bằng tre, có ba chân, và dùng để treo
tiền của cùng đồ bằng mă lên mà đốt
trong dịp cúng người đă chết.
Theo cuốn Việt Nam Phong Tục
của Phan Kế Bính, Tết Trung Nguyên được
định nghĩa như sau: “Rằm tháng bảy gọi
là Tết Trung Nguyên. Ta tin theo sách Phật, thường cho
hôm ấy là ngày vong nhân xá tội, nghĩa là người
dưới âm phủ được tha tội một ngày
hôm ấy. Bởi vậy, nhiều nhà mua vàng mă cúng gia tiên.
Các nhà có người mới mất, cũng hay đốt
mă làm đàn chay vào hôm ấy.”
Theo cuốn
Luân Lư Giáo Khoa Thư, Lớp Sơ Đẳng, của Việt
Nam Tiểu Học Tùng Thư, Tết Trung Nguyên được
định nghĩa: “Tết này ăn vào ngày rằm tháng bảy.
Cứ theo sách nhà Phật, th́ vào ngày ấy các vong nhân ở
dưới âm phủ được xá tội, nên các nhà làm
cơm cúng và mua vàng mă đốt cho ông bà ông vải.”
Ngày nay, người ta làm cho ngày Tết
Trung Nguyên có ư nghĩa hơn bằng cách đề cao chữ
hiếu và gọi ngày này là ngày báo hiếu. Thật là một
việc làm đầy ư nghĩa. Người ta c̣n cụ thể
hóa ư nghĩa này bằng cách cài bông hồng vào áo để
nhớ đến công ơn mẹ cha. Bông hồng màu trắng
tượng trưng cho cha hay mẹ đă mất và bông hồng
màu đỏ dành cho cha hay mẹ c̣n sống. Thật diễm
phước cho những ai được đeo hai bông hồng
màu đỏ trong ngày Tết Trung Nguyên v́ “Phụ mẫu tại
tiền như Phật tại thế.”
Cái đặc biệc của ngày Tết
Trung Nguyên thời nay là chú trọng vào sự báo hiếu,
không những tưởng nhớ
và báo hiếu cho những người đă nằm xuống
mà c̣n báo hiếu đối với người c̣n sống.
Nhờ vào khía cạnh tâm lư của việc tiếc nhớ và cầu siêu cho người quá
văng, chúng ta có thể củng cố
t́nh gia đ́nh đối với người c̣n sống.
Đây cả là một nghệ thuật giáo dục chúng
sinh. Đành rằng chữ hiếu chỉ có ư nghĩa trong
khi cha mẹ ông bà c̣n sống, nhưng người ta vẫn
coi thường và lơ là những ǵ hiện có mà chỉ
ăn năn hối hận khi sự đă rồi. Ngày Tết
Trung Nguyên hiện nay có cái tác dụng nhắc con cháu phải
có bổn phận đối với ông bà cha mẹ ngay khi
các người c̣n sống để khỏi hối tiếc
về sau.
Người Tây phương v́ quá bận
rộn với đời sống vật chất cá nhân nên
đời sống đại gia đ́nh có vẻ lỏng lẻo.
Chính v́ thế người ta mới đặt ra ngày
Father's Day, từc là Ngày Báo Hiếu Cha, và ngày Mother's Day, tức
là Ngày Báo Hiếu Mẹ. Đối với người Việt
ta, trước tháng 4 năm 1975,
con cái của gia đ́nh Việt Nam thường làm
tṛn bổn phận thần hôn định tỉnh, tức
là sáng viếng tối thăm cha mẹ (thần: buổi sớm;
hôn: buổi tối; định tỉnh: thăm hỏi cha
mẹ). Ngày nào cũng là ngày báo hiếu cho cha cho mẹ nên không cần có ngày
đặc biệt nào dành cho
cha cho mẹ như người ở Bắc Mỹ
này.
Từ ngày giặc Cộng Sản
chiếm trọn quê hương, người việt yêu chuộng
tự do, dân chủ, và nhân quyền phải bỏ nước
ra đi. Bọn Việt Cộng ở trong nước
đă phá hủy tận cỗi rễ giềng mối của
truyền thống hiếu thảo, đă tước đoạt
hết các quyền tự do, và bóc lột tận cùng sức
lao động và tài sản của toàn dân. Người dân
trong nước bị đầy ải xuống hàng chó ngựa.
C̣n người Việt hải ngoại, v́ nhu
cầu đời sống vật chất càng ngày càng
tăng, con cái người Việt Nam chúng ta tại hải
ngoại này bị ảnh hưởng của cuộc sống
mới nên đă có một số
quên cả cha lẫn mẹ. Bởi vậy, ngày nay người
ta lại càng đặt nặng vào tính cách báo hiếu của
ngày Tết Trung Nguyên để gây dựng lại nền tảng
của đạo hiếu thảo..
Cái may mắn là ngoài mùa báo hiều,
các bậc cha mẹ người Việt tại Bắc Mỹ
này lại được con cháu nhớ đến vào các
ngày “Mother's Day” và “Father's Day” nữa. Nhờ đó, các bậc
làm cha mẹ người Việt ở hải ngoại cũng
được an ủi phần nào trong thời buổi
"văn minh vật chất nước người,/ Làm
mờ nhân nghĩa làm vơi cương thường”
(thơ Khải Chính).
Thật là tội nghiệp cho các bậc
cha mẹ ở trong nước! Họ bị bọn Việt
Cộng làm ly tán gia đ́nh. Con cái của họ bị tập
đoàn Việt Cộng dụ dỗ để biến
thành công an theo rơi và ŕnh rập hành động của cha mẹ
chúng hầu báo cáo cho bọn Việt Cộng để
được hưởng “đảng ân.” Sau đây là một
thí dụ điển h́nh.
Vào ngày 4 tháng 5 năm 2001, tờ báo
có cái tên là báo “Pháp Luật” ở cái thành phố mang tên Hồ tặc, thành phố
Hồ Chí Minh, đă đăng tin “Kiện Cha Đ̣i Công
Đóng Góp Làm Tang Mẹ” như sau: “Ngày 4/5, nhân dân xă Lại
Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang ngạc nhiên
khi thấy một ông già gầy g̣ khắc khổ cùng một
số người khác ́ ạch khiêng 6 tấm ván đi về
hướng UBND (Uỷ Ban Nhân Dân) xa.” Số là “vợ ông Chín Tia là bà
Trương thị Tỏ qua đời. Con gái, dâu rể của
ông Chín Tia có mặt đầy đủ, kể cả vợ
chồng Hà, Thắng (Thắng là Phó bí thư kiêm Chủ tịch
HĐND xă Lại Sơn). Ông Chín Tia định mua ván ḥm cho
vợ nhưng vợ chồng Hà, Thắng bảo nhà họ
có sẵn ván và cho người đem đến 6 tấm
ván để 'đóng góp' vào việc chôn cất mẹ ḿnh.
Đột nhiên ngày 17/2, Ban Tư pháp xă có giấy mời ông
Chín Tia lên để giải quyết vụ kiện nợ
ván ḥm v́ có đơn của Hà với nội dung: Kiện
cha ruột ḿnh 'chiếm dụng bộ ván mà không hoàn trả.'
Hóa ra vợ chồng Hà chỉ cho mượn ván đóng ḥm
chứ không 'đóng góp' theo cái nghĩa con cái có bổn phận
phải lo hậu sự cho mẹ...”
Ông Chín Tia đă phải bán cái nhà
để lấy tiền mua 6 tấm ván “đúng loại gỗ
dầu Phú Quốc và đúng quy cách (theo ư Hà) và mang đến
trước chính quyền xă trả nợ cho con và rể.” Quả là bọn xâm lăng Việt
Cộng đă phá hủy tận cỗi rễ các truyền
thống tốt đẹp của người Việt mà
trong đó có truyền thống hiếu thảo. Bọn Việt
Cộng đúng là lũ vong bản, táng tận lương
tâm, và mặt người dạ thú. Chúng đă đầy ải toàn
dân xuống mức độ tệ hơn trâu ngựa.
Tết Trung Thu: Nguồn Gốc và Ư
Nghĩa
I.Tết Trung Thu
Tết Trung Thu được tổ
chức vào giữa mù thu, tức là hôm rằm tháng tám ta.
Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày bánh
trái ra sân cúng mặt trăng. Nhân dịp tết này, người
lớn th́ uống rượu, thưởng trăng, và hát trống
quân; trẻ em th́ rước đèn, đi xem múa lân, ca hát
các bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng các thứ
trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới
h́nh thức mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con
thưởng thức bánh kẹo trái cây trong đêm Trung Thu
này được gọi là "phá cỗ."
II. Nguồn Gốc Tết Trung
Thu
Người Việt ta ăn Tết
Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo
phong tục của người Tàu. Chuyện xưa kể
rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo
chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám
âm lịch. Đêm đo,ù trăng rất tṛn và trong sáng. Trời
thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng
thức cảnh đẹp th́ gặp đạo sĩ La
Công Viễn c̣n được gọi là Diệp Pháp Thiện.
Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở
đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua
hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với
âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt
trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong
giờ phút tuyệt vời ấy
nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải
nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong ḷng vẫn bàng
hoàng luyến tiếc.
Về tới hoàng cung, nhà vua c̣n vấn
vương cảnh tiên nên đă cho chế ra Khúc Nghê Thường
Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra
lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc
ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi th́
uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung
nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt
điện kỳ diệu của ḿnh. Kể từ đó,
việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong
ngày rằm tháng tám đă trở
thành phong tục của dân gian.
Cũng có người cho rằng tục
treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở
điển tích ngày sinh nhật của vua Đường
Minh Hoàng. V́ ngày rằm thàng tám là ngày sinh nhật của vua
Đường Minh Hoàng nên triều đ́nh nhà Đường
đă ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước
treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó việc
treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục
lệ.
Lại có chuyện kể rằng một vị tướng tên là
Lưu Tú ở đời nhà Tây Hán, từ năm 206 trước Tây lịch
tới năm 23 Tây lịch, trong lúc quân t́nh khốn quẫn
đă cầu Thượng Đế giúp cho quân lính có đồ
ăn để chờ quân tiếp viện. Sau khi cầu
Thượng Đế, quân lính t́m được khoai môn
và bưởi để ăn. Nhờ đó sau này Lưu Tú
mới b́nh định được toàn quốc và lên làm
vua tức là vua Quang Vơ nhà Hậu Hán. Ngày mà Lưu Tú cầu
được linh ứng là ngày rằm tháng tám. Từ
đó nhà vua truyền lệnh cứ đến rằm tháng
tám là làm lễ tạ trời đất và thưởng
trăng bằng khoai môn và bưởi. Ngày lễ trọng
thể vui tươi này được gọi là Tết
Trung Thu. Tục lệ này
được truyền sang Việt Nam và đă được
người Việt sửa đổi để thích hợp
với tính t́nh và phong tục Việt. Người Hoa và
người Việt đều làm bánh trung thu để
cúng, ăn, biếu thân bằng quyến thuộc, và đăi
khách. Điểm chung kế tiếp là người Hoa và
người Việt đều tổ chức rước
đèn trong đêm trung thu.
III. Ư Nghĩa Tết Trung Thu
Tết Trung Thu của người
Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với
Tết Trung Thu của Trung Hoa. Theo phong tục người
Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng
trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng
nến để treo trong nhà và để các con rước
đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo,
mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Đây
là dịp để con cái hiểu được sự
săn sóc quí mến của cha mẹ đối với ḿnh
một cách cụ thể. T́nh yêu gia đ́nh lại càng khắng
khít thêm. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung
thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà,
cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác.
Thật là dịp tốt để con cháu tỏ ḷng biết
ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ
ḷng săn sóc lẫn nhau.
Người Hoa hay tổ chức
múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt
lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử
hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng
trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những
phong tục này.
Thời xưa, người Việt
c̣n tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trumg
Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba “th́nh, thùng,
th́nh.” Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân để
hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm
tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để
vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm
năm. Người ta dùng thể thơ lục bát hay lục
bát biến thể để hát. Tục hát trống quân,
theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân
đời Hồng Bàng. Sau này, điệu hát trống quân
đă được Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) áp dụng khi ngài đem quân ra Bắc.
Trong lúc quân sĩ rất nhớ nhà, ngài cho một số
binh lính giả làm gái để trai gái đôi bên hát đối
đáp với nhau trong khi có trống đánh theo nhịp ba
để phụ họa. Do đó, quân lính vui mà bớt nhớ
nhà. Điệu hát trồng quân được thịnh hành
từ thời Nguyễn Huệ trở đi. Người
Trung Hoa không phong tục này.
Tết Trung Thu mới đầu là
tết của người lớn để thưởng
thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống
trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu. Dần dần
Tết Trung Thu trở thành Tết Trẻ Em hay Tết Nhi
Đồng, nhưng người lớn cũng dự phần
trong đó. Trẻ em được người lớn chú
ư săn sóc như các hội đoàn người Việt hải
ngoại đă và đang làm. Các em có dịp vui chơi rước
đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị bày cho và nhất
là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị
quở mắng là “ăn kẹo hư răng.”
Trong dịp Tết Trung Thu, các em ở
những lớp Việt Ngữ có dịp được học
bài hát “Rước Đèn Tháng
Tám” một cách thích thú: “ Tết Trung Thu rước đèn
đi chơi, em rước đèn đi khắp phố
phường. Ḷng vui sướng với đèn trong tay. Em
múa ca trong ánh trăng rằm. Đèn kéo quân với đèn cá
trắm, đèn thiên nga với đèn bươm bướm.
Em rước đèn này đến cung trăng. Đèn xanh
lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng
trắng. Trông ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Bài hát “Rước Đèn Tháng Tám”
c̣n hai đoạn nữa chúng tôi không tiện chép vào đây.
Lời và nhạc thật là vui tươi, dễ hiểu,
và dễ hát. Đa số các em nhi đồng đều thuộc
bài này để hát vào dịp Tết Trung Thu. Người
Trung Hoa không có sinh hoạt này.
Ngoài ư nghĩa vui chơi cho trẻ
em và người lớn, Tết Trung Thu c̣n là dịp để
người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận
mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng th́ năm
đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng màu xanh hay
lục th́ năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng
màu cam trong sáng th́ đất nước sẽ thịnh trị
v.v. Người Trung Hoa không có phong tục này. Ngoài ra, các thi
nhân cũng nhờ có trăng thu mà đă sáng tác bao bài thơ
về trăng thu và mùa thu kể sao cho xiết.
Tết Trung Thu là một phong tục
rất có ư nghĩa. Đó là ư nghĩa của săn sóc, của
báo hiếu, của biết ơn, của t́nh thân hữu, của
đoàn tụ, và của thương yêu. Chúng ta cố gắng
duy tŕ và phát triển ư nghĩa cao đẹp này. Chúng tôi xin chân thành tuyên
dương các hội đoàn người Việt ở hải
ngoại đă và đang tích cực tổ chức Tết
Trung Thu hàng năm cho trẻ em có dịp vui chơi để
phát triển cả về thể chất, trí tuệ, lẫn
t́nh cảm của con người Việt. Vai tṛ của phụ huynh rất
là quan trọng trong việc khuyến khích các em tham gia ngày Tết
Trung Thu do các hội đoàn tổ chức, và nhất là sự
đóng góp tài chánh của quí phụ huynh vào việc tổ
chức Tết Trung Thu cho các em lại càng thiết thực
hơn.
Tết Halloween: Nguồn Gốc,
Phong Tục, và Biện Pháp An Toàn
Ngày lễ Halloween nhằm ngày 31
tháng 10 dương lịch. Ngày lễ này thực ra phải
được coi như ngày hội hay ngày Tết Halloween bởi
v́ nó vui vẻ và nhộn nhịp vô cùng, nhất là đối
với trẻ em. Đêm hôm trước của ngày lễ
Halloween, tức là đêm 30 tháng 10, được gọi là
“đêm ma quỉ” (devil's night). Thường thường
các thanh thiếu niên hay phá phách trong đêm này và gây thiệt
hại đến tài sản và tính mạng của người
dân. Bởi thế cho nên lực lượng cảnh sát
đă phải tăng cường việc tuần tiễu
trong đêm này để giữ trật tự an ninh. Các bậc
phụ huynh cũng được nhắc nhở coi chừng
con em trong đêm kinh hoàng này.
Hàng năm cứ đến đầu
tháng mười, các học sinh, nhất là những học
sinh mẫu giáo và tiểu học đă nôn nao chuẩn bị
mừng “Tết Halloween.” Trẻ em đều thích mua hay
đi hái bí ngô tươi (pumpkin) để đem về móc
ruột bí bỏ đi rồi gọt đẽo phần
chung quanh quả bí ngô để làm cái lồng đèn có h́nh
mặt người với mắt, mũi, và mồm của
quỉ sứ. Người ta đăït tên cho cái lồng
đèn này là lồng đèn bí ngô “Jack-O'-Lantern.” Trẻ con và ngay cả người
lớn đều thích sắm trang phục đặc biệt
gồm cả mặt nạ để hóa trang thành ma quỉ
hay con thú vào tối ngày Tết Halloween trong lúc đi đến
từng nhà xin kẹo bánh mà người ta gọi là đi
“trick-or-treating.” Danh từ
“trick-or-treating” có nghĩa là “nếu muốn chúng
tôi không chơi xấu th́ hăy
đăi chúng tôi cái ǵ đi.”
Để ḥa vào nếp sống nơi định
cư với ư nghĩa nhập gia tùy tục, chúng ta hăy cũng
nhau t́m hiểu thêm về ngày Tết “Halloween” này.
I. Nguồn Gốc Tết
Halloween
Tết Halloween bắt nguồn từ
ngày lễ “The Celtic Fistival of Samhain” của dân tộc Celts.
Dân tộc Celts sống cách đây khoảng hai ngàn năm ở
phần đất bây giờ gọi là nước Anh (Great
Britain), Ái Nhĩ Lan (Ireland), và phía bắc nước Pháp (France).
Tết của dân tộc Celts nhằm ngày 1 tháng 11
dương lịch. Buổi lễ “The Celtic Fistival of
Samhain” được tổ chức vào tối đêm trừ
tịch, đêm trước của năm mới, tức
là 31 tháng 10 dương lịch để tưởng nhớ
và vinh danh Thánh Samhain, vị chúa tể cai quản những
linh hồn người chết. Người Celta tin rằng
Thánh Samhain cho phép các linh hồn người chết trở
về dương thế thăm gia đ́nh và ăn tết
vào đêm trừ tịch trong ngày tết của họ.
Vào năm 43 dương lịch, dân
tộc Celts bị người La Mă chinh phục và cai trị
lănh thổ của họ mà ngày nay gọi là nước Anh
(Great Britain) trong khoảng 400 năm. Trong thời kỳ này,
hai ngày Hội Mùa Thu của người La Mă được
tổng hợp với ngày hội kỷ niệm Thánh Samhain
của dân tộc Celts. Một trong hai ngày Hội Mùa Thu này
có tên là Feralia được tổ chức vào cuối tháng
10 dương lịch để vinh danh người chết.
Ngày hội thứ hai dùng để vinh danh Thần Pomona, tức
là Nữ Thần Hoa Quả và Cây Cối.
Tục lệ đoán vận mệnh
tương lại được sử dụng trong tṛ
chơi thi nhau cắn quả táo treo ở đầu một
sợi dây hay thi nhau cắn qủa táo được thả
trong chậu nước vào ngày lễ Halloween có thể do tục
lệ của hai ngày Hội Mùa Thu này mà ra.
Tên Tết Halloween lấy từ tên
của ngày lễ “All Saints' Day” bởi v́ ngày 31 tháng 10
được gọi là “Allhallows' Eve.” Nhà thờ Thiên Chúa
Giáo lấy ngày 1 tháng 11 lương lịch để thiết
lập Ngày Các Chư Thánh (All Saints' Day). Ngày Các Chư Thánh là
một ngày linh thiêng đă được những người
theo đạo Thiên Chúa tôn trọng để vinh danh các
Thánh của đạo Thiên Chúa, đặc biệt đối
với những Chư Thánh không có ngày dành riêng để kỷ
niệm. Ngày Các Chư Thánh được tổ chức lần
đầu tiên vào ngày 13 tháng 5 năm 609 (610?) dương lịch khi Hoàng Đế
Phocas tặng đức Giáo Hoàng Boniface IV ngôi đền cổ
của người La Mă để dùng làm nhà thờ.
Ở Anh trước đây, đêm
Halloween đă từng được gọi là Nutcrack Night
hay Snap Apple Night, tức là một đêm dành cho gia đ́nh ngồi
bên đống lửa hồng để nghe kể chuyện,
ăn các hạt trái cây và ăn táo hay bôm.
Vào ngày Các Chư Thánh, những
người nghèo đi ăn xin, tiếng Anh gọi là
A-Souling, thường được người ta cho một
thứ bánh gọi là Bánh Linh Hồn (Soulcakes) với điều
kiện là những người ăn mày này phải cầu
nguyện cho người chết.
Khi người Tô Cách Lan (Scots) và
người Ái Nhĩ Lan (Irish) đến định cư
ở Bắc Mỹ, họ mang theo những phong tục của
họ. Tuy nhiên, ở Bắc Mỹ, Tết Halloween mới
được thịnh hành kể từ thế kỷ thứ
18 trở đi mà thôi.
II. Phong Tục Trong Ngày Halloween
1. Trick-Or-Treating
“Trick-or Treating” được coi là
một tṛ chơi chính của hầu hết các trẻ em ở
Bắc Mỹ trong ngày Tết Halloween. Những trẻ em mặc
các trang phục hóa trang và đeo mặt nạ rồi đi
từ nhà này qua nhà khác, gơ cửa để gặp chủ
nhà và nói “trick-or-treat.” Câu này có nghĩa là: “Nếu muốn
chúng tôi không chơi xấu th́ hăy đăi chúng tôi cái ǵ đi.”
Để tránh bị chơi xấu, chủ nhà đăi chúng
kẹo, bánh trái, và ngay cả cho tiền chúng nữa.
2. Gây Quỹ Cho UNICEF
Có những em học sinh, nhân ngày
này, đi quyên tiền gây quỹ cho cơ quan UNICEF. UNICEF là
chữ viết tắt của United Nations International
Children's Emergence Fund, một cơ quan do Liên Hiệp Quốc
thành lập vào năm 1946 để giúp đỡ các trẻ
em trên toàn thế giới về thực phẩm, thuốc
men, v.v. Các trẻ em mang hộp
giấy có hai màu, màu da cam và màu đen, đă được
Liên Hiệp Quốc công nhận để đi quyên tiền
về nộp cho cơ quan này hầu dùng vào việc cứu
giúp trẻ em nghèo khó trên khắp thế giới. Cơ quan
Unicef đă và đang cung cấp những dịch vụ
căn bản về y tế, giáo dục, đồ ăn,
thức uống, và vệ sinh cho trên 140 nước trên thế
giới.
Có vào khoảng 2 triệu học
sinh Canada mang hộp đi quyên tiền cho Unicef vào mỗi dịp
Tết Halloween. Kể từ năm 1955, Canada đă gây quỹ
được tất cả là $58.3 triệu cho Unicef. Có vào
khoảng 55 phần trăm trẻ em tiểu học ở
Canada tham gia mỗi năm vào việc gây quỹ này trong dịp
Halloween.
Theo bài
“Unicef” của tờ báo The London Free Press, số ngày
31-10-96, cơ quan thống kê
Angus Reid đă tiết lộ rằng có 85 phần trăm
trong số những người được phỏng vấn
trên toàn lănh thổ Canada đă giúp cơ quan Unicef qua việc
cho tiền trong dịp Halloween.
Sở dĩ cơ quan UNICEF dùng cái hộp có màu da cam và
màu đen v́ đây là hai màu tượng trưng cho Tết
Halloween. Trang phục trong ngày Halloween thường có hai màu
chính là màu da cam và màu đen. Ta thấy quả bí pumpkin màu cam
và con dơi màu đen cũng được coi là màu tiêu biểu
cho Halloween. Người ta c̣n gọi ngày Halloween là ngày “Orange
and Black Day.”
3. Đèn Bí Ngô “Jack-O'-Lantern”
Trong ngày Tết Halloween hiện nay,
mỗi nhà thường trang trí cây đèn lồng làm bằng
quả bí ngô pumpkin. Người ta mua những quả pumpkin
về khoét rỗng ruột, đẽo vỏ ngoài thành h́nh
một cái mặt có đủ mắt mũi mồm để
khi đốt nến (đèn cầy) bên trong, ánh sáng có thể
tỏa ra giống như cây đèn. Cây đèn làm bằng quả
bí pumpkin trong ngày Tết Halloween được gọi là
Jack-O'-Lantern. Có nhiều người mua cây đèn
Jack-O'-Lantern làm bằng nhựa màu vàng da cam có bán sẵn ở
các cửa tiệm. Ngày xưa ở Anh và Ái Nhĩ Lan,
người ta dùng củ cải đỏ, khoai tây, và củ
cải tây để làm lồng đèn trong ngày Tết
Halloween. Sau khi phong tục này được du nhập vào Bắc
Mỹ, những quả bí ngô pumpkin mới bắt đầu
được sử dụng làm lồng đèn như hiện
nay.
Theo chuyện thần thoại Ái Nhĩ
Lan, Jack-O'-Lantern là biệt hiệu của một người
đàn ông tên là Jack. Anh Jack này khi chết không thể lên thiên
đàng v́ lúc c̣n sống anh là người bần tiện và
bủn xỉn. Anh ta cũng không thể xuống địa
ngục v́ anh ta đă chế riễu quỉ sứ ma
vương. Kết quả là
linh hồn anh chàng Jack phải đi lang thang trên
dương thế với cái đèn lồng cho đến
Ngày Phán Xử (Judgment Day). Theo
sách Tân Ước, New Testament, Ngày Phán Xử là ngày tận
cùng của một thời đại. Theo Gospels và sách Book
of Revelation, vào ngày này quả đất và bầu trời ở
trong t́nh trạng ồn ào hỗn độn, người
chết trỗi dậy từ những nấm mồ, và
Chúa Jesus hiện ra để phán xử tất cả những
người sống cũng như người chết.
Trong việc phán xét hạnh kiểm của họ, Chúa xem
xét những hành động mà con người đă làm cho
nhau, cả điều tốt cũng như điều xấu.
4. Tục Bói Toán Bắt Nguồn Từ Tết Halloween
Một vài cách bói toán để
đoán tương lai đă có ở Âu Châu từ hàng
trăm năm trước đây đều bắt nguồn
từ Tết Halloween mà ra. Chẳng hạn những vật
như đồng tiền xu, cái nhẫn, và cái đê (cái
đê dùng để đeo ở đầu ngón tay trong khi
khâu cho kim khỏi đâm vào) được đem bỏ
vào bánh nướng hay đồ ăn khác. Người ta
tin rằng trong khi ăn, nếu ai ăn nhằm phải
cái bánh trong có đồng tiền xu sẽ trở nên giầu
sang, gặp cái nhẫn sẽ sớm có vợ hay chồng,
và gặp cái đê sẽ ở góa suốt đời. Ngày nay, ngoài cách bói toán cổ truyền
trên, người ta c̣n dùng phương pháp bói bài Tây hay xem chỉ
bàn tay để đoán tương lai trong Tết Halloween.
5. Các Tục Lệ Khác Của Ngày Tết
Halloween
Tục cắn quả táo ở trong
chậu nước có lẽ được bắt đầu
ở Anh. Ngày nay người ta c̣n gắn tiền vào quả
táo để tưởng thưởng thêm cho ai cắn
được quả táo. Nhiều người c̣n tin là vào
ngày Tết Halloween, ma quỉ đi lang thang khắp nơi
trên dương thế và các mụ phù thủy cũng họp
nhau vào ngày 31 tháng 10 dương lịch. Đối với
những người không tin ma quỉ và phù thủy, họ
vẫn coi những trang phục có vẽ h́nh dáng mụ phù thủy và ma quỷ
là tượng trưng cho Halloween.
6. Sự Liên Hệ Giữa Tết
Halloween, Tết Trung Thu, và Tềt Trung Nguyên
Chúng ta có thể nói Tết Halloween
bao gồm một phần của ngày Tết Trung Thu và một
phần của ngày Tết Trung Nguyên của ta. Trong ngày Tết
Halloween, người ta cầu nguyện cho những người
chết giống như trong tục lệ Tết Trung
Nguyên, tức là ngày rằm tháng bảy ta, c̣n gọi là Lễ
Vu Lan, hay Mùa Báo Hiếu. Cả hai ngày tết này đều
là ngày để người ta tưởng nhớ và vinh
danh người đă chết. Tết Halloween cũng là dịp
để trẻ em vui chơi thỏa thích giống như
ngày Tết Trung Thu hay Tết Nhi Đống của ta. Trẻ
em đều chơi đèn, ăn bánh kẹo, và vui chơi
trong cả hai ngày Tết Trung Thu và Tết Halloween.
III. Biện Pháp An Toàn Cho Trẻ Em
và Người Lớn trong Đêm Halloween
Đă có rất nhiều tai nạn
xảy ra trong Tết Halloween. Chính v́ thế, người ta
đă dự trù kế hoạch an toàn cho trẻ em đi
“trick-or-treating” trong ngày tết này bằng cách:
1. Khuyên các em đeo băng phản
chiếu ánh sáng lên quần áo để báo hiệu cho xe cộ
khỏi đâm vào hầu tránh tai nạn.
2. Nên mặc đồ hóa trang ngắn
gọn và khó bén lửa để tránh vấp ngă và khỏi
bị cháy. Để tránh bị lạnh khi đi
“trick-or-treating,” nên mặc quần áo thật ấm ở
bên trong đồ hóa trang.
3. Nên vẽ mặt thay v́ đeo mặt
nạ để tránh bị mặt nạ che mất tầm
quan sát khi đi ở ngoài đường. Nếu đeo mặt
nạ trong khi đi th́ nên đẩy mặt nạ lên trán
để dễ nh́n.
4. Khi các em nhỏ đi
“trick-or-treating,” các phụ huynh nên đi theo. Nhớ mang
đèn pin (flashlight), và chỉ đến các nhà nào có đèn
sáng mà thôi. Nên cho trẻ ăn cơm chiều, ăn cho
đỡ đói mà thôi, trước khi đi để
tránh cảnh “bụng đói cật rét.” Khi đói và rét, trẻ
em dễ bị cảm.
5. Trẻ em chỉ nên đi
“trick-or-treating” ở những nhà quanh hàng xóm mà thôi.
6. Chỉ đi vào nhà người
ta bằng cửa trước và tránh dùng cửa hậu hay
cửa bên hông nhà để tránh các bất trắc xảy
ra.
7. Chỉ nên qua đường ở
chỗ ngă tư hay ngă ba và tránh
sang ngang đường ở khoảng giữa hay
đi giữa hai xe đang đậu ở vệ
đường và phải quan sát kỹ hai chiều trước
khi qua đường để tránh tai nạn xảy ra.
8. Nhớ cho trẻ mang theo ít tiền
trong túi và giấy tờ có biên địa chỉ, số
điện thoại, và tên cha mẹ để pḥng khi trẻ
lạc th́ có người giúp đưa về.
9. Phụ huynh dặn trẻ đừng
nên ăn bất cứ thứ ǵ khi người ta cho mà phải
đợi đến khi về nhà để cha mẹ xem
xét kỹ trước khi ăn. Thấy những gói kẹo
nào nghi ngờ có ǵ bất thường, phụ huynh có thể
đến nhà thương để nhờ kiểm soát lại
bằng quang tuyến X. Có nhiều nhà thương họ
làm chuyện này miễn phí và họ khuyến khích dân chúng cứ
lại nhờ nếu cần. Nếu có muốn ăn kẹo
bánh người ta cho trong lúc đi đường, chỉ
ăn những kẹo bánh c̣n nguyên trong gói để tránh ngộ
độc.
10. Khuyên các chủ nhà phải cẩn
thận đề pḥng hầu tránh bị kẻ bất
lương lợi dụng dịp Halloween để ăn
cướp và bắt cóc trẻ em. Để đèn ở
trước cửa nhà cho sáng, khóa xe và khóa cửa nhà để
xe (garage). Nếu thấy ǵ khả nghi, phải báo ngay cho cảnh
sát.
11. Nếu phụ huynh không đi
“trick-or-treating” với trẻ, phải biết rơ lộ
tŕnh chúng định đi để theo dơi khi cần. Nhắc
trẻ phải chịu trách nhiệm về mọi hành
động của chúng.
12. Nên để ư kiểm soát sinh hoạt
của con em ở tuổi vị thành niên trong đêm “Devil's
Night,” tức là đêm hôm 30 tháng 10, để ngăn ngừa
các em khỏi đi tụ họp làm các việc phạm
pháp.
IV. Kết Luận
Giữ cái hay của ḿnh và học
cái hay của người là điều quí hóa nhất để
duy tŕ và phát huy văn hóa dân tộc của chúng ta. Với
các bài viết về “Tết Trung Nguyên,” “Tết Trung Thu,” và
bài “Tết Halloween” này, chúng tôi
hy vọng sẽ giúp cho những
ai muốn t́m hiểu về sự liên hệ giữa phong tục
của người Việt và người Bắc Mỹ
qua Tết Trung Nguyên, Tết Trung Thu, và Tết Halloween để
đời sống của chúng ta và con cháu chúng ta ở Bắc
Mỹ này có thêm phần ư nghĩa.
T́m Hiểu về Lễ Giáng Sinh,
Cây Nô En, và Ông Già Nô En
Lễ Giáng Sinh là lễ kỷ niệm
ngày sinh nhật của Chúa Jesus. Tuy lễ Giáng Sinh là ngày lễ
của những người theo đạo Thiên Chúa,
nhưng cứ đến ngày lễ này th́ mọi người,
bất cứ theo đạo nào, cũng được
hưởng niềm vui tự nhiên do không khí Giáng Sinh mang lại.
Không phải chỉ những người
tin theo đạo Thiên Chúa mới đi lễ nhà thờ,
chăng đèn kết hoa trươc nhà, và trưng bầy
cây Nô En (Noel) trong pḥng khách mà mọi người dù theo bất
cứ đạo nào cũng tổ chức ăn mừng lễ
Giáng Sinh. Người người đều vui, cảm
thông, và hưởng trọn niềm ấm cúng thanh b́nh cùng
yêu thương trong mùa Giáng Sinh đầy hy vọng v́ Mùa
Giáng Sinh đă tạo cơ hội giúp mọi người
bỏ hết những hận thù và ích kỷ nhỏ nhen nếu
có mà họ không thể thực hiện trước đó
được.
Có rất nhiều người cảm
thông ư nghĩa của mùa Giáng Sinh một cách tự nhiên mà
không thắc mắc hay băn khoăn ǵ. Nhưng nếu t́m
hiểu thêm ư nghĩa của Lễ Giáng Sinh, Cây Nô En, và Ông
Già Nô En, chúng ta sẽ thấy thú vị vô cùng.
I. Lễ Giáng Sinh
Tiếng Anh gọi Lễ Giáng Sinh
là Christmas, tiếng Anh cổ thời xưa gọi Lễ
Giáng Sinh là Cristes Maesse. Từ Cristes Maesse có nghĩa ngày lễ
của Chúa (Christ's Mass). Ngày Lễ Giáng Sinh được tổ
chức vào 25 Tháng 12 dương lịch để kỷ niệm
ngày sinh của Chúa Jesus Christ và
được coi là ngày nghỉ lễ chính thức của
các nước có người theo đạo Thiên Chúa.
Câu truyện về ngày sinh của
Chúa Jesus có tên bằng tiếng Anh là Nativity. Chúa Jesus do Đức Mẹ Đồng
Trinh tự nhiên mang thai mà sinh ra. Sự thụ thai này do quyền
lực thần diệu của Thượng Đế tạo
ra trong khi bà Mary c̣n đồng trinh. Chúa Jesus được
sinh ra trong một chuồng ngựa (stable) tại Bethlehem và
được đặt trong máng cỏ (manger) v́ lúc đó
trong nhà trọ (inn) không c̣n một pḥng trống nào. Sau
đó, Chúa Jesus được Đức Mẹ Mary và chồng
của bà là Joseph nuôi nấng tại Nazareth, một thành phố
ở phía bắc Israel. Khi được 12 tuổi, Chúa
Jesus đến giáo đường ở Jerusalem và đă làm
kinh ngạc các giáo sư về môn Mosaic Law với sự hiểu
biết của ngài.
Khi lớn lên, Chúa Jesus chọn
được 12 người Tông Đồ cùng ngài đi
khắp nơi ở Palistine để giảng đạo,
chữa bệnh, và thực hiện các phép lạ. Một
trong những phép lạ đó là phép “Loaves and Fishes”(những
ổ bánh ḿ và những con cá). Chuyện phép lạ này
được người ta
truyền lại là khi Chúa Jesus thuyết giảng ở một đám đông trong
lúc họ rất đói, người ta chỉ t́m thấy 5
ổ bánh ḿ và 2 con cá. Thế mà nhờ Chúa Jesus làm phép trên 5 ổ
bánh ḿ và 2 con cá này rồi ra lệnh
cho các đệ tử của ngài phân phát đồ
ăn cho tất cả mọi người. Sau khi mọi
người được phát đầy đủ đồ
ăn và ăn một cách nô nê, người ta thấy 12 chậu
đồ ăn vẫn c̣n đầy.
Nhờ việc đi rao giảng lời
của Thượng Đế, ngài đă có rất nhiều
tín đồ và đồng thời cũng có nhiều kẻ
thù. Cuối cùng, Chúa Jesus bị tên Judas Iscariot phản bội,
bị Pontius Pilate - người lănh đạo dân Do Thái lúc
bấy giờ - kết án, và bị chính quyền La Mă
đóng đinh trên thập tự giá. Những người
Thiên Chúa giáo tin là ngài đă cải tử hoàn sinh và sự phục
sinh này đă cứu vớt được bao linh hồn.
Theo những tài liệu liên quan tới
ngày sinh nhật của Chúa Jesus, người ta thấy Chúa
Jesus không phải sinh vào ngày 25 tháng 12 mà có thể vào tháng 4
hay tháng 5 và có lẽ trước đó 3 năm, tức là
cách đây 2004. Tây lịch được tính theo năm
đầu tiên sau khi Chúa sinh ra đời. Theo niên giám La Mă,
Lễ Giáng Sinh đầu tiên được tổ chức
ở La Mă vào năm 336 Tây Lịch Kỷ Nguyên. Tuy nhiên, ở
miền đông đế quốc La Mă, một buổi lễ được tổ chức vào
ngày 6 tháng giêng để kỷ niệm chung cho ngày sinh nhật
và ngày rửa tội của Chúa Jesus. Cũng vào ngày 6 tháng
giêng này ở Jerusalem thuộc Do Thái (Israel) người ta chỉ
tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh nhật của
Chúa mà thôi.
Măi vào thế kỷ thứ IV, hầu
hết các nhà thờ ở miền đông đế quốc
La Mă mới chấp nhận tổ chức sinh nhật Chúa
Jesus Christ vào ngày 25 tháng 12. Trong lúc ấy ở Jerusalem,
người ta vẫn chống đối việc tổ chức
Lễ Giáng Sinh. Nhưng về sau này, Lễ Giáng Sinh lại
được chấp nhận ở Jerusalem. Các nhà thờ
ở nước Armenia, một nước ở Tây Á,
đă không chấp nhận Lễ Giáng Sinh. Họ tổ chức
ngày sinh nhật của Chúa vào 6 tháng giêng. Sau khi Lễ Giáng
Sinh, 25 tháng 12, được thiết lập ở miền
đông đế quốc La Mă, ngày kỷ niệm lễ rửa
tội của Chúa được tổ chức vào 6 tháng
giêng, ngày mà ba vị thông thái (Magus) từ miền đông
đế quốc La Mă đến Bethlehem để chiêm
ngưỡng Chúa Hài Đồng.
Những tục lệ cổ truyền
về Lễ Giáng Sinh bắt nguồn từ
sự trùng hợp ngày sinh của Chúa với những
ngày lễ kỷ niệm về nông tang và mặt trời
vào mùa đông (Winter Solstice) của những người
không theo đạo Thiên Chúa.
Ở La Mă, ngày 17 tháng 12 là ngày lễ
Saturnalia để kỷ niệm thần Saturn. Đây là thời
gian ăn chơi tưng bừng nhất và là dịp để
mọi người trao đổi quà kỷ niệm. Ngày 25
tháng 12 cũng được coi là ngày sinh nhật của
Thần Mithra, Thần Toàn Chân Thái Dương, thuộc xứ
Ba Tư. Năm mới của người La Mă là ngày 1 tháng
giêng dương lịch. Vào những dịp này người
ta trang hoàng nhà cửa bằng cây lá xanh tươi và hoa
đèn rực rỡ. Trẻ con và người nghèo
được trao quà tặng.
Lửa, đèn, và nến là tượng
trưng của sự ấm cúng và sự sống, nó luôn
luôn liên hệ với các lễ lạc vào mùa đông của
cả những người theo đạo Thiên Chúa và các
đạo khác.
Từ thời Trung Cổ, cây thông,
một loại cây vạn niên thanh, là biểu hiệu cho sự
sống và luôn luôn liên hệ
vơi Lễ Giáng Sinh.
II. Cây Nô En
Tiếng Nô En mà người Việt
ta thường dùng bắt nguồn từ chữ Pháp là Noel
và có nghĩa là Giáng Sinh. Cậy Nô En có tên bằng tiếng
Anh là Christmas Tree. Cây Nô En thường là cây thông nhân tạo
làm bằng ni lông hay là cây thông thật được chặt
ở rừng đem về nhà. Người ta trang trí cây
thông này bằng dây đèn đủ màu cùng với các đồ
trang hoàng khác như giấy bạch kim để giả làm
tuyết phủ, kẹo xanh trắng đỏ có h́nh cây gậy
ba toong (candy canes), các gói quà giả, các quả bóng nhỏ
đủ màu làm bằng thủy tinh, h́nh thiên thần, và cây
thánh giá, v.v. Cây thông sau khi được trang hoàng như thế
có tên là cây Nô En. Dưới chân cây Nô En người ta có các
gói quà do những người trong gia đ́nh mua để tặng
cho nhau. Cây Nô En là một thứ không thể thiếu
được trong mùa Giáng Sinh.
Việc dùng cành thông và ṿng hoa kết
bằng lá xanh (wreath) treo ở mặt ngoài cánh cửa nhà
để biểu lộ sự ước mong vĩnh cửu
cho đời sống con người là cổ tục của
người Ai Cập (Egyptiana), Trung Hoa, và Do Thái. Việc
tôn thờ cây rất được thông dụng ở Châu
Âu đối vơi người không theo đạo Thiên
Chúa. Tục lệ này vẫn c̣n tồn tại sau khi họ
nhập đạo Thiên Chúa. Người ở các
nươc Thụy Điển, Đan Mạch, và Na Uy, gọi
chung là người Scandinavian, thường trang hoàng nhà cửa
và vựa lúa với các loại cây vạn niên thanh vào dịp
năm mới để xua đuổi ma quỉ. Họ c̣n
dựng cây cho chim trú ngụ trong mùa Giáng Sinh. Phong tục này
c̣n có ở Đức. Người ta đặt cây Nô En
ngay ở lối ra vào hay ở trong nhà vào những ngày nghỉ
lễ giữa mùa đông.
Cây Nô En hiện đại ngày nay có
được là do phong tục của Tây Đức. Cái
khung cảnh chính của vở kịch nổi tiếng hồi
Trung Cổ về sự tích Ông Adam và Bà Eve là một cây thông
có treo những quả táo gọi là Cây Thiên Đàng tượng
trưng cho Vườn Địa Đàng (Garden of Eden).
Người Đức dựng Cây Thiên Đàng (Paradise Tree)
trong nhà vào ngày 24 tháng 12, ngày hội tôn giáo, để kỷ
niệm Ông Adam và Bà Eve. Người ta treo những miếng
bánh bít qui (biscuit) gọi là wafers trên Cây Thiên Đàng tượng
trưng cho dấu hiệu của Chúa Jesus đứng ra chuộc
tội cho nhân loại. Sau này người ta thay thế bánh
Wafers bằng bánh cúc ki (cookie) có đủ h́nh dáng khác nhau. Cả
những cây đèn cầy hay nến cũng được
dùng làm biểu tượng cho Chúa.
Trong cùng một pḥng có trưng bày cây Nô En vào mùa Giáng Sinh,
người ta c̣n dựng một Kim Tự Tháp Giáng Sinh
(Christmas Pyramid). Đây là một cấu trúc bằng gỗ
h́nh tam giác với các kệ để đồ (shelves). Bên
trên các kệ này có bày các pho tượng nhỏ và trang trí bằng
cây vạn niên thanh, đèn cầy, và một ngôi sao. Vào khoảng
thế kỷ thứ 16 th́ Christmas Pyramid và Paradise Tree
được kết hợp lại thành cây Nô En (Chistmas
Tree). Phong tục này đă được thịnh hành trong
giáo phái Tân Giáo của Luther ở Đức vào thế kỷ
thứ 18. Nhưng măi tới một thế kỷ sau
đó, cây Nô En mới ăn rễ sâu vào truyền thống
của người Đức.
Cây Nô En được du nhập
vào đất Anh từ đầu thế kỷ thứ 19
và rất được thịnh hành vào giữa thế kỷ
đó. Sở dĩ được như vậy là nhờ
công của Hoàng Tử Albert, chồng Nữ Hoàng Victoria. Ở
Anh vào thời đó, người ta gọi cây Nô En là
Victorian Tree. Cây Victorian Tree được trang trí bằng
đèn cầy, kẹo, cùng các thứ bánh đặc biệt
treo ở cành cây bằng dây băng (ribbon) hay dây giấy
đủ màu.
Phong tục trưng bầy cây Nô En
vào dịp Giáng Sinh đă được những người
di dân gốc Đức mang vào Bắc Mỹ từ đầu
thế kỷ thứ 17. Sau đó cây Nô En được thịnh
hành nhất vào thế kỷ thứ 19. Cây Nô En c̣n thịnh
hành ở Austria, Switzerland, Poland, và Holland trong giai đoạn
này. Ở Trung Hoa, Nhật Bản,
và Việt Nam, phong tục trưng bày cây Nô En là do các nhà truyền
giáo Âu Tây mang vào từ thế kỷ thứ 19 và 20.
III. Ông Già Nô En
Tên nguyên gốc của Ông Già Nô En là
Saint Nicholas. Theo truyền thuyết th́ Ông Già Nô En Nicholas có lẽ
là một vị Giám Mục người Hy Lạp ở vào
thế kỷ thứ 4. Nicholas được nổi tiếng
về ḷng tốt của ông. Tuy nhiên các nhà sử học
không thể xác quyết sự kiện về đời sống
cũng như sự hiện hữu của ông. Trong tiếng
Anh, Ông Già Nô En có tên là Santa Claus. Tiếng Santa Clause được
dịch từ tiếng Đức Sinter Klaes. Trong tiếng
Pháp, Ông Già Nô En có tên là Le Père Noel.
Truyện thần thoại về
Ông Già Nô En kể rằng Santa Claus tặng quà một cách bí
mật cho những người gặp cảnh khó khăn.
Ngoài ra, Ông Già Nô En c̣n có những tên như Nicholas of Bari và
Nicholas of Myra. Theo tục truyền, Ông Già Nô En được
sinh ra ở hải cảng cổ Lycia của thành phố
Patara thuộc Tiểu Á Tế Á (Asia Minor). Khi c̣n trẻ, Ông
Già Nô En đi du lịch đến Palestine và Egypt. Ông trở
thành Giám Mục của thành phố Myra, Lycia, thuộc Tiểu
Á Tế Á. Ông bị tù trong vụ hành hạ những người
Thiên Chúa Giáo thuộc triều đại Hoàng Đế La
Mă Diocletian. Sau đó ông được thả ra vào triều
đại vua Constantine Đại Đế (Thế Kỷ
Thứ 4) và tham dự Hội Đồng Lần Thứ Nhất
I của Nicaea, Council of Nicaea, vào năm 325 dương lịch.
Nicaes là một thành phố của Bithynia thuộc Asia Minor.
Hội Đồng Council of Nicaea có mục đích xác nhận
ḷng tin vào Thiên Chúa và kết tội chủ thuyết Arianism,
một chủ thuyết chối bỏ Chúa Jesus.
Vào thế kỷ thứ 6, lăng tẩm
của ông rất nổi tiếng ở Myra thuộc Tiểu
Á Tế Á. Vào năm 1087, những người thủy thủ
và lái buôn Ư đă cải táng mộ của ông và mang di hài ông
về Bari, Ư Đại Lợi. Sự cải táng này đă
là một sự kiện lịch sử và được
người ta làm lễ kỷ niệm hằng năm vào
ngày 9 tháng 5 dương lịch. Từ đó tiếng
tăm của ông được truyền đi khắp
nơi và Bari đă trở nên một trung tâm hành hương
đông đảo nhất. Lăng tẩm của ông
được đặt tại đại giáo đường
thuộc S.Nicala, Bari, Ư Đại Lợi.
Truyền thuyết về Ông Già Nô
En càng ngày càng nhiều. Chuyện đầu tiên được
kể về một phép lạ rất nổi tiếng là
khi ba vị sĩ quan bị kết án tử h́nh rồi lại
được tha sau khi Vua Constantine Đại Đế nằm
mơ thấy Nicholas. Kế đến là những chuyện
cứu trẻ em khỏi bao thảm họa. Ḷng ngưỡng
mộ đối vơi Ông Già Nô En bành trướng ra khắp
thế giơi. Tên của ông được dùng để
đặt tên cho rất nhiều nơi ở các
nươc. Tên họ của nhiều người cũng bắt
nguồn từ tên Nicholas như: Nichols, Nicholson, Colson, và
Collins.
Ông Già Nô En đă được chọn
làm vị thánh hộ mệnh của nước Nga và Hy Lạp,
các hội từ thiện, các công đoàn, các trẻ em và thủy
thủ đă được cứu vơt lên khỏi bờ
biển Lycia, các thành phố như Fribourg, Switz, and Moscow.
Đă có hàng ngàn nhà thờ ở Châu Âu được xây lên
để thờ Ông Già Nô En, trong đó có một nhà thờ
do Hoàng Đế La Mă Justinian Đệ Nhất xây vào thế kỷ thứ 6 ở
đô thị cổ Constantinople, bây giờ là Istanbul, một
thành phố lớn nhất của Turkey.
Các phép lạ của Ông Già Nô En
đă là đề tài ưa thích cho nhiều nghệ sĩ
thời trung cổ. Ngày hội
truyền thống về Ông
Già Nô En trở thành cơ hội cho các nghi lễ của Boy
Bishop, một phong tục phổ biến của người
Âu trong đó một cậu con trai được chọn
làm vị giám mục và ở tại chức cho tơi ngày
Holy Innocents' Day, tức ngày 28 tháng 12 dương lịch.
Sự biến đổi Nicholas
thành Đức Cha của Lễ Giáng Sinh (Father Christmas) hay Đức Cha của tháng giêng
(Father January) đă xảy ra lần
đầu tiên ở Đức, rồi đến các quốc
gia trong đó có Reformed Churches chiếm đa số. Tiếp
đến là ở Pháp, ngày hội Ông Già Nô En được
tổ chức vào dịp Giáng Sinh và Năm Mơi. Những
di dân người Ḥa Lan theo
đạo Tin Lành ở thành phố New Amsterdam, bây giờ là
thành phố New York City, đă gọi Nicholas là Nhà Ảo Thuật
Nhân Đạo và sau trở thành Ông Già Nô En, tức Santa
Claus.
Ở Hoa Kỳ và Anh Quốc,
Nicholas là thánh hộ mệnh của mùa Giáng Sinh. Theo truyền
thống, Giáng Sinh là ngày hội của gia đ́nh và của
trẻ con. Người ta trao đổi quà tặng với
nhau trong dịp này. Vào năm 1969, ngày hội Ông Già Nô En không
c̣n được ghi lên lịch, nhưng việc tổ chức
kỷ niệm Ông Già Nô En th́ được tùy nghi tổ chức
theo mỗi nơi.
Ngày nay tục lệ rước Ông
Già Nô En rất thịnh hành. Tùy theo từng địa
phương, người ta tổ chức cuộc rước
Ông Già Nô En (Santa Claus Parade) theo các ngày khác nhau ở mỗi
thành phố, thường là vào từ trung tuần tháng 11 trở
đi cho đến giữa tháng 12 dương lịch.
Trong cuộc diễn hành Ông Già Nô En này, người ta làm những
xe hoa thể hiện đặc tính của từng hội
đoàn hay các cơ sở thương mại và cũng thể
hiện ư nghĩa của mùa Giáng Sinh. Ngoài ra, người ta
c̣n có các ban nhạc diễn hành đi theo đám rước
này để tấu lên các bài hát Giáng Sinh. Mặc dầu thời
tiết lạnh và tuyết phủ đầy khắp không
gian mà mọi người vẫn tham dự cuộc vui một
cách tưng bừng và náo nhiệt.
Ở mỗi nhà vào dịp Giáng Sinh
người ta c̣n mua những đôi vớ hay tất đỏ
treo bên cạnh ḷ sưởi ngay chỗ ống khói. Họ
tin là vào đêm Nô En, Ông Già Nô En sẽ cưỡi xe trượt
tuyết do bầy hươu có cánh kéo từ trên trời xuống
trần gian để cho ông đem túi quà vào thăm mỗi
nhà qua lỗ ống khói và bí mật bỏ quà vào mỗi chiếc
vớ cho trẻ con. Người
ta tưởng tượng ra Ông Già Nô En với h́nh dáng của
một ông già béo mập, vui vẻ, có râu bạc trắng, mặc
quần áo màu đỏ, và mang túi quà phát cho trẻ con vào
đêm trước ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas Eve).
Để kết thúc bài này, chúng tôi
xin quí vị hăy ḥa vào niềm vui Giáng Sinh trong ư nghĩa của
bài thơ sau của Khải Chính:
Mùa Giáng Sinh
Lạy Chúa! Mùa Giáng Sinh, mùa sống
động,
Đem vui tươi nhộn nhịp
cho muôn loài.
Dù cỏ cây vùi dưới tuyết
ban mai,
Cố vươn sức sống
để tỏ niềm ngưỡng mộ.
Lạy Chúa! Chúng con là người
khác đạo,
Cũng cảm thông niềm vui Chúa
Giáng Sinh.
Khắp không gian ngút tỏa sắc
hương lành,
Đem hy vọng chuông rền vang ấm
áp.
Bao mỹ ư hướng ngôi cao của
Chúa,
Bao thiện tâm do ơn chúa nảy
sinh.
Gương Chúa sáng rạng rỡ
ánh b́nh minh,
Nhân loại tối tăm, đền
trời dẫn lối.
Mùa Chúa Giáng Sinh, đất trời
mở hội,
Bao người hớn hở, khắp
chốn hoan ca,
Ngàn trước ngàn sau đầm ấm
chan ḥa,
Măi măi yêu thương sum vầy hạnh
phúc.
Những Khám Phá về Trí Thông Minh
Con Người
Bộ óc chúng ta giữ vai tṛ quan trọng
trong việc phát triển trí thông minh. Óc hay chất xám (gray matter)
là một cơ quan chính của hệ thống thần kinh
gồm các cấu trúc đặc biệt giữ nhiệm vụ
điều khiển cảm xúc, cử động, tư
tưởng, lư luận, thị giác, thính giác, ngôn ngữ, và trí nhớ.
I. Những
Điều Đă Được Đề Cập về
Trí Thông Minh Trước Đây
Thông minh được định
nghĩa là khả năng hiểu biết và cảm nhận
được sự liên hệ một cách trừu tượng
của sự vật, khả năng học hỏi và thích
hợp với môi trường do bản năng mà có chứ
không cần phải được động viên hay khuyến
khích, và khả năng hiểu biết do sự tổng hợp
giữa đặc tính bẩm sinh của trung khu thần
kinh và các yếu tố về kinh nghiệm, học hỏi,
và môi trường sống tạo thành.
Theo các nhà tâm lư học, thông minh có thể
đo lường được. Muốn đo lường
sự thông minh, người ta ấn định hệ số
thông minh mà tiếng Anh gọi là Intelligence Quotient. Hệ số
thông minh được viết
tắt là IQ. Muốn có hệ
số thông minh IQ này, người ta lấy tuổi trí tuệ
(mental age) của một người chia cho tuổi thật (age in years) của người đó rồi
nhân với 100. Tuổi trí tuệ
(mental age) được ấn định bằng cách
đo lường các kỹ năng (skills) của con người
qua một cuộc lượng giá gọi là trắc nghiệm
thông minh tiêu chuẩn (the standardized intelligence test).
Căn cứ theo trắc nghiệm
thông minh, nếu trẻ em có số tuổi trí tuệ bằng
số tuổi đời, hệ số IQ sẽ là 100. Nếu
hệ số thông minh IQ từ 90 tới 110, trẻ
được coi là thông minh b́nh thường. Những trẻ
có IQ từ 120 trở lên được coi là thông minh
thượng hạng (superior), có IQ vào khoảng 130
được coi là bậc thiên tài (gifted), và IQ vào khoảng
140 được coi là bậc kỳ tài (genius). Riêng những
trẻ học rất nhanh, tiến bộ vượt bực,
nhất là về các môn âm nhạc, hội họa, nghệ
thuật, và thơ văn, được coi là thần
đồng (prodigy). Những em có IQ dưới 90 được
xếp vào loại kém thông minh và đần độn
(mental retardation).
Trắc nghiệm thông minh đầu
tiên đă được nhà tâm lư học người Pháp
tên là Alfred Binet với sự trợ giúp của Theophile Simon
phát minh vào năm 1900. Vào năm 1916, một vị giáo sư
tâm lư học người Hoa Kỳ, Lewis Terman, thuộc
trường đại học Stanford University đă cải
tiến các trắc nghiệm trí thông minh của Alfred Binet và
đặt tên cho nó là Stanford-Binet Scale. Sau nhiều lần cải
tiến, Stanford-Binet Scale đă được coi là nền
tảng của việc trắc nghiệm trí thông minh.
Căn cứ vào kết quả của trắc nghiệm
thông minh, người ta nhận thấy:
- Con em của các chuyên gia có IQ cao
hơn các con em của tầng lớp thợ thuyền.
- Những trẻ thuộc loại
thiên tài, kỳ tài, và thần đồng có thể
được sinh ra từ những gia đ́nh có cha mẹ
thành công cũng như từ những bậc cha mẹ kém
thành công. Điều chính yếu ở đây là các em thuộc
loại này được thừa hưởng yếu tố
di truyền về thông minh của cha mẹ chứ không phải
thừa hưởng yếu tố thành công của cha mẹ.
- Những em thuộc tầng lớp
xă hội có đời sống văn hóa và mức sống
cao thường thông minh hơn các em thuộc tầng lớp
xă hội thấp kém và nghèo nàn. Điều này có nghĩa là
sự thông minh bị chi phối bởi môi trường sống,
giáo dục, dinh dưỡng, y tế, và văn hóa.
- Trắc nghiệm thông minh có thể
tiên đoán khá chính xác về sự thành công trong việc học
đối với các em ở tiểu học và trung học
cũng như sự thành công về mặt xă hội của
các em. Trắc nghiệm thông minh không thể đoan chắc
các em sẽ thành công ở bậc đại học hay bậc
chuyên nghiệp được.
- Những em thuộc loại thiên
tài khi trưởng thành thường có lợi tức trên mức
trung b́nh và có sức khỏe tốt về thể chất cũng
như tinh thần. Các em này c̣n đạt đến tŕnh
độ học vấn cao và thành công trong các ngành nghề
chuyên môn hơn các em có hệ số IQ ở mức trung
b́nh.
- Các trẻ em thiên tài, kỳ tài, và
thần đồng chưa chắc sẽ thành công trong sự
nhiệp cống hiến cho xă hội một cách có hiệu
quả. Thông minh là một việc, muốn giúp ích xă hội,
các em c̣n cần phải có tư cách, động lực thúc
đẩy, có tâm huyết, tinh thần hy sinh, và luân lư chức
nghiệp.
- Các em thiên tài, kỳ thài, và thần
đồng c̣n bị trở ngại về việc học
nếu các em này học chung với các em có tŕnh độ
thông minh ở mức trung b́nh. Nếu học chung như vậy,
các em thông minh sẽ cảm thấy buồn tẻ, chán nản,
không muốn học, và cuối cùng không đủ điểm
lên lớp. Các em thuộc các loại thông minh này phải
được xếp học riêng với chương tŕnh
đặc biệt và với sự săn sóc kỹ lưỡng
mới có sự tiến bộ được.
- Mức độ thông minh sẽ
phát triển đến khi trưởng thành và c̣n tiếp tục
phát triển tới tuổi trung niên và tuổi về già nếu
quí cụ c̣n tích cực vận dụng đến trí thông
minh trong mọi sinh hoạt.
- Sự thông minh không được
sử dụng liên tục một cách tích cực sẽ bị
đui chột đi. Tuy nhiên, nhịp độ phát triển
của trí thông minh ở mức cao nhất là vào khoảng
25 tuổi. Sau đó, sự phát triển sẽ chậm lại
từ từ. Khi con người về già, những kỹ
năng của họ học hỏi được trước
đây sẽ mất dần đi, nhất là về ngữ
vựng. C̣n về những điều mới mà họ muốn
học thêm, họ phải khó khăn lắm mới thu thập
và nhớ được.
II. Những Khám Phá Mới về Trí
Thông Minh
A. Bảy Phạm Vi Thông Minh thuộc
Lư Thuyết M “Multiple Intelligences” của Giáo Sư Howard Gardner
Các bậc cha mẹ ai cũng muốn
con ḿnh thông minh về mọi mặt. Điều này chỉ
là một ước vọng. Trong thực tế không
được như vậy. Thông minh tùy thuộc vào nhiều
yếu tố, không thể bất
cứ đứa trẻ nào cũng thông minh được.
Tuy nhiên, một nhà tâm lư học của trường đại
học Harvard, Giáo Sư Howard Gardner, đă khám phá ra những
phạm vi mới về thông minh được gọi là
“Multiple Interlligences,” viết tắt bằng “MI.” Khám phá mới này của Giáo Sư Howard Gardner
đă được người ta chấp nhận ở
khắp Bắc Mỹ. “MI” gồm có 7 phạm vi thông minh
khác nhau.
Người ta có thể thông minh về
mặt này và kém thông minh về mặt kia. Tuy nhiên, phạm
vi thông minh nào cũng quan trọng và co giá trị riêng cũa
nó. Theo báo The London Free Press, số ngày 10 tháng 6 năm 1996,
1. Linguistic Intelligence: Đây là sự
thông minh về mặt ngôn ngữ học. Nếu thông minh về mặt này, trẻ
sẽ rất bén nhạy về cách hành văn và chọn chữ trong lúc viết văn.
2. Musical Intelligence: Đây là sự
thông minh về phạm vi âm nhạc. Nếu thông minh về phạm vi này, trẻ
sẽ rất nhạy cảm và sáng tạo trong khi nghe và vận
dụng âm điệu (tones), nhịp điệu (rhythms), thể
nhạc (musical patterns), độ cao của âm thanh (pitch), và
âm sắc (timbre) trong khi sáng tác một bản ḥa tấu
(symphony).
3. Logical/Mathematic Intelligence: Đây là
sự thông minh về toán học. Nếu thông minh về phạm
vi này, trẻ sẽ có khả năng lư giải các bài toán và
các vấn đề cũng như thấy rơ sự liên hệ
một cách trừu tượng của vấn đề
trong đại số học hay khoa học.
4. Spatial Intelligence: Đây là sự
thông minh về ư niệm không gian. Nếu thông minh về mặt này, trẻ
sẽ nhận thức, vận dụng, và sáng tạo ra những
h́nh thức và nội dung khác nhau, chẳng hạn như
trong nghệ thuật hội họa.
5. Bodily/ Kinesthetic Intelligence: Đây
là sự thông minh liên quan đến phạm vi vận chuyển
và phối hợp cơ thể cùng bắp thịt một
cách công phu và nghệ thuật.
Với sự thông minh trong phạm vi này, người
ta có thể đạt tới công phu và nghệ thuật cao
về khiêu vũ, vơ thuật, và các môn thể dục thể
thao như điền kinh (nhảy xa, nhảy cao, chạy tốc
lực, chạy dai sức, nhảy sào, ném tạ, và phóng
lao...), bơi lội, bóng rổ, bóng bàn, quần vợt, túc
cầu, và dă cầu, v.v.