6. Intrapersonal (occurring within a person's
mind) Intelligence: Đây là sự thông minh liên quan đến nhận
thức,tâm thức, và tư tưởng. Với sự
thông minh này, con người có khả năng nhận thức,
sáng tạo, diễn tả minh bạch, hiểu được
bổn tâm bổn tánh của minh, và có khả năng tự
lĩnh hội và tự trau giồi lấy các tư tưởng
cao siêu. Các thi sĩ, các nhà văn, và các nhà tư tưởng
thuộc vào trường hợp này.
7. Interpersonal Intelligence: Đây là sự
thông minh thuộc về kỹ năng xă hội liên quan
đến khả năng nhận xét chính xác về thái
độ, t́nh cảm, và hành đồng của người
khác. Có được sự thông minh này, các nhà giáo mới
thành công trong việc giảng dạy, các bậc cha mẹ mới
nuôi con nên người, và các nhà chính trị mới hoàn thành
sự nghiệp trị nước an dân một cách tốt
đẹp.
Trước đây, nhà trường
thường chú trọng về sự thông minh liên quan đến
ngôn ngữ, luận lư, và toán học. Ngày nay, với lư thuyết “MI” người ta tin tưởng
rằng các mặt thông minh khác cũng quan trọng như thế
nếu không muốn nói là quan trọng hơn. Chẳng hạn
như sự thông minh về kỹ năng xă hội
(Interpersonal Intelligence) có thể
quan trọng hơn quan niệm IQ đối với hạnh
phúc và sự thành công của trẻ.
Nhiều nhà trường ở Hoa Kỳ
đă áp dụng lư thuyết “MI” để dạy trẻ. Họ
đă hoạch định những phương sách dạy
học một cách sáng tạo hơn. Các nhà giáo dục quan
niệm rằng có nhiều cách suy nghĩ và diễn đạt về một
vấn đề. Chẳng hạn như về việc diễn đạt
nghĩa của chữ “confusion” (bối rối), người
có đầu óc nghệ thuật th́ h́nh dung ra cảnh mất
thứ tự, lộn xộn; nhà phân tích có thể nghĩ tới vấn đề hay sự suy nghĩ
không có giải đáp; và một
nhạc sĩ có thể nghĩ
tới việc âm thanh không phù hợp hay bị lạc
điệu. Những quan điểm khác nhau trên đây
đều đúng.
Càng có nhiều quan điểm khác
nhau này, trẻ càng hiểu rơ nghĩa của từ
“confusion.” Chính v́ thế, muốn dạy học tṛ hiểu
về bác học Albert
Einstein, một nhà giáo đă cho
những học sinh vữa ông viết một vở kịch
về Albert Einstein và cùng nhau diễn vở kịch đó.
Trong cách thức này, những học sinh đă sử dụng
một cách thực sự về 7 phạm vi của trí thông
minh để học về đời sống và khoa học
của Einstein. Học sinh
đă tỏ ra hiểu được kỹ hơn và nhớ
được nhiều hơn bằng cách học này.
Quan niệm mới về thông minh
không có nghĩa là làm cho trẻ thông minh hơn trước.
Cái điều mà lư thuyết “MI” muốn nhấn mạnh là
trẻ em có nhiều phạm vi thông minh, mỗi trẻ có những
phạm vi thông minh khác nhau. Chính nhờ điểm nhận
xét này mà các nhà giáo dục đă có những phương pháp
mới dạy trẻ. Chẳng hạn như muốn dạy
toán cho một em có trở ngại về toán, thầy cô có
thể khai thác các phạm vi sở trường như âm nhạc
hay các sở trường khác mà trẻ đă có để dạy
chúng. Điều cốt yếu ở đây là nhấn mạnh
vào những sở trưởng của trẻ để dạy
chúng hơn là làm chúng có măïc cảm yếu kém về môn
chúng gặp trở ngại. Lư thuyết “MI” đă mở ra
một chân trời mới trong phương pháp giảng dạy
ở học đường và đă làm cho học sinh học
một cách dễ dàng trong mọi môn học, nhớ
được lâu hơn, và thích thú học tập hơn.
B. Chỉ Có Người Mẹ Truyền
Hạt Giống Thông Minh Cho Con Trai
Theo báo
The London Free Press, số ngày 28 tháng 6 năm 1996, London, Canada,
bà Gillian Turner, thuộc cơ sở Hunter Genetics ở
Newcastle, New South Wales, Úc, đă
tŕnh bày trong một bài khảo luận của báo Lancet
Medical Journal liên quan đến một khám phá mới về
sự thông minh. Bà cho rằng người đàn bà có yếu
tố di truyền thông minh trong nhiễm sắc thể
X (X Chromosome) và chịu hoàn toàn
trách nhiệm truyền yếu tố thông minh này cho những
cậu con trai.
Người mẹ c̣n có yếu tố
di truyền trong hai nhiễm sắc thể X để truyền
cho cả con trai và con gái, trong khi đó người bố
chỉ có một nhiễm sắc thể X chứa yếu tố
di truyền thông minh và chịu trách nhiệm truyền cho con
gái. Nhờ thế mà người
con gái có cơ hội thừa hưởng trí thông minh gấp
hai lần con trai v́ được cả cha lẫn mẹ
truyền tính chất thông minh cho. Con gái là tấm
gương phản ảnh sự thông minh của cả cha
và mẹ.
Chính v́ lư do trên, người ta khuyên
các đấng đàn ông khi chọn người mẹ cho
các con tương lai của ḿnh nên để ư đến
người đàn bà có “đầu óc” hơn là có vẻ
đẹp bề ngoài. Dĩ nhiên, nếu chọn được
người đàn bà vừa có “đầu óc” vừa có vẻ
đẹp bề ngoài th́ người chồng sung sướng
biết bao nhiêu mà kể.
Khám phá mới này rất phù hợp
với câu tục ngữ của ta đă có từ lâu đời:
“Phúc đức tại mẫu,” và “Con gái nhờ phúc cha, con
trai nhờ đức mẹ.” Quả thật các cụ ta rất
văn minh và đă có những nhận xét đi trước
các nhà tâm lư và khoa học Tây phương hàng bao thế kỷ.
C. Hệ Số Thông Minh của Trẻ Sút Kém Là Do Người Mẹ Bị
Điều Trị Bằng Thuốc An Thần Trong Thời
Kỳ Mang Thai
Theo báo The London Free Press, số ra
ngày 16 tháng 11 năm 1995, London, Canada, một nghiên cứu gia,
Bà June Machover Reinisch, thuộc viện Kinsey Institute For
Researching Sex, Gender, and Reproduction tại đại học
Indiana University, đă khám phá ra
là những cậu con trai mà bà mẹ đă uống thuốc
an thần loại “Sedative Phenobarbital” trong thời kỳ có
thai bị kém thông minh gấp đôi những cậu con trai
khác. Hệ số IQ sẽ c̣n thấp hơn nếu
các cậu con trai này sinh ra trong gia đ́nh nghèo hay do việc
thụ thai mà bà mẹ bị cưỡng bức.
Cuộc nghiên cứu trên đă khuyến
cáo các bác sĩ phải cẩn thận khi kê thuốc loại
“Phenobarbital” trong thời kỳ người đàn bà có thai
nghén. Bà Reinisch c̣n khuyên các bà mẹ phải hết sức cẩn
thận về mọi thứ
trong thời kỳ mang thai. Cái ǵ cũng có thể nguy
hiểm, phải cân nhắc giữa lợi và sự nguy hiểm.
Bà Reinisch ước lượng có 23 triệu người
Mỹ, hiện bây giờ là người trưởng thành,
đă nhiễm hậu quả tai hại của thuốc
“Phenobarbital” khi c̣n ở trong bào thai. Thuốc này trước
đây thường được các bác sĩ kê toa cho các
bà có thai để trị bệnh mất ngủ, an thần,
áp huyết cao, nôn mửa, và các chứng bệnh khác.
Trong những thập niên của
1960,1970, và tiền bán thập niên của 1980 mgười ta
dùng nhiều thuốc “Phenobarbital.”
Hiện nay thứ thuốc này được dùng ít
đi rất nhiều. Tuy nhiên, thuốc “Phenobarbital” hăy c̣n
giữ vai tṛ quan trọng
để trị kinh phong, trúng phong, hay chứng kinh giản
(epilepsy). Người ta ước lượng cứ 200
người Mỹ th́ có một người đau khổ
về bệnh kinh phong.
D. Người Da Đen Kém Thông Minh
và Không Tôn Trọng Luật Pháp Bằng Người Da Trắng.
Người Da Vàng Được Xếp Vào Hạng Thông
Minh Hơn Người Da Trắng và Da Đen. Đàn Ông
Thông Minh Hơn Đàn Bà
Theo Mary Giane Edgan, The London Free Press, số
ngày 28-11-95; Michael Smith, The London Free Press, số ngày 12-2-96;
và Samana Siddiqui, The London Free
Press, số ngày 19-8-96, London, Canada, vào năm 1989, một giáo
sư tâm lư thuộc trường đại học
University Of Western Ontario, Canada,
ông J. Philippe Rushton, đă
tŕnh bày bài nghiên cứu của ông trong đó có phần
đề cập đến sự thông minh với đại
ư rằng người da đen kém thông minh hơn và không tôn
trọng luật pháp bằng người da trắng.
Người da vàng được xếp hạng trên
người da trắng và da đen về vấn đề
thông minh và sự tôn trọng luật pháp. Cuộc nghiên cứu
của ông cho thấy rằng óc càng lớn người ta
càng thông minh. Một cách tổng
quát th́ óc của người da đen nhỏ hơn óc
người da trắng, và óc người da vàng lớn
hơn óc người da trắng. Do đó người da
vàng thông minh hơn người da trắng và người da
trắng thông minh hơn người da đen.
Sự khám phá của Giáo Sư
Rushton về thông minh và việc tuân hành luật pháp đă gây
ra cuộc tranh luận sôi nổi trên khắp thế giới.
Tính mạng của Giáo Sư Rushton bị đe dọa chỉ
v́ vấn đền này. Tuy nhiên, không ai có đủ bằng
chứng cụ thể để phủ nhận khám phá mới
này của ông. Cuối cùng đă có 19 sinh viên thuộc trường
đại Western Ontario, nơi Giáo Sư Rushton dạy học,
đem vấn đề ra Ủy Ban Nhân Quyền Ontario vào
năm 1991 để thưa Giáo Sư Rushton với lư do
không xác đáng là ông đă vi phạm điều luật
nhân quyền trên căn bản chủng tộc, tổ tiên,
màu da, và nguồn gốc sắc dân bằng cách đầu
độc môi trường học hỏi tại bậc
đại học. Họ muốn ông bị sa thải khỏi
trường đại học Western Ontario.
Vào ngày 27-11-95, Ủy Ban Nhân Quyền
Ontario đă tuyên bố không xét trường hợp này và
đóng tất cả những hồ sơ khiếu nại
về việc này với lư do là Ủy Ban đă mất liên
lạc với những người nộp đơn khiếu
nại. Tuy mừng nhưng Giáo Sư Rushton vẫn coi vấn
đề này chưa được giải quyết ổn
thỏa v́ cung cách làm việc của Ủy Ban Nhân Quyền
và vấn đề thưa kiện ông là một xỉ nhục
đối với công tŕnh nghiên cứu về lănh vực học
vấn. Ông tuyên bố là sẽ nhờ luật sư để
làm sáng chính nghĩa trong phạm vi nghiên cứu ở đại
học không những cho ông mà c̣n cho tất cả các đồng
nghiệp nữa.
Ở đại học Western Ontario, Giáo Sư Greg Moran, phó
viện trưởng đặc trách về học vụ
đă tuyên bố là vị thế trường đại học
đối với vấn đề của Giáo Sư Rushton
trước sau như nhất. Ông phó viện trưởng
nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của trường
đại học là bảo vệ khả năng của những
nhà nghiên cứu để đưa ra các công tŕnh nghiên cứu
trong phạm vi họ chọn lựa. Ông c̣n nói thêm là đôi
khi công tŕnh nghiên cứu và kết quả của nó nằm
trong phạm vi khiến người khác cảm thấy
không thoải mái, nhưng đó là việc tất yếu phải
xảy ra ở môi trường đại học.
Hôm 18-08-96, Giáo Sư Rushton lại
tŕnh bày quan điểm của ông về sự liên hệ giữa
kích thước năo bộ của con người và trí thông
minh trong cuộc Hội Nghị Quốc Tế về Tâm Lư
Học (International Congress of Psychology) tại Montreal, Canada.
Giáo Sư Rushton kết luận rằng người Á Châu
thông minh hơn người da trắng, người da trắng
thông minh hơn người da đen, và đàn ông thông minh
hơn đàn bà. Điều
Giáo Sư Rushton cho rằng đàn ông thông minh hơn đàn
bà là có ư nói về đa số mà thôi. Nó rất hợp với nhận
xét của các cụ ta ngày xưa trong câu ca dao sau: “Đàn ông
nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như
cơi đựng trầu.” Điều này lại chứng
tỏ rằng người Việt Nam ta rất giỏi về
khoa tâm lư và vượt xa hơn các nhà tâm lư Tây Âu cả hàng
bao thế kỷ.
Mặc dầu có người đồng
ư, có người không đồng ư về quan niệm của
ông, và có người chụp mũ ông là kỳ thị chủng
tộc, Giáo Sư Rushton vẫn bảo vệ những lư
thuyết và lập trường về trí thông minh của
ông. Theo bà Mary Giane Edgan của báo The London Free Press, số ra
ngày 28-11-95, một nhà tâm lư học tại Netherlands, Ḥa Lan,
đă hỗ trợ quan điểm của Giáo Sư Rushton
qua lời phát biểu sau: “Tôi nghĩ rằng ông ấy là một
khoa học gia rất can đảm v́ đă dám đào sâu vào
những đề tài mà rất nhiều người phải
sợ run lên khi đề cập tới.” Trước khi phát
biểu ư kiến nêu trên, nhà tâm lư này đă yêu cầu bà Mary
Giane Edgan đừng tiết lộ tên của ông ta.
Đ. Tầm Quan Trọng Của 3
Năm Đầu Tiên Trong Cuộc Đời
Trong bài “Why The Brain Is One of Our Great,
Wasted Resources” của báo The London Free Press, số ra ngày 09
tháng 10 năm 1996, bà Joan Beck đă tŕnh bày ư kiến của
nhà chuyên viết về khoa học trong báo Chicago Tribune rằng:
“Ba năm đầu tiên của cuộc đời đứa
trẻ giữ vai tṛ rất quan trọng trong việc phát
triển năo bộ.” Bà cho là
trong những năm đầu cuộc đời, nếu
không có một môi trường thuận lợi để tập
nói, vận động cơ thể, quan sát như nh́n, nghe,
ngửi, sờ, nếm, và thực hành để khám phá sự
vật, trẻ em sẽ không thể phát triển về năo
bộ được. Chính v́ thế mà khi bắt đầu
đi học, chúng không những thua sút các bạn về việc
học mà năo bộ của chúng c̣n bị c̣i đi nữa. Một
khi thất bại ở trong lớp, chúng sẽ không bao giờ
theo kịp các bạn mà c̣n dễ bị lôi cuốn vào những
thói hư tật xấu khác.
Muốn cho trẻ phát triển năo bộ
một cách đúng mức trong ba năm đầu tiên của
cuộc đời chúng, các bậc phụ huynh phải
để tâm thương yêu, săn sóc sức khỏe, giúp
chúng tập nói bằng cách đối thoại với chúng
dù chúng chưa biết nói, cho chúng chơi các đồ
chơi có tính cách quan sát, học hỏi, khám phá, và nếu có
thể, cho chúng theo học các lớp “Nursery School” càng sớm
càng tốt.
III. Thành Công Và Hữu Ích
Kinh nghiệm cho thấy trí thông minh
rất cần cho con người tiến bộ nhưng
chưa đủ để giúp cho con người thành công
và trở nên người hữu ích cho đất nước
và nhân loại.
1. Thành Công
Học hành hay làm việc thành công một
phần nhờ vào sự thông minh, nhưng phần lớn
là nhờ ở sự kiên tŕ, cố gắng, hoàn cảnh
thuận lợi, và vận may. Đă có biết bao bậc phụ
huynh, thầy giáo, huấn luyện viên thành công trong việc
dạy và huấn luyện trẻ. Đó là nhờ vào sự
dày công dạy trẻ và khuyến khích chúng mỗi khi chúng gặp
khó khăn hay thất bại. “Thất bại là mẹ thành
công” là nguyên tắc căn bản
để con người theo đuổi sự nghiệp
lâu dài. Đă có biết bao
người học thành tài giúp ích cộng đồng xă hội
là do họ cố gắng “sôi kinh nấu sử” hay là “dùi mài kinh sử” và dày công lập
chí tu thân. Những câu tục ngữ “có công mài sắt có ngày
nên kim” và“hữu chí cánh thành” là ở trong ư nghĩa này. Thêm vào đó, những trẻ thành
công, ngoài sự thông minh và cố gắng, phần lớn
c̣n do cha mẹ hết sức săn sóc nuôi dạy.
Chính v́ biết công ơn của cha
mẹ mà ngày xưa người ta có tục lệ “vinh quy
bái tổ” dành cho những vị tân trạng để có dịp
báo đáp công ơn tổ tiên cùng cha mẹ. Ngày nay, khi các học sinh được
phần thưởng hay đỗ đạt, các lực sĩ
chiếm giải quán quân hay giải vô địch, các nghệ
sĩ đoạt huy chương, và các nhà văn đoạt
giải thưởng, họ thường ngỏ lời
cám ơn cha mẹ cùng các người đă góp công vào sự
thành dạt của họ. Tục ngữ ta có câu “Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây” là
để chỉ việc này.
Ở ngoài Bắc, khoảng hơn
nửa thế kỷ trước đây, tại làng Hành Thiện
thuộc tỉnh Nam Định có rất nhiều người
học hành thành đạt ra làm quan. Người ta bảo
đó là nhờ vào “đất.” Khi t́m hiểu ra, người
ta mới biết nếu gia đ́nh nào có người học
giỏi th́ họ lại giúp anh chị em và con cháu học
cho thành tài, chứ không phải là do “đất” mà
được.
Thường th́ bố mẹ làm nghề
ǵ, con cái có khuynh hướng làm nghề ấy. Đây là nói
tổng quát mà thôi. Bố mẹ làm bác sĩ, dược sĩ,
kỹ sư, hay luật sự th́ con có cơ hội làm các
nghề đó. Cha mẹ làm ca sĩ, kịch sĩ, tài tử,
th́ con có nhiều cơ hội theo nghề cha mẹ. Cha mẹ
làm quan, con cái có cơ hội làm quan. Ca dao tục ngữ ta
có những câu: “Đầu đi đuôi lọt,” “Con nhà tông
chẳng giống lông cũng giống cánh,” và “Con vua th́ được làm vua,
con săi chùa thí quét lá đa” là để nói về trường
hợp này.
Một số đông các bậc phụ
huynh đă khuyến khích các con em cố gắng học mà
không để chúng ỷ vào trí thông minh mà lơ là sự học.
Họ đă khuyên con cái phải chuyên cần và “thắng
không kiêu, bại không nản.”
Đành rằng có thông minh th́ việc học sẽ dễ
dàng hơn, nhưng đó không phải là yếu tố quyết
định. Các em học sinh, dầu thông minh nhiều hay ít
cũng vậy, nếu kiên chí chuyên cần học tập, cộng
thêm sự chăm lo chu đáo của phụ huynh, đều
sẽ thành công trong việc học một cách mỹ măn.
Điều này đă được thực tế chứng
minh là đúng.
2. Hữu Ích
Những người học hành
thành công, đỗ đạt cao, và giầu có chưa chắc
đă giúp ích cho xă hội và nhân loại. Đành rằng những bậc
khoa bảng và những người giầu có đă từng
giúp ích cho xă hội và nhân loại, không bằng cách này th́
cách khác. Có nhiều trường hợp họ là các bậc
lương đống, tức là người giỏi và là
rường cột của quốc gia và nhân loại. Tuy
nhiên, ta cũng thấy không thiếu những kẻ có bằng
cấp cao và những người giầu có là những kẻ
vô liêm sỉ, bọn Cộng nô, và là bọn đồi bại
làm hại dân hại nước. Nhờ học giỏi và
giầu có, họ lại càng có nhiều mánh khóe tinh xảo
và dùng mănh lực đồng tiền để vinh thân ph́
gia và bán nước cầu vinh. Họ thuộc loại có
tài mà không lương thiện và bị danh quyền lợi
bất chính che mất lương tri v́, theo như lời
Phật dạy, cái tài và trí thông minh của họ đă bị
bát tà cùng tam độc dẫn lối và bị màn vô minh bao
phủ. Họ có giỏi đến mấy cũng là bọn
sâu dân mọt nước mà thôi.
Như vậy, muốn trở thành
những người hữu ích cho đất nước
và nhân loại, bên cạnh việc học hành thành công, đỗ
đạt cao, và giầu có, người ta c̣n phải tu
thân với mục đích chuyển mê khải ngộ để
có ḷng lương thiện và ḷng vị tha hầu đem hết
tâm thần phục vụ cho đại nghĩa của
đồng bào và dân tộc trong việc giải thể chế
độ Cộng Sản nơi quê nhà. Có như thế, sự
thông minh và tài giỏi của ta mới trở thành hữu
ích, đáng quí,và đáng được coi trọng.
IV. Thông Minh Và Lương Thiện
Luigi Barzini,
trong tác phẩm O America, 1977, có viết: "Nếu một
người thông minh và "Phát Xít" th́ anh ta không phải
là người lương thiện. Nếu anh ta
lương thiện và "Phát Xít" th́ anh ta không phải
là người thông minh.” Nói
đến thông minh và độc tài, người ta nghĩ
ngay đến Hitler ở Đức. Hitler chủ
trương một cái đầu thông minh bằng ngàn cái
đầu tầm thường. Hitler viết: “Không phải
tập thể quần chúng làm công việc phát minh và cũng
không phải khối đa số giữ vai tṛ tổ chức
hay có tư tưởng quyết định. Trong tất cả
mọi điều luôn luôn chỉ có con người cá nhân,
một người mà thôi.” V́ thế, Hitler chủ
trương để những cá nhân biết suy nghĩ và
có tư tưởng lên trên quần chúng, tức là quần
chúng phải nhờ vào các cá nhân biết suy nghĩ và có
tư tưởng để thăng tiến.
Hitler c̣n nói rơ là: “Trong khi tất cả
văn hóa nhân loại chỉ thuần túy là công tŕnh của
những hoạt động sáng tạo cá nhân, th́ ở mọi
nơi, đặc biệt là trong vai tṛ lănh đạo cao nhất
của cộng đồng quốc gia, nguyên tắc giá trị
của khối đa số tỏ ra nắm vai tṛ quyết
định. Từ cái vị thế quyết định
này đa số đă đầu độc đời sống.
Điều này có nghĩa là trong thực tế nó phá hủy
đời sống.” Hitler
đi đến kết luận rằng: “Không cần quyết
định của đa số, chỉ có những cá nhân có
trách nhiệm quyết định mà thôi. Danh từ 'hội đồng' phải trả
về nghĩa nguyên thủy của nó. Chắc chắn rằng
mỗi người lănh đạo phải có những cố
vấn ở bên, nhưng quyết định phải do một
người chịu trách nhiệm. Và trách nhiệm, tuy nhiên,
chỉ có thể do một người có, v́ thế chỉ
có người này mà thôi mới có tư thế và thẩm
quyền chỉ huy.” Hitler c̣n nhấn mạnh: “Nếu hai
người được ưu đăi đồng đều
để tranh đua với nhau, người chiến thắng
sẽ là người có tài lănh đạo bằng tất cả
trí năng và những tài năng tột đỉnh của
anh ta.”
Chính v́ có những tư tưởng
độc tài độc đoán cho là những quyết
định phải do một cá nhân chịu trách nhiệm
nên khi lên nắm chính quyền, Hitler mới ra lệnh giải
tán chế độ đại nghị tức là cơ quan
quốc hội. Kết quả là thế giới loạn lạc
và chủ nghĩa Phát Xít ra đời. Phát Xít là một chủ
nghĩa độc tài, chuyên chế, và độc đảng
ngự trị do Mussolini thành lập ở Ư vào năm 1919
để chống lại chủ nghĩa xă hội và chủ
nghĩa Cộng Sản.Và sau đó được chính phủ
Ư áp dụng từ năm 1922 đến 1943. Những nguyên
tắc của chủ nghĩa Phát Xít đă được
Adolf Hitler và đảng Đức Quốc Xă (Nazi Party) thừa
nhận và đưa thêm vào chủ nghĩa này tư tưởng
chủng tộc siêu việt mang đầy tính cách kỳ thị
các dân tộc khác. Các nước theo chủ nghĩa Phát Xít
vào thập niên 1920 gồm Italy (Ư) do Mussolini đứng
đầu, Germany (Đức) do Hitler lănh đạo, và
Spain (Tây Ban Nha) do Franco chỉ huy.
Điểm chính yếu của Phát
Xít khác với Cộng Sản là Phát Xít do một cá nhân ở
địa vị độc tôn lănh đạo, theo chủ
nghĩa quốc gia quá khích, và không có chuyên chính vô sản.
Hitler và các nhà Phát Xít khác quả là
thông minh, nhưng họ không lương thiện mà lại
Phát Xít nên mới gây thảm họa cho nhân loại trong Thế
Chiến Thứ Hai và dân Do Thái mới bị tiêu diệt lúc
bấy giờ. Chỉ những ai có sự thông minh và có con
tâm ngay chánh lương thiệm mới giúp ích nhân loại
thăng tiến được, điển h́nh là đức
Phật Thích Ca, đức Huỳnh Phú Sổ (Đức Thầy,
Huỳnh Giáo Chủ), đức Chúa Jesus, và các vị giáo chủ
các tôn giáo khác đều ở trong trường hợp này.
V. Lời Hay Ư Đẹp Về Trí
Thông Minh
1. Thomas Fuller, trong tác phẩm
Ngomologia, 1932, có viết: “Một đầu óc tốt th́ có
giá trị hơn một trăm cánh tay khỏe mạnh.”
2. Lời của Samuel Johnson,
được trích đăng trong tác phẩm Life of Samuel
Johnson của Boswell, April 29, 1778: “Đầu óc minh mẫn,
khỏe, và chân thành là đầu óc có thể thâu nhận một
cách cân bằng cả những điều vĩ đại
lẫn những điều nhỏ nhặt.”
3. Marya Mannes, trong tác phẩm More in
Anger, đă viết: "Cái dấu hiệu của những
người thông minh là khả năng của họ kiểm
soát được cảm xúc bằng cách vận dụng lẽ
phải.”
4. Lewis Mumford, trong tác phẩm Findings and Keepings, Analects for an
Autobiography , 1975 đă viết: “Một người có thể
làm bất cứ cái ǵ với óc thông minh của ḿnh trừ
việc họ t́m hiểu một con người khác. Điều
này đă làm họ tự hào với trí thông minh.”
5. George Santayana, trong tác phẩm
Little Essays, 1920, đă viết:
"Trí thông minh là sự nhanh ư nhận ra bản chất
sự vật.”
6. Thành ngữ của sắc dân
Yiddish, thuộc Indo-European, Châu Âu có câu: "Nhiều người
hay than phiền về bề ngoài của ḿnh, nhưng không
có ai chịu nhận ḿnh là ngu ngốc.”
VI. Kết Luận
Sự thông minh của con người
do nhiều yếu tố cấu thành. Yếu tố chính là
di truyền. Các yếu tố khác cũng không kém phần
quan trọng là môi trường sống, văn hóa, dinh
dưỡng, y tế vệ sinh, và giáo dục. Con người
có thể thông minh về các mặt khác nhau. Người
thông minh về toán, kẻ thông minh về văn
chương, người ấy thông minh về khoa học,
người này giỏi về thể thao, và người kia khéo về cơ
khí, v.v. Cũng có người thông minh về nhiều thứ,
nhưng rất hiếm.
Sự thành công và hạnh phúc ở
đời chưa hẳn do sự thông minh tạo ra. Hạnh
phúc và thành công có được không phải chỉ nhờ
ở trí thông minh mà c̣n phải nhờ có ḷng kiên nhẫn, có
chí, có gan, và làm chủ được đời ḿnh cùng
công việc của ḿnh. Người xưa nói “có chí làm quan,
có gan làm giàu” là vậy.
Những khám phá mới về thông
minh đă nói ở trên, ngoài sự khám phá của Giáo Sư
Rushton và Bà Gillian Turner, thực ra không có ǵ mới mẻ.
Điều đặc biệt ở đây là người
ta phân chia ra những loại thông minh đă có sẵn mà
thôi.
Có người cho rằng “cảm
xúc” là thước đo đích thực của trí thông minh
con người. Trong thực tế, cảm xúc là yếu tố góp phần
vào sự thành công nếu chúng ta biết điều ḥa cảm
xúc đúng cách. Nó không hẳn là thước đo thông minh,
v́ cảm xúc cũng giống thông minh có thể nhờ giáo dục,
môi trường sống, và di truyền mà có. Thực tế
cho ta thấy nếu cha mẹ nóng nẩy, họ sẽ tạo
ra các con nóng nẩy và bạo động. Cảm xúc có tác dụng
làm trí thông minh sáng thêm hay tối đi mà thôi. Cổ nhân có
nói: “Giận lên là phát cơn điên, kẻ khôn hóa dại,
người hiền hóa ngu.”
Cảm xúc là một cảm nhận
có được do ngoại vật khích thích. Người
ta biết điều ḥa cảm xúc th́ tất nhiên có trí tuệ
minh mẫn. Tránh được tham sân si cám dỗ th́ bát nhă
sẽ sáng ngời, do đó người ta sẽ thấu
được mọi lẽ, tức là đạt tới
tŕnh độ đại trí huệ. Hơn nữa, cảm xúc thuộc
về khía cạnh t́nh cảm của con người. T́nh cảm
lại là một trong bốn phần trọng yếu của
đời sống chúng ta. Bốn phần đó là trí tuệ,
thể chất, t́nh cảm, và xă hội. Bốn phần này phải
được giáo dục song song và đồng đều
để phát triển ngơ hầu tạo thành một con
người toàn diện.
Đời sống con người
không thể thiếu một trong bốn mặt chính này.
Chúng có ảnh hưởng hỗ tương với nhau.
Trí tuệ minh mẫn sẽ giúp cho cơ thể, xă hội,
và cảm xúc phát triển tốt đẹp. Thể chất
mạnh khỏe sẽ giúp cho trí tuệ minh mẫn, xă hội
tiến bộ, và cảm xúc thăng hoa. Cảm xúc điều độ sẽ
giúp cho cơ thể khỏe mạnh, trí tuệ minh mẫn,
và xă hội yên vui. Xă hội
văn minh sẽ giúp cho trí tuệ phát triển, cơ thể
khỏe mạnh, và cảm xúc vui tươi. Nếu được phát triển
song song và đồng đều về bốn mặt này,
con người sẽ có cuộc sống an vui thịnh
vượng thái ḥa.
Có một điều thật mới
lạ màhầu hết mọi người đều cảm
thấy ngạc nhiên và thích thú là khám phá của Giáo sư
Philippe Rushton và Bà Gillian Turner như đă tŕnh bày ở trên.
Giáo Sư Rushton quả quyết
rằng người da vàng thông minh hơn người da trắng,
và người da trắng thông minh hơn người da
đen. Bà Gillian Turner chắc chắn rằng con trai chỉ
nhận sự di truyền thông minh từ người mẹ
và con gái nhận di truyền thông minh của cả cha lẫn
mẹ. Dựa vào thực tế và kinh nghiệm, ta thấy
Giáo Sư Rushton có lư. Quả thật người Việt
chúng ta thông minh và tôn trọng pháp luật. Suốt trong 15 làm
việc với chính phủ tỉnh bang Ontario, kẻ viết
bài này hết sức đồng ư và thán phục Giáo Sư
Rushton đă có lư và can đảm nói lên sự thật.
Thật hết sức may mắn
cho nhà trường, gia đ́nh, và xă hội là những
điều tŕnh bày ở trên liên quan đến trí thông minh
đă và đang đóng góp tích cực vào việc giáo dục
con em. Nhờ những khám phá mới này mà các nhà giáo dục,
các bậc phụ huynh, và các nhà xă hội t́m ra phương
pháp giáo dục mới để giúp con em chúng ta học tập
có kết quả, nhớ được dễ dàng, và thích
thú học tập. Có như thế con em chúng ta sẽ trở
thành những người con ngoan và công dân tốt giúp ích cho
đất nước cùng nhân
loại. Ngoài ra, những nhà giáo dục và các nhà nghiên cứu
chân chính đều tin rằng ngay khi trẻ c̣n ở trên ghế
nhà trường, thầy cô và phụ huynh phải nhấn mạnh
cho trẻ hiểu: thông minh là điều kiện cần
nhưng chưa đủ để thành công và giúp ích cho
nhân quần xă hội. Muốn thành công và giúp ích cho nhân loại,
ngoài trí thông minh, người ta phải có tinh thần nhân bản,
dân chủ, hợp tác, công bằng, lương thiện, và
t́nh nguyện phục vụ cho
nhân loại.
Các Bạn Trẻ Cần Biết về
T́nh Trạng Trí Tuệ Khi Con Người
tới Tuổi Về Già
Chúng ta thường thấy có một
số các cụ vào khoảng tuổi từ 60 trở lên
đă có tính lẫn lộn, nhớ sai hay không nhớ
được tên của con cháu và bạn bè, nói đi nói lại
những điều đă nói mà tưởng như chưa
nói bao giờ, và nói lẩm bẩm khi ở một ḿnh. Trong
trường hợp nặng hơn, người ta mắc
phải bệnh mất trí nhớ (alzheimer disease). Tuy nhiên,
quư cụ không nên tự cho ḿnh là đú lẫn hay suy thoái trí
nhớ khi không nhớ ra tên một người mà ḿnh đă
gặp hay nói chuyện với họ. Lư do là khi ta giao thiệp
với nhiều người th́ không thể nhớ hết
tên những người mà ḿnh đă gặp. Đây là lẽ
thường t́nh. Ngoài ra, có những người làm ta không
thể quên tên họ được trong khi đó lại có
hạng người làm ta rất dễ quên tên của họ.
Lư do chính là những bậc tài giỏi và nổi tiếng
th́ lẽ dĩ nhiên ta không bao giờ quên tên họ
được, c̣n như những hạng người
không có ǵ đáng để ta phải chú ư th́ tự họ
đă làm cho ta khó nhớ tên của họ rồi chứ
không phải v́ ta đú lẫn đâu.
Nếu t́nh trạng “đú lẫn,”
“lẩm cẩm,” hay mất trí nhớ xảy ra lúc về
già th́ con người quả là một gánh nặng cho gia
đ́nh và xă hội. Hậu quả là chuỗi ngày cuối
cùng của cuộc đời họ sẽ vất vưởng
vô cùng. Trái lại, chúng ta cũng thấy có những người
già bẩy tám chín mươi tuổi mà vẫn c̣n minh mẫn,
vẫn tham gia công việc cộng đồng xă hội một
cách có hiệu quả, và vẫn điều khiển
được guồng máy quốc gia một cách sáng suốt.
Cuộc đời của các cụ này thật là có ư nghĩa
v́ các cụ không những không làm phiền ai mà c̣n giúp ích tích
cực cho gia đ́nh và cộng đồng xă hội.
Chúng tôi có cái may mắn được
biết rất nhiều quư cụ trong cộng đồng
người Việt hải ngoại hiện đang ở
trong t́nh trạng tốt đẹp trên. Có người
đặt câu hỏi là những điều kiện nào
đă giúp quư cụ có được tuổi về già hữu
ích như vậy? Để trả
lời câu hỏi này, xin quí vị xem kết quả của
cuộc khảo cứu về đời sống các cụ
được tŕnh bày dưới đây. Kết quả của
cuộc khảo cứu này rất quan trọng đối với
các bạn trẻ. Nếu biết
rơ những yếu tố giữ
vai tṛ quyết định về t́nh trạng khả
năng trí tuệ của quư cụ, các bạn trẻ sẽ
tránh được t́nh trạng mất khả năng trí
tuệ khi về già.
Kết quả của cuộc khảo
cứu t́nh trạng sức khỏe của các cụ cao niên
đă được đăng trên báo Psychology And Aging,
4/1996. Cuộc khảo cứu này t́m ra những yếu tố
giữ vai tṛ quyết định về t́nh trạng khả
năng trí tuệ của quư cụ. Đó là các yếu tố
về giáo dục, khả năng của buồng phổi,
có tập thể dục cùng sinh hoạt chăm chỉ hay
không, và có làm chủ được ḿnh hay không. Trong cuộc
khảo cứu này, các nhà nghiên cứu thuộc những
trường đại học Duke, Harvard, và Yale ở Hoa Kỳ đă khảo cứu t́nh trạng
sức khẻo của hơn 1200 các cụ, tuổi từ
70 đến 79, trong thời gian hai năm rưỡi, liên
quan đến các mặt thể chất, tâm lư, xă hội,
và nếp sống. Muốn t́m đọc báo Psychology And
Aging, số tháng 4, 1996, các bạn
phải hỏi ở thư viện của một trường
đại học mới có. Thư viện công cộng hay
các nhà sách không có báo này. Các nhà nghiên cứu đă t́m thấy
những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng tới t́nh trạng khả năng trí
tuệ của quư cụ như sau:
- Yếu tố thứ nhất là vốn
liếng giáo dục mà các cụ đă có. Càng có kiến
văn và có giáo dục, các cụ càng tinh tường khang kiện.
- Yếu tố thứ hai là khả
năng hít thở của buồng phổi. Phổi càng khoẻ,
các cụ càng minh mẫn, có tiếng nói sang sảng, và có nhận
thức bén nhạy.
- Yếu tố thứ ba là sinh hoạt
hàng ngày. Càng tập thể dục đều đặn và
có các sinh hoạt như cắt cỏ, xúc tuyết, làm
vườn (trồng cây, chơi cảnh, nuôi cá, chim...), và
nhất là tham gia các công việc xă hội, các cụ càng minh
mẫn và phán đoán sáng suốt.
- Yếu tố cuối cùng là việc
làm chủ được cuộc sống và tương lai
của ḿnh. Nếu người ta biết được
ḿnh có thể làm chủ được điều tốt
cũng như điều xấu trong cuộc sống, họ
sẽ cảm thấy hạnh phúc, thành công, và có ích cho tha
nhân. Có được như thế th́ khi về già họ
không bị suy kém về tinh thần và thể chất. Chỉ nguyên yếu tố làm chủ
được cuộc sống của ḿnh đă là một
điều tuyệt diệu. Điều này thật
đúng với hạnh “bát nhă,” tức là “tri huệ” của
nhà Phật. Đây là một công tŕnh nghiên cứu rất có
ích lợi cho các thế hệ tương lai.
Muốn có một cuộc sống ư
nghĩa lúc về già, ngay từ khi c̣n trẻ, chúng ta phải
cố công theo đuổi việc học cho đến
nơi đến chốn, siêng
năng tập thể thao thể dục hằng ngày, ăn
uống đầy đủ chất bổ, giữ vệ
sinh đúng cách để tránh bệnh tật, hít thở có phương pháp để giữ
cho buồng phổi tốt đẹp, và cố gắng
thường xuyên để có những sinh hoạt có ư nghĩa
ở trong gia đ́nh cũng như ở ngoài cộng đồng
xă hội.
Điều quan trọng sau hết
là các bạn trẻ phải cố t́m cách làm chủ
được cuộc sống bằng cách tự tu tự
luyện để hiểu ḿnh (người có trí) , yêu ḿnh
(người có nhân), và biết được bổn tâm
cùng nhận được bổn tánh của ḿnh. Bất cứ
ở không gian và thời gian nào, nếu ta cố công phá vỡ
màn vô minh và khai mở trí cho sáng suốt, ta sẽ đạt
được hạnh “bát nhă,” biết được bổn
tâm, và nhận thấy bổn tánh để "chuyển mê khải ngộ"
nhiên hậu thành Phật hầu tế độ chúng sanh.
Đó là ư nghĩa của việc tự giác giác tha vậy. Hiểu ḿnh và yêu ḿnh, ta là người
có trí và có nhân. Nhờ thế, ta mới hiểu người
và yêu người nhiên hậu ta mới có thể làm cho
người hiểu ta và yêu ta. Có hiểu ḿnh và yêu ḿnh, ta mới
biết tự trọng, có liêm sỉ, mới giúp cho trí tuệ
được minh mẫn, phân biệt được
điều nào là chính nghĩa hay không, và mới hiểu thấu
hết mọi lẽ để đạt tới tŕnh
độ “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất
hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập
nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục
bất du củ.” Có làm chủ
được cuộc sống của ḿnh, chúng ta mới có thể giúp ích cho ḿnh, cho
gia đ́nh, cho quốc gia, và cho nhân loại một cách hoàn hảo
để góp công vào việc giải
thể chế độ Cộng Sản nơi quê nhà hầu
đem lại tự do dân chủ cùng nhân quyền cho toàn
dân. Kết quả là cuộc sống về già của chúng
ta mới có ư nghĩa trọn vẹn.
Khả Năng Nhận Thức và Thực
Hành ở Lứa Tuổi 30,
40, 50, 60, và 70
I. Kinh Nghiệm Thành Đạt của
Cuộc Đời Đức KhổngTử
Khổng Tử đă kể lại
các giai đoạn thành đạt của cuộc đời
ngài như sau: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam
thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ
thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận,
và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ”
(Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên chú vào việc
học, ba mươi tuổi mới tự lập, bốn
mươi tuổi mới thấu hiểu hết sự lư
trong thiên hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh
trời, sáu mươi tuổi mới có kiến thức và
kinh nghiệm hoàn hảo để có thể phán đoán ngay
được mọi sự lư và nhân vật mà không thấy
có điều ǵ chướng ngại khi nghe được,
và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những
điều đúng theo ư muốn của ḷng ḿnh mà không ra
ngoài khuôn khổ đạo lư).
Trong lời phát biểu trên, Đức
Khổng Tử có ư nói rằng con người tới một
lứa tuổi nào đó mới có khả năng nhận thức
và thực hành những điều
mà người chưa đạt đến lứa tuổi
đó th́ chưa nhận thức và thực hành được.
Để giúp các bạn trẻ hiểu rơ trọn vẹn ư
nghĩa lời phát biểu của Khổng Tử trên
đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời
phát biểu này.
1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu
Học
Trong câu “ngô thập hữu ngũ
nhi chí vu học,” chúng tôi thấy có mấy chữ cần phải được giải
thích để giúp các bạn trẻ hiểu cho rơ. Chữ “ hữu” có nghĩa là “thêm” (thập
hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15), chữ
“chí” có nghĩa là "để hết tâm ư," và chữ
“vu” có nghĩa là “đối với.” Cả câu “ngô thập hữu ngũ
nhi chí vu học” có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới
có thể tự ḿnh chuyên tâm vào việc học. Có biết
như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn phiền
khi thấy các con ḿnh mải chơi đùa và không chịu
chuyên tâm học hành trước khi chúng chưa tới lứa
tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các bậc cha mẹ mới
đem hết kiên nhẫn, kỹ năng, và nghệ thuật
để chăm nom săn sóc cho các con ḿnh ngay từ khi
chúng c̣n nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành
công trong việc học.
2- Tam Thập Nhi Lập
“Tam thập nhi lập” có nghĩa là
khi người ta tới 30 tuổi th́ sức tự lập
mới có thể chắc chắn và vững vàng. Thực vậy,
khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự
lập và gây dựng nên sự nghiệp cho ḿnh với
điều kiện là họ phải có chí tự lập cũng
như được cha mẹ săn sóc và giáo dục chu
đáo. Chí tự lập của
con người giữ vai tṛ quyết định trong việc tự lập. Trong thực tế đă có nhiều
người tự lập từ trước lứa tuổi
30 và cũng có người không tự lập được
ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường hợp
của những người có chí tự lập hay
không. Nếu không có chí tự lập
th́ dù cha mẹ có săn sóc và giáo dục cũng vẫn không
tự lập được. Họ là những người
ăn bám gia đ́nh và xă hội.
3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc
“Tứ thập nhi bất hoặc”
có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có
thể hiểu thấu mọi sự lư trong thiên hạ,
phân biệt được việc phải hay trái cũng
như hiểu được ai là người tốt hay xấu,
phân biệt được những ai là người chân
chính yêu nước thương ṇi và những kẻ nào là bọn
Cộng nô dù chúng có đội lốt người Việt
Quốc Gia chống Cộng, và biết được cái
ǵ nên làm hay không. Không phải
người nào ở cái tuổi 40 cũng được
như vậy. Muốn đạt tới tŕnh độ
“nhi bất hoặt,” con người phải được
giáo dục kỹ lưỡng và tự ḿnh cố công học
hỏi chuyên cần ngay từ khi c̣n nhỏ.
4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên Mệnh
“Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”
có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có
thể thông suốt chân lư của tạo hóa, tức là hiểu
được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới
50 tuổi là đạt được tŕnh độ “tri
thiện mệnh.” Muốn đạt được tŕnh
độ “tri thiên mệnh,” con người cũng phải
có căn bản vững vàng về giáo dục, kiến
văn, và kinh nghiệm sống.
5- Lục Thập Nhi Nhĩ Thuận
“Lục thập nhi nhĩ thuận”
có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi th́ mới
đạt đến mức độ hoàn hảo về mặt
tri hành, kiến văn, và kinh nghiệm về cuộc sống.
Nhờ đó, người ta có thể nhận xét và phán
đoán được ngay tức khắc và chính xác về
các sự kiện và nhân vật trong thiên hạ. Khi nh́n hay
nghe thấy điều ǵ, người ta không những không
cảm thấy chướng ngại mà c̣n hiểu thấu
ngay mọi lẽ. Không phải tự nhiên mà ta đạt
được tŕnh độ “nhi nhĩ thuận.” Muốn
đạt được tŕnh độ này, con người
cũng phải có căn bản giáo dục, đạo
đức, kiến văn, và kinh nghiệm từng trải
về sự đời.
6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở
Dục Bất Du Củ
“Thất thập nhi tùng tâm sở dục
bất du củ” có nghĩa là
tới 70 tuổi, con người sẽ đạt
đến t́nh trạng rất hoàn hảo về cách xử
sự và xử thế. Nhờ đó mà mỗi khi người
ta định nói điều ǵ hay làm việc ǵ th́ tự
nhiên thể hiện đúng với chủ tâm của ḷng
ḿnh, muốn sao được vậy, và không bao giờ
vượt ra khỏi khuôn khổ của đạo lư hay lẽ
thường. Đây là tŕnh độ tuyệt hảo của
con người ở vào tuổi từ 70 mươi trở
lên nếu trước đó họ được giáo dục
đúng cách, tự t́m ṭi học hỏi, có kiến văn quảng
bác, có tu tâm dưỡng tánh, và đă từng trải cũng
như rút được ưu khuyết điểm trong
các kinh nghiệm về nỗi ê chề đớn đau của
cuộc đời.
Tuy rằng
Khổng Tử đă tŕnh bày về những lứa tuổi
cuộc đời cụ thể của ngài như đă
nói ở trên, chúng ta phải hiểu rằng đây cũng
là ư của ngài muốn nói về từng giai đoạn tác
thành của các lứa tuổi cuộc đời con người. Muốn đạt tới khả
năng nhận thức và thực hành ở mỗi lứa
tuổi như đă đề cập ở trên, người
ta phải được giáo dục và tự ḿnh chuyên tâm
vào việc học hỏi liên tục ngay từ khi c̣n trẻ,
tức là từ trước khi tới lứa tuổi 15 và
tiếp tục cho tới 70 tuổi, để trau giồi
kiến văn, đạo đức, và rút tiả kinh nghiệm
trong cuộc sống hàng ngày.
Mỗi lứa tuổi 15, 30, 40, 50,
60, và 70 thể hiện kết quả của việc giáo dục
trong gia đ́nh và học đường cùng kiến văn
có được qua sự học hỏi ở trường
đời. Nếu không được giáo dục đúng
cách và nếu không biết tự tu tâm dưỡng tánh, tự
trau giồi kiến văn cho hoàn hảo, và tự rút tỉa
kinh nghiệm trường đời th́ con người giống
như “ông b́nh vôi,” càng sống
lâu càng ngu và càng làm hại dân hại nước dù rằng
có bằng cấp cao đến thế nào đi nữa.
Có tuổi là một việc. Nếu
không được giáo dục đúng cách và không tự trau
giồi kiến văn cùng kinh
nghiệm sống th́ dù tới 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi,
60 tuổi, và 70 tuổi đi nữa, người ta cũng
không có sức tự lập, không hiểu hết sự lư,
không biết được mệnh trời, không thông suốt
mọi lẽ, và không thể làm chủ được hành
động và tư tưởng của ḿnh nhiên hậu sẽ
vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lư. Việc quan trọng nhất là nếu
đă tới 30 tuổi mà không tự lập được
vững vàng, ta sẽ gặp
nhiều gian truân chứ đừng nói chi đến việc
có thể giúp ḿnh và giúp đời một cách có hiệu quả
được.
II. Việc Học và Trau Giồi Kiến
Văn
1. Học Kinh Nghiệm Của
Người
Muốn lập thân cho đúng nghĩa
của nó, các bạn trẻ phải chú tâm vào việc học.
Học không phải có nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp
sách đến trường và đọc nhiều sách vở
để biết chữ nghĩa hay học được
một nghề để kiếm nhiều tiền hầu
vinh thân ph́ gia là đủ. Việc học phải gồm
đủ mọi mặt và nhiều cách.
Mục
đích của việc học là để thành con người
với đúng nghĩa của nó, tức là con người
hoàn hảo, có đạo đức, và hữu dụng cho
nhà cho nước. Học là noi gương sáng của tiền
nhân và các bậc vĩ nhân quân tử, tức là bắt
chước những việc làm ích quốc lợi dân mà các
bậc tiền nhân đă làm. Ngoài ra, chúng ta cũng cần
phải bắt chước những việc làm của các
người đồng thời với ta khi việc làm của
họ có ư nghĩa và đáng cho ta học hỏi và noi theo
để giúp nhân độ thế.
Cần phải giao thiệp rộng
và lăn lộn với đời để học kinh
nghiệm sống và trau giồi kiến văn cho quảng
bác. Học để phân biệt được điều
phải điều trái. Thấy điều tốt điều
phải, ta phải bắt chước. Thấy điều
sai quấy, ta phải tránh. Người khôn là người
biết học kinh nghiệm của người khác,
người dại là người chỉ biết học
kinh nghiệm của chính ḿnh.
2. Học Một Biết Mười
Từ những hiểu biết
căn bản của việc học có được tại
học đường và trong gia đ́nh, ta có thể nghiên
cứu thêm và nhiên hậu phát minh ra những điều mới.
Làm sao học một để biết mười, tức
là học cách t́m ṭi nghiên cứu, suy diễn, nhận xét, và
phê phán. Không nên quá tin vào sách vở v́ sách vở cũng có nhiều
cái sai trái trong đó. Người xưa có nói “Tận tín
ư thư bất như vô thư,” tức là quá tin vào sách
thà đừng có sách c̣n hơn. Điều này là để
cảnh cáo những người thuộc loại mọt
sách. Đọc sách mà không chịu
phân tích và nhận xét th́ chỉ có hại mà thôi. Thậm chí
có người c̣n cho là những ǵ cổ nhân viết ra
để lại cho hậu thế chỉ là những
"tao phách" (cặn bă) mà thôi. Những người biết
cách học hỏi th́ phải coi những "tao phách"
này như là một tài liệu để nghiên cứu thêm mà
thôi chứ không có thể nào hoàn toàn tin vào đó được.
3. Học phải Hành
Những điều ǵ học
được phải đem thực hành để giúp ích
cho đời. Biết mà để đó cũng giống
như không biết và cái biết đó là một điều
vô ích. Biết điều phải mà không làm th́ cái biết
đó chẳng có ích ǵ cho nhân quần xă hội. Hơn nữa,
khi ta học được điều hay mà không đem ra
phổ biến và thực hành th́ cái học của ta cũng
mai một đi. Chính v́ thế mà việc học ở các
nước tân tiến đều đi từ kiến thức
tới thí nghiệm, trắc nghiệm, áp dụng, rồi
thi hành, và cuối cùng lượng giá cùng rút ưu khuyết
điểm để cải tiến hầu giúp ích cho
đời sống con người tốt đẹp
hơn.
4. Học để Làm Người
Đây là cái học quan trọng nhất.
Cái học của Á Đông chúng ta chú trọng tới việc
xây dựng con người toàn diện về kiến thức
cũng như về đạo đức. Cái học của
Tây Âu chú trọng về mặt chuyên môn để đào tạo
các chuyên gia hơn là đào tạo con người. Tuổi trẻ Việt Nam ở hải
ngoại đă có lơi cốt của cái học Á Đông
ta, nay lại được học
thêm cái tinh tuư về khoa học kỹ thuật Tây Âu th́ thật
là điều tuyệt diệu. Học để có kiến
thức và chuyên môn cao th́ dễ, nhưng muốn học
để làm người, con người toàn diện, th́ rất
khó. Chính v́ thế mà các bạn trẻ cần phải chú ư
các mặt sau để việc học của ta thêm hoàn hảo:
- Ở trong Gia Đ́nh Phải Học
sao để Làm Người Con Hiếu Thảo. “Hiếu
Thảo” là rường mối của mọi nết ăn
ở trên đời. Cha mẹ là người sinh ra ḿnh,
săn sóc và nuôi nấng ḿnh rất vất vả, và c̣n lo
giáo dục cho ḿnh nên người tử tế nữa. Công
đức ấy kể sao cho xiết được! Chính v́ thế mà con cái phải biết
kính yêu và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, con cái chỉ cần
thể hiện ḷng biết ơn cha mẹ bằng cách vâng
lời cha mẹ, chăm chỉ học hành, và yêu mến
cha mẹ. Khi lớn lên, con cái thể hiện sự biết
ơn cha mẹ bằng cách hết ḷng phụng dưỡng
mẹ cha, ân cần săn sóc cha mẹ, kính trọng cha mẹ,
và giúp đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến.
Có được như thế th́ con cái mới được
gọi là người con có hiếu và mới được
gọi là người có giáo dục. Làm trái các điều này, ta là
người con bất hiếu.
Con người đă mang tội bất hiếu th́ chắc
chắn họ chỉ là kẻ sâu dân mọt nước.
- Học Sao để Có Đễ
với Anh Chị Em của Ḿnh. “Đễ” có nghĩa là
kính yêu, thương yêu, và ḥa thuận đối với anh
chị em. Nói một cách khác, đối xử tử tế,
hợp đạo lư, và giữ trọn t́nh nghĩa trước
sau với anh chị em đều được gọi là
“đễ.” Có đễ th́ anh chị em mới ḥa, đồng
bào mới thương yêu nhau, và nhiên hậu xă hội mới
thịnh vượng.
- Học sao để Đạt
Được Đức Tính Cẩn Trọng và Chân Thành.
Khi làm việc ǵ và khi tiếp đăi ai, “cẩn trọng” là
điều ta phải chú tâm. Điều này có nghĩa là khi
giao tiếp với tha nhân ta, phải giữ lễ và tôn trọng
ư kiến người. Khi đă nhận làm việc ǵ, ta phải
chú tâm để làm cho bằng được. Khi đă hứa
với ai điều ǵ, ta phải giữ lời và nếu
v́ lẽ ǵ không giữ được lời đă hứa,
ta phải thông báo kịp thời để người ta
t́m người khác thay thế.
Đă có người cho là người Việt ḿnh quá
nhiều tự ái và thiếu chân thành. Trong thực tế,
nhận xét này rất đúng. Chính v́ lẽ đó, muốn
thành công và giúp ích cho dân cho nước, ta phải bớt tự
ái và thêm chân thành. Chân thành là nghĩa là duyên, bớt phần
tự ái tạo nên thân t́nh (thơ
Khải Chính). Sự chân thành
phải coi là ṇng cốt v́ có chân thành mới có tín.
Tín là báu vật của cả nhân loại.
Không có tín, con người sẽ biến thành kẻ bất
lương và là hạng sâu dân mọt nước. Khi làm việc,
ta phải cẩn trọng và chân thành, tức là có tín, th́ mọi
việc sẽ thành công. Muốn thế, khi làm một công việc
ǵ, ta phải có kế hoạch thi hành, đôn đốc, và
kiểm soát trong tinh thần cộng tác, khoa học, và dân chủ. Có cẩn trọng và có tín th́ ta mới
có thể làm việc ích quốc lợi dân được. Ở
Bắc Mỹ này nếu ta bị coi là người “no
trust,” tức là kẻ bất tín, th́ không thể nào tiến
thân được và suốt đời phải sống
trong sự khinh khi của người đời.
- Phải Học Sao Có Được
Ḷng Từ Ái Khoan Dung Độ Lượng. Đạo Phật
coi trọng các hạnh “đại từ ,đại bi,
đại hỷ, đại xa.û” Đại từ là ḷng
hiền lành lớn nhằm đem lại niềm vui cho tất
cả chúng sanh, đại bi là ḷng thương xót lớn
nhằm cứu khổ cho tất cả chúng sinh, đại
hỷ là tạo sự vui vẻ với tất cả chúng
sinh, đại xả là đem tất cả mọi sự
vui thích của ḿnh mà thí cho người khác. Đạo Thiên Chúa Giáo coi trọng
đức “bác ái.” Bác ái là yêu
thương tất cả mọi người mọi vật
và giúp ích cho đời, yêu người như yêu ḿnh và yêu cả
kẻ thù. Khổng Giáo coi trọng ḷng “nhân.” Nhân là tính tốt ở
trong ḷng mà trời đă phú sẵn cho ta, đó là cái ḷng tốt
của con người. Ḷng
nhân điều cốt yếu
giúp ta để trở thành con người v́ nếu con
người đă bất nhân th́ không c̣n phải là con
người nữa mà là con vật! Bọn Cộng Sản
thuộc loại này v́ chúg rất bất nhân. Chúng là giống
hồ ly chồn cáo đội lốt người nên chúng
chỉ biết hại người mà thôi. Ngoài ra, Khổng
Tử c̣n nói: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân.” Điều
này có nghĩa là bỏ hết
cái bệnh tư dục của ḿnh là khắc kỷ, hồi
phục được chân lư của trơiø là phục lễ,
đó là nhân. Nói tóm lại, nhân là ḷng thương yêu và kính
trọng người.
Phật giáo, Thiên Chúa giáo, và Khổng
Giáo đều dậy ta tấm ḷng yêu thương tha nhân,
khoan dung độ lượng với mọi người,
và ăn ở phải có ḷng nhân. Ta phải sáng suốt
để gần gũi người có nhân (người Việt
Quốc Gia chân chính) và xa lánh kẻ bất nhân (bọn Cộng
Sản và Cộng nô). Khoan dung
độ lượng có nghĩa là tha thứ và
thương yêu mọi người khi họ vô ư vướng
phải lỗi lầm nhưng không có nghĩa là ta khoan dung
và rộng lượng với những kẻ chủ
trương bất nhân, độc tài, khát máu, hại dân hại
nước như bọn Việt Cộng. Khoan dung và độ
lượng với bọn Việt Cộng là ta đi vào
con đường tự sát.
Ta nên nhớ rằng nếu cùng bất đắc dĩ,
ta phải tiêu diệt những kẻ ngoan cố và không chịu
phục thiện để cứu dân và toàn thể chúng sinh
th́ đó cũng là hành động của vị Bồ Tát vậy.
- Phải Học Sao Để Lập
Chí. Khi muốn làm việc ǵ, ta quyết định làm cho bằng
được, đó là chí. Người xưa thường
nói: “Hữu chí giả, sự cánh thành (người đă có
chí th́ việc chắc phải nên); có chí th́ nên; có chí làm quan,
có gan làm giàu; làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ,
chớ phiền muộn con; làm trai có chí lập thân, rồi
ra gặp hội phong vân có ngày; làm trai quyết chí tang bồng,
sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.” Vậy chí là cái ḷng muốn làm và
quyết định làm một việc ǵ cho đến
thành công mới thôi. Ta phải học tập làm sao để
thực hiện được “ḷng muốn và quyết
định” này mỗi khi ta bắt tay vào làm một công việc
ǵ. Có như thế th́ mọi việc ta theo đuổi mới
thành công tốt đẹp.
Khi đă có hiếu, đễ, cẩn
trọng, chân thành, từ ái, khoan dung độ lượng,
và lập được chí th́ cái học của ta mới
toàn vẹn. Tuy nhiên, cuộc đời vẫn có nhiều
ngoại lệ, nhất là ở thời nay. Hoàn cảnh và
ḍng giống cũng có ảnh hưởng đến sự
hiểu biết và sự lập nghiệp của con người.
Xưa cũng như nay, vẫn có người lập nghiệp
và tự lập được ở cái tuổi hai
mươi và có người c̣n sớm hơn nữa. Tuy
nhiên, vẫn có nhiều người ở ngoài cái tuổi
30 mà vẫn không lập nghiệp và tự lập được.
Cùng một tŕnh độ học vấn
mà ở mỗi tuổi người ta hiểu sự vật
một khác. Cùng một tác phẩm mà mỗi lần đọc
lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và
sự học hỏi giúp ta hiểu đời càng ngày càng kỹ
hơn. Chính v́ thế mà đến
tuổi 60, nếu đă có kiến văn và kinh nghiệm vững
vàng th́ mỗi khi thấy sự việc ǵ dù trái hay phải,
dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, ta cũng không lấy
ǵ làm ngạc nhiên. Bởi thế
cái tuổi 60 mươi mới được gọi là tuổi
“nhi nhĩ thuận.” Đến
tuổi 70, nếu ta có kiến văn quảng bác, kinh nghiệm
chín chắn, và sở học uyên thâm th́ mọi việc ta
suy nghĩ, phát biểi, hay làm đều theo dúng với
lương tâm cùng khuôn khổ của đạo lư. Bởi
thế cái tuổi 70 mới
được gọi là tuổi “tùng tâm sở dục bất
du củ.”
III. Kết Luận
Không phải cứ có nhiều tuổi
ta mới thông minh tài giỏi. Thông minh có thể do ṇi giống
và sự bẩm sinh mà có. Người xưa thường
cho là “lăo ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ
sinh” (con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng
hoàng mới sinh ra) hay “hậu sinh khả úy” là vậy.. Tuy
nhiên, kiến thức và kinh nghiệm phải do học hỏi
mới thành. Tuổi đời cộng thêm việc học
hỏi và từng trải mới đạt được
các tŕnh độ “tam thập nhi lập, tứ thập nhi
bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục
thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở
dục bất du củ.” Ta cần phải chú tâm vào việc
học ngay từ khi c̣n trẻ và tiếp tục học măi
cho đến già. Việc học
phải bao gồm từ sự bắt chước, trau giồi
kiến thức, nghiên cứu, áp dụng, thực hành, đến
việc học làm người. Ngoài ra, ta phải cố gắng
và có quyết tâm học hỏi th́ mới mong đạt tới
tŕnh độ từ “tam thập nhi lập” đến
“tùng tâm sở dục bất du củ” một cách đúng
nghĩa của nó được.
Vấn Đề Giáo Dục Con Em tại
Bắc Mỹ
I. Đặt Vấn Đề
Nói đến vấn đề giáo
dục con em, có người cho đó là công việc của
thầy giáo hay của nhà trường. Vấn đề
không nhất thiết như vậy. Vấn đề giáo dục
con em là vấn đề chính yếu của các bậc phụ
huynh. Nói đến quan niệm
về giáo dục, một số người cho rằng có
giáo dục tức là có bằng cấp cao, học rộng,
quyền cao chức trọng, hay giầu sang bề thế.
Vấn đề không nhất thiết phải như thế.
Muốn có quan niệm đúng về
giáo dục, chúng ta phải hiểu rằng có những
người chẳng đến trường bao giờ, chẳng
có tí mảnh bằng nào, và cũng chẳng có quyền cao chức
trọng ǵ mà c̣n nghèo khó nữa, nhưng họ vẫn
được ca ngợi là người có giáo dục và là
người Việt Quốc Gia chân chính yêu nước
thương ṇi. Ngược lại, thiếu ǵ những
người được mệnh danh là khoa bảng, có kiến
thức, giầu có, chức nọ quyền kia mà lại bị
chê là thiếu giáo dục và là bọn Cộng nô. Người không có bằng cấp
cao, ít kiến thức, nghèo khó mà thiếu giáo dục c̣n có
thể chấp nhận được. Nhưng, người
có bằng cấp cao, kiến thức rộng, quyền thế,
giầu có mà thiếu giáo dục th́ khủng khiếp vô
cùng. Họ lưu manh và xảo quyệt khôn lường.
II. Thế Nào Gọi Là Có Giáo Dục?
Giáo dục theo đúng nghĩa của
nó là dạy dỗ rèn luyện trí, đức, t́nh cảm,
và cơ thể cho được hoàn mỹ. Giáo dục c̣n
hàm ư giáo dưỡng, tức là một người
được nuôi và được dậy dỗ đến
nơi đến chốn. Ngoài ra, giáo dục c̣n để
chỉ sự tự học hỏi và rèn luyện qua sách vở
và kiến văn, tức là kinh nghiệm lăn lóc với
đời để trau giồi và phát triển đầy
đủ các mặt trí, đức, t́nh cảm, và thể
chất một cách hoàn hảo. Phần giáo dục ở học
đường chỉ là cái khung chứa đựng lư thuyết
và kiến thức. Phần giáo dục trong gia đ́nh và
ngoài xă hội cũng như việc tự ḿnh học hỏi
thêm mới thật là quan trọng. Nói cách khác, giáo dục ở
trường, trong gia đ́nh, ngoài xă hội, và sự cố
gắng tự học của chính ḿnh phải có tác dụng
hỗ tương mới hoàn hảo được.
Giáo dục c̣n có tính cách bẩm sinh,
trời phú cho ai người ấy được hưởng,ï
giống như hoa sen trong bùn vậy. Đă có người được
sinh ra trong một gia đ́nh thiếu sự săn sóc của
mẹ cha, bị cha mẹ cho đi làm con nuôi người
khác, sống trong một xă hội loạn lạc đảo
điên, và va chạm với một thế giới đầy
hận thù kỳ thị, nhưng họ vẫn thành người
có giáo dục một cách hoàn hảo để giúp đời
giúp ḿnh và giúp người. Trường hợp này tuy hiếm,
nhưng trên thực tế vẫn có. Đây là điều
đáng mừng cho nhân loại.
Giáo dục biểu lộ qua cái tâm.
Người xưa thường nói: “Hữu tướng vô
tâm, tướng tùng tâm diệt, hữu tâm vô tướng,
tướng tự tâm sinh.” Điều này có nghĩa là con
người trông có vẻ đẹp đẽ mà ḷng dạ
xấu xa th́ cái bề ngoài đó sẽ bị cái tâm ác độc
và vô giáo dục kia làm hủy hoại đi. C̣n người
có tấm ḷng tốt, tức là có giáo dục, mà h́nh thù xấu,
cái tâm tốt kia sẽ làm họ rạng rỡ ra. Thí dụ
ta gặp một người mà bề ngoài của họ
trông xấu xí, ta thấy không có cảm t́nh, nhưng khi biết
họ là người trọng tín nghĩa, tức là người
có giáo dục, ta thấy họ đẹp hẳn ra và có cảm
t́nh với họ. Ngược lại, khi ta thấy một
người trông bề ngoài thật quí phái, ta rất mến
trọng, nhưng khi biết họ là phường vong ân bội
nghĩa, phản phúc, và phản quốc, tức là loại
vô giáo dục, ta trông họ thấy xấu hẳn đi và
đem ḷng ghét bỏ. Ca dao của
ta cũng diễn tả sự kiện này qua câu: "Quen sợ
dạ, lạ sợ áo."
Muốn biết một ngưới có giáo dục
hay không là ta căn phải cứ ở tư cách và đức
độ con người đó. Người có giáo dục
là người biết cách cư xử sao cho đẹp, lịch
sự, nhă nhặn, hợp t́nh lư, có tín nghĩa, có trung hiếu,
có tiết hạnh, có trách nhiệm, biết lẽ phải
chăng, biết đường tới lui, và có liêm sỉ
cùng sĩ khí. Trong các điều trên, tín nghĩa, trung hiếu,
và tiết hạnh là những điều được tiền
nhân coi trọng nhất v́ người xưa đă nói:
"Tín vi quốc chi bảo" (tín là của báu của cả
nước), "Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên"
(Trong trăm nết tốt của con người th́ hiếu
là trên hết), và "Trai thời trung hiếu làm đầu,
gài thời tiết hạnh làm câu sửa ḿnh (Lục Vân
Tiên).
Nói tóm lại, người có giáo dục
là người con hiếu, học tṛ ngoan, người bạn
hiền và có tín nghĩa, người chồng lo cho gia
đ́nh chu đáo, người vợ hiền, và người
công dân gương mẫu. Người công dân gương mẫu
là người biết trung với nước, làm việc
cần cù chăm chỉ, tuân theo pháp luật, và chí công vô
tư. Nếu người có
giáo dục mà lại có bằng cấp cao, có kiến thức
rộng, có quyền thế, và giầu sang th́ đó là một
điều tuyệt hảo và là một đại hạnh
cho cộng đồng đất nước.
III. Vấn Đề Giáo Dục Con
Em Trong Xă Hội Bắc Mỹ
Vào năm 1971, hồi c̣n dạy ở
trường Cao Đẳng Sư Phạm Saigon, một giáo
sư về môn Tâm Lư Giáo Dục đă từng nói với các
sinh viên của ông với đại ư là học tṛ kém, bỏ
học, hư hỏng là lỗi của thầy cô và nhà
trường. Con cái hư hỏng là do lỗi của cha mẹ,
gia đ́nh, và xă hội. Trẻ em nào cũng có thể giáo dục
được. Con vật c̣n có thể dạy được
huống chi là người ta.
Thế mà măi tới những năm gần đây
người Bắc Mỹ mới chú ư đến vấn
đề nuôi dạy trẻ em một cách khẩn thiết.
Sau đây là một số ư kiến của các vị hằng
quan tâm về việc giáo dục con cái tại Bắc Mỹ
này:
- Ngày 6 tháng 10, 95, Đức Giáo
Hoàng đến làm lễ ở Manhattan's Central Park, New York,
đă phán rằng: “Children have a right to grow up in a family in
which, as far as possible, both parents are present. Fathers of families must
accept their full share of responsibility for the lives and upbringing of their
children. Both parents must spend time with their children.” Ư chính mà Đức
Giáo Hoàng muốn nói là cha mẹ phải chia xẻ trách nhiệm
nuôi con, để thời giờ với con cái, nhất là
người cha phải hoàn toàn chia xẻ trách nhiệm trong
việc nuôi dạy các con.
- Trên tờ The London Free Press, số
ra ngày 5-9-95 và 28-9-95, ông Arnold Rincover
đă nhấn mạnh là “When a child develops problems, the
trouble may be a teacher.” Ông Rincover
muốn nói là học tṛ có vấn đề khó khăn là do
thầy cô gây ra.
- Trên tờ The London Free Press, số
ngày 25-10-95, nhà báo Knight Ridder đă than phiền rằng: “Some
parents won't let children grow up. Even 60-year-olds can be treated as kids by
their elderly parents. But it doesn't have to be that way” (Một số
cha mẹ không để cho các con khôn lớn. Ngay cả khi
các con đă sáu mươi tuổi đầu rồi mà vẫn
bị các bậc cha mẹ già của họ đối xử
như những con nít. Không thể như thế được).
- Trên báo Chatelaine, trong số tháng
9/94, Sidney Katz đă đưa
ra một số giải pháp mới để giáo dục
các trẻ em có vấn đề khó dạy. Ông đặt
câu hỏi là: “Tại sao mà hàng ngàn trẻ em Canada bị
vướng vào cơn lốc bạo động, hung hăn,
chán chường, hay bị ngược đăi về tinh thần
lẫn thể chất?” Sau khi tŕnh bầy các câu trả lời
và đưa ra giải đáp cho vấn đề, ông
đă mượn lời của Dr. Offord để kết
luận rằng: “Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu
để nuôi dạy con cái, nếu có vấn đề khó
khăn, họ phải nhờ cộng đồng giúp đỡ.” Sau đây là một số đề nghị của Dr. Offord:
* Phải hoạch định một
sinh hoạt trước và sau giờ học cho trẻ tham
gia ngay tại địa phương gần nơi chúng ở,
tối thiểu là có vài nơi để chúng chơi
đùa.
* Phải có chương tŕnh t́nh
nguyện theo dơi và giúp đỡ trẻ của những vị
cao niên và những người không có con nhỏ. Nhà trường
giao cho những người thiện nguyện này một
hay vài học sinh tiểu học hay trung học để họ
trông nom, hướng dẫn, và lắng nghe những sự
than văn hay lo âu của trẻ hầu
giúp trẻ cách giải quyết vấn đề và học
hỏi các cách cư xử ngoài xă hội.
* Phải có chương tŕnh giúp
đỡ giữa những học sinh với nhau. Nhà
trường có thể nhờ những em có khả năng ở
trung học giúp các em ở tiểu học hay những trẻ
mới bắt đầu đi học.
* Những công tư sở phải
có chính sách giúp đỡ gia đ́nh. Chẳng hạn như
cho phép công nhân được linh động chọn giờ
làm việc để có th́ giờ phụ giúp gia đ́nh hay
có quyền nghỉ phép hưởng lương khi con cái
đau yếu.
- Trên báo
The London Free Press, số
ra ngày 15-9-95, ông Norman De Bona đă tŕnh bày về việc thành
lập các Hội Đồng Đại Diện Nhà Trường
tại Ontario với nhiệm vụ gồm việc chọn
lựa vị hiệu trưởng, lượng giá việc
giảng dạy, ấn định chương tŕnh giảng
huấn, và mọi sinh hoạt học đường. Mục
đích của hội đồng này cốt để phụ
huynh có cơ hội đóng góp trực tiếp công sức
và quyết định của ḿnh vào việc giáo dục con
em của họ tại nhà trường.
- Theo tin báo The London Free Press, London,
Canada, số ra ngày 31-8-95, vào ngày 30-8-95, ṭa án St. Catharines,
Ontario, Canada, đă ra lệnh bắt 4 người con phải
trợ cấp cho người mẹ già 60 tuổi, bà
Veronica God Win, mỗi tháng một ngàn đô la. Đây là dấu
hiệu mà xă hội Tây phương đă bắt đầu
chú trọng vào phạm vi giáo dục bổn phận của
con cái đối với cha mẹ theo ư nghĩa câu ca dao của
ta “Trẻ cậy cha già cậy con.”
- Trên báo The London Free Press, số ra ngày 8-11-95, cô giáo Stacy Somerville đă nhận định là tuổi
trẻ cần sự giúp đỡ hơn là phê b́nh. Nhà
trường ở đây chưa có phẩm chất giáo dục
tốt. Cô đề nghị chính phủ, các nhà giáo dục,
phụ huynh, và cả học sinh cần phải cùng nhau cộng
tác để giúp học sinh học hỏi.
- Vào này 4-11-95, ông Robert Vaughan, ủy
Viên của Hội Đồng Giáo Dục Thành Phố London,
Ontario, đă khảng định là: “Hăy ngừng ngay việc
chê trách trẻ em, tôi không cần biết chúng thế nào, nếu
chúng được dạy dỗ đúng cách, chúng sẽ học
giỏi.” Điều này có ư nói rằng học tṛ kém là lỗi
tại thầy cô và nhà trường, đúng như lời
của một giáo sư trường Cao Đẳng Sư
Phạm Saigon năm nào đă tuyên bố với các sinh viên của
ông mà chúng tôi đă nói ở trên.
- Vào ngày 4-11-95, cảnh sát thành phố
London đă công bố một cuộc nghiên cứu về việc
tuổi trẻ phạm pháp. Trong cuộc nghiên cứu này
người ta thấy trong 8 tháng đầu năm 1995
đă có 204 thiếu niên phạm pháp, tuổi trung b́nh là 15, trong
đó 76% số thiến niên này là các trẻ sống với
cha mẹ và đă có tiền án. Điều này chứng tỏ
là trẻ hư là do lỗi của cha mẹ và những trẻ
đă phạm pháp rồi th́ rất dễ tái phạm. Ông Cảnh
Sát Trưởng đă đặt câu hỏi là: “Các bậc
cha mẹ có biết con cái của ḿnh đang ở đâu
không?” Câu hỏi thật là giản
dị nhưng nó chứa đựng bao lời giáo huấn
vô cùng giá trị, trong đó ông Cảnh Sát Trưởng ngầm bảo các bậc cha mẹ
là “Hăy trông nom và giáo dục con em của các người cho
chu đáo!”
Hiện nay thiếu niên Canada
đang ở vào t́nh trạng thiếu sự chăm nom
săn sóc của các bậc phụ huynh một cách trầm
trọng. Ngày 30-10-95, ở Sratford và nhiều nơi khác ở
Ontario, người ta đă thành lập các nhóm phụ huynh
để giúp đỡ các bậc cha mẹ có vấn đề
về con cái, tiếng Anh gọi là “The Parents Supporting Parents
Group.” Họ họp hàng tuần với nhau để t́m ra
cách thức đối phó với các trẻ em có vấn
đề khó dạy. Tất cả các phụ huynh đều
ta thán là hệ thống xă hội và luật pháp ở
đây (Canada) đă làm cho cha mẹ bất lực trong việc
giáo dục các trẻ em.
Vấn đề giáo dục thiếu
niên ở Canada đang là vấn đề được
quan tâm hàng đầu của chính quyền, các nhà giáo dục,
phụ huynh, và cộng đồng. Trong lá thư ngày
14-7-2000 gửi cho chúng tôi, bà Bộ Trưởng Giáo Dục
tỉnh bang Ontario, Bà Janet Ecker, đă hỏi ư kiến của
kẻ viết bài này về việc cải tổ giáo dục
tỉnh bang Ontario. Trong thư ngày 16-8-2000 gửi bà Bộ
Trưởng Giáo Dục Janet Ecker, chúng tôi đă phân tích t́nh
trạng giáo dục hiện thời ở tỉnh bang
Ontario và đề nghị một số biện pháp để
cải tổ việc giáo dục con em. Việc đầu
tiên chúng tôi để nghị là phải dạy học sinh
về công dân giáo dục, luân lư giáo dục, và nhất là việc
“tiên học lễ hậu học văn” v́ “lễ” có tác dụng
để ngăn chặn việc vi phạm kỷ luật
và phạm pháp trước khi nó xảy ra. Kỷ luật
hay pháp luật chỉ có tác dụng trừng phạt khi học
sinh hay bất cứ ai đă vị phạm kỷ luật
hay phạm pháp.
IV. Hiện Trạng Giáo Dục Trẻ
Em trong Các Gia Đ́nh Người Việt tại Bắc Mỹ
Hầu hết các bậc phụ
huynh người Việt ở hải ngoại đều
bận lo sinh kế và gặp trở ngại về vấn
đề ngôn ngữ bất đồng nên việc giáo dục
con em của họ ở Bắc Mỹ này gặp rất
nhiều trở ngại. Con cháu th́ nói tiếng Anh hay tiếng
Pháp với cha mẹ và ông bà trong khi ông bà và cha mẹ lại
nói tiếng Việt với các cháu con. Nhiều khi gia
đ́nh gặp cảnh “ông nói gà bà nói vịt,” chẳng ai hiểu
ai. Thêm vào đó, con em lại học theo nếp sống
nơi quê người và được pháp luật cùng xă hội
ở đây bênh vực nên các
bậc phụ huynh cảm thấy ḿnh bất lực trong
việc dạy dỗ con em. Chính v́ thế mà đă có một
số em đang học ở trung học đă bỏ nhà ra
ở riêng và sống nhờ
vào trợ cấp xă hội mà phụ huynh đành phải
bó tay.
Đại đa số các hội
đoàn và tổ chức cộng đồng người Việt
hải ngoại đă cố gắng và thành công rất nhiều
trong việc hỗ trợ gia đ́nh để giúp con em duy
tŕ phong tục và tiếng Việt. Tuy nhiên, trên thực tế,
vẫn có một số hội đoàn, cơ sở tôn giáo,
và một số trường Việt ngữ đă bị bọn Việt cộng
và cộng nô thao túng. Những hiện tượng như cảnh
phá rối, chia phe này nhóm kia, xâu xé nhau, gian lận ngân sách, tẩu
tán công quỹ, và sự gian lận bầu cử xảy ra trong một số các hội
đoàn, tổ chức cộng đồng, và các tổ chức
tôn giáo đă làm suy yếu cộng đồng người
Việt và nêu gương xấu cho con em.
Một số phụ huynh đă phàn
nàn với chúng tôi là có một trường Việt Ngữ
nọ đang dùng tài liệu, băng nhạc, và phim ảnh
của Cộng Sản để dạy trẻ trong khi
đó các sách báo, phim ảnh, băng nhạc, và tài liệu
giáo khoa về việc dạy tiếng Việt của
người Việt hải ngoại đă được
phổ biến rất nhiều tại các tiệm sách và
thư viện công cộng. Trường Việt ngữ này
cũng không dạy học sinh hát bài quốc ca Việt Nam Tự
Do và cũng không cho các học
sinh chào quốc kỳ Việt Nam Tự Do tại nhà trường
trong khi đó th́ các trường công lập tại Ontario,
chính quyền Canada đang đăït vấn đề hát
quốc ca Canada ngay tại các lớp học lên hàng đầu.
Trước đây ở Việt Nam, việc hát quốc ca
của Việt Nam Cộng Ḥa ở nhà trường cũng
được thực hiện rất nghiêm chỉnh.
Cũng có người than phiền
với chúng tôi về việc tuyển dụng các giáo chức
tại một trường Việt ngữ nọ không theo đúng tinh thần tuyển
dụng, tức là không có tiêu chuẩn tuyển dụng rơ
ràng và công khai. Thân ai th́ mời người đó mặc dầu
người này không có tí kiến thức về sư phạm
cũng như kinh nghiệm ǵ về việc dạy học.
Nếu đúng như thế th́ đây là việc làm phản
lại sư phạm, phản giáo dục, và phản lại
nguyên tắc tuyển dụng.
Các ban giảng huấn của
trường Việt ngữ ở hải ngoại phải
tâm niệm rằng chương tŕnh giảng huấn của
các trường Việt ngữ, ngoài việc giúp trẻ học
đọc và học viết tiếng Việt, c̣n phải
giúp trẻ trở thành người con hiếu thảo,
người công dân gương mẫu, và nhất là phải
đạt được mục đích giúp học sinh hiểu
về nguồn gốc Việt của chúng. Trong các lớp
Việt ngữ ở tŕnh độ trung học, nhà trường
phải dùng tài liệu giảng dạy cho trẻ hiểu là tại v́ bọn Việt
Cộng vong bản bán nước cầu vinh, độc
tài khát máu, và đầy ải toàn dân “xuống hàng chó ngựa”
nên người Việt chúng ta phải bỏ nước ra
đi tỵ nạn. Ngoài ra,
nhà trường cũng phải dạy học sinh hiểu
tại sao dân Việt trong nước lại đang bị
bọn Việt Cộng đọa đầy đến nỗi
không c̣n chút tự do, dân chủ, và nhân quyền nào.
Con em ta là tương lai của cộng
đồng và đất nước. Để giúp con em
xây dựng đất nước mai này, chúng ta phải giúp
chúng phát triển về mọi mặt, nhất là việc
giúp cho con em nối chí của các nhà cách mạng chân chính
để tranh đấu cho tự
do dân chủ và nhân quyền của khoảng 80 triệu
đồng bào ở trong nước. Các bậc phụ huynh cần phải
góp ư với ban giảng huấn tại các trường Việt
ngữ ở hải ngoại
để cải tổ chương tŕnh nằm trong mục
đích phục hồi chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc.
Ngoài ra, các thầy cô giáo và phụ huynh phải lấy khẩu hiệu “tiên học
lễ hậu học văn” và “ăn quả nhớ kẻ
trồng cây” làm kim chỉ nam cho mục đích giảng dạy
con em.
V. Kết Luận
Việc giáo dục con em ở hải
ngoại này là một thách đố sinh tử của các bậc
phụ huynh. Trong bài này chúng tôi chỉ có ư đặt các vấn
đề về việc giáo dục con em ở Bắc Mỹ
mà thôi. Trong những bài sau, chúng tôi sẽ tŕnh bày thêm về
hiện trạng giáo dục của các trẻ em Việt tại
Bắc Mỹ và vấn đề làm sao có thể giáo dục
các em có hiệu quả theo chiều hướng yêu con dạy
con nên người trong khi vẫn giữ ǵn gốc Việt.
Hiện Trạng Cuộc Sống
Con Em Việt Nam ở Hải Ngoại
và Nguyên Tắc Giáo Dục
I. Dẫn Nhập
Trong bài trước, chúng tôi đă
đặt vấn đề về giáo dục, tŕnh bày thế
nào là người có giáo dục, và phân tích về vấn
đề hiện nay của việc giáo dục con em
người Việt chúng ta tại Bắc Mỹ hiện
nay. Kỳ này chúng tôi xin nói về
hiện trạng cuộc sống con em Việt tại Bắc
Mỹ và đưa ra một số đề nghị giúp
cho việc giáo dục con em chúng ta một cách có hiệu quả. Những bậc phụ huynh và những
người hằng quan tâm đến việc giáo dục
con em người Việt ở hải ngoại đă
đưa ra các nhận định sau:
- Một
số phụ huynh có thói quen khoán trắng việc giáo dục
con em cho thầy cô và nhà trường nên đă không để
ư đến việc học của chúng.
- Một
số phụ huynh không có đủ tŕnh độ về
ngoại ngữ như Anh
văn hay Pháp văn và thiếu kiến thức về nền
giáo dục cùng nếp sống ở Bắc Mỹ này cho nên
họ gặp nhiều khó khăn trong việc giáo dục
con em cũng như việc theo dơi sự học và các sinh hoạt
của chúng.
- V́ bị
thay đổi môi trường sống, một số phụ
huynh lâm vào địa vị thất
thế trong việc t́m kế sinh nhai ở hải ngoại
nên đă gặp trở ngại rất nhiều trong việc
giáo dục con em. Một số phụ huynh khác lại bị
hoàn cảnh mới làm cho điêu đứng đưa
đến việc gia đ́nh đổ vỡ gây ra thảm
họa cho con cái. Con cái nh́n thấy những tấm
gương xấu của cha mẹ nên đă mất niềm
tin vào người lớn, mất phương hướng
sống, sinh ra buông thả, và vướng vào ṿng tù tội.
- Một số phụ huynh vẫn
c̣n giáo dục con em theo lối độc đoán, bắt
con em phải tuyệt đối nghe theo ư ḿnh muốn, thậm
chí c̣n đánh đập trẻ nên đă gặp trở ngại
về phía luật pháp ở đây. Chính v́ thế mà đă
có nhiều trường hợp con cái bị cơ quan phụ
trách về gia đ́nh và trẻ em tách ra khỏi gia đ́nh của
chúng để đem đi nhờ người khác nuôi.
Trên đây là những nhận xét của
một số phụ huynh và những người hằng
quan tâm đến việc giáo dục con em ở hải ngoại.
Để có thể giáo dục con em một cách tốt
đẹp, chúng ta hăy cùng nhau t́m hiểu hiện trạng cuộc
sống của phụ huynh và con em người Việt
chúng ta ở hải ngoại này ra sao. Có rất nhiều phụ
huynh đă thành công trong việc giáo dục con em, nhưng
trên thực tế, gia đ́nh nào cũng có những vấn
đề khó khăn trong khi giáo dưỡng con em ḿnh. Chữ “trẻ em” hay “con em” được đề
cập đến trong bài này là dành cho những em c̣n sống
tùy thuộc vào phụ huynh để học hành.
II. Hiện Trạng Cuộc Sống
Con Em Việt Ở Bắc Mỹ
Hiện nay một số phụ
huynh Việt Nam đang gặp khó khăn trầm trọng
trong việc giáo dục con em ở Bắc Mỹ này là do các
khó khăn sau:
- Phụ
huynh v́ bận sinh kế, lo cho cuộc sống tiện nghi,
không có th́ giờ chăm sóc con em đến nơi đến
chốn, thậm chí phải đem con em đi gửi ông bà
hay nhà trẻ trông hộ. Như thế, làm sao phụ huynh
có thể chăm sóc con em cho khôn lớn đúng cách
được! Nếu phụ huynh không theo dơi, không chăm
sóc, và không kiểm soát sinh hoạt của con em th́ làm sao giúp
con em tránh được việc vướng vào ṿng tội
lỗi, tù đầy, hay nghiện ngập được!
- Phụ
huynh không thông hiểu rơ nền giáo dục và văn hóa
nơi bản xứ, không thông thạo ngôn ngữ bản xứ,
do đó thiếu sự cộng tác của gia đ́nh với
học đường và phụ huynh không có thể giúp nhà
trường để cùng nhau giáo dục con em cho tốt
đẹp được. Con em càng ngày càng hội nhập
nhanh vào xă hội mới, xa cách phụ huynh về t́nh cảm
và nếp sống. Kết quả là đă có một số
trẻ bỏ nhà ra đi ở riêng ngay khi con trên ghế nhà
trường.
- Pháp
luật và chế độ trợ cấp xă hội ở
đây đă vô t́nh đồng lơa với trẻ em trong việc
bỏ học bỏ gia đ́nh ra sống bụi đời.
Luật pháp ở đây cấm cha mẹ không được
đánh chửi con em v́ sợ phương hại đến
thể xác và tinh thần trẻ trong khi nếp sống Việt
lại cho việc đánh mắng con là cần thiết
như đă diễn tả trong câu ca dao: “Yêu cho đ̣n cho vọt,
ghét cho ngọt cho bùi,” hay “Già đ̣n non nhẽ, đánh
đau phải chừa.” Mặt
khác, xă hội Bắc Mỹ lại sẵn sàng cấp tiền
trợ cấp xă hội cho trẻ em. Trong thời gian qua,
những trẻ em từ 16 tuổi trở lên có thể bỏ
gia đ́nh ra ở riêng để xin tiền trợ cấp
xă hội với lư do này nọ. Có những con em chán cảnh
g̣ bó trong gia đ́nh và biết là nếu cha mẹ đuổi
chúng ra ngoài, chúng sẽ hợp lệ để xin tiền
trợ cấp, nên chúng đă gây sự với phụ huynh để tạo
cớ cho phụ huynh đuổi chúng ra để chúng có lư
do xin tiền trợ cấp xă hội.
- Có một
số phụ huynh đang hưởng tiền trợ cấp xă hội lại nhắm vào khe hở
này của chế độ trợ cấp xă hội nên
đă giả vờ đuổi con ra ngoài bằng cách mượn
địa chỉ người khác cho con xin tiền trợ
cấp hầu gia đ́nh có nhiều tiền trợ cấp
hơn v́ khi trẻ ở riêng th́ chính phủ cho tiền trợ
cấp nhiều hơn so với lúc chúng ở chung với
cha mẹ. Đây là hành động
phạm pháp mà họ coi như không. Sống trong những
hoàn cảnh như vậy th́ làm sao phụ huynh có thể dạy
con em hữu hiệu để trở thành người
lương thiện và ích quốc lợi dân được!
- Một
số phụ huynh v́ muốn có tiền về thăm Việt
Nam theo kiểu “áo gấm về làng” nên đă cố ư sống
nhờ tiền xă hội trong khi đi làm việc ở các
nông trại, làm việc ở các nhà hàng bán thực phẩm
và các tiệm ăn Việt Nam, hay di bắt trùng để
lấy tiền mặt với mục đích gian lận tiền
trợ cấp xă hội. Họ mua nhà bằng tiền mặt
(nhờ thân nhân hay bạn bè đứng tên) và mua xe mới
cũng bằng tiền mặt trong khi vẫn hưởng
tiền trợ cấp xă hội. Sự gian lận này ảnh
hưởng rất tệ hại trong việc dạy con
em. Đă gian lận và phạm
pháp th́ không bao giờ dạy con em thành người
được.
- Khi
sang tới Bắc Mỹ này, một số những phụ
nữ hay đàn ông độc thân nhưng có con (single mother
hay single father) đều được hưởng tiền
trợ cấp xă hội để sống ở nhà nuôi con.
Tuy nhiên, khi lập gia đ́nh ở Bắc Mỹ này, họ
lại không chịu làm hôn thú và khi có thêm con lại để
con lấy họ mẹ trong khi người chồng vẫn
ở chung và đi làm có lương. Người mẹ hay
người bố không báo cho cơ quan xă hội về sự kiện này mà vẫn lấy cớ
là không có chồng hay không có vợ v́ không hôn thú hầu tiếp
tục ăn tiền trợ cấp xă hội với mục
đích gian lận tiền xă hội để làm giầu.
Đến khi con cái có lỗi, bà mẹ hay ông bố la rầy
con và kể lể là đă vất vả để nuôi chúng
mà chúng không chịu nghe lời. Đă có trường hợp,
khi bị chửi như vậy, người con trả lời
ngay với cha mẹ chúng là cha mẹ đâu có vất vả
kiếm tiền nuôi chúng, chính phủ nuôi chúng đấy chứ!
Thật là thảm thương! Bố mẹ đă gian manh
và phạm pháp như thế th́ làm sao có thể giáo dục
con em được!
- Công
việc lao động ở xă hội Bắc Mỹ này
tương đối dễ kiếm. V́ bị lôi cuốn
vào đời sống vật
chất quá sớm, một số con em đă lư luận rằng
học cao mà làm ǵ và khi ra trường chưa chắc
đă có việc xứng đáng nên
một số con em đă bỏ học để kiếm
việc làm hầu thỏa măn nhu cầu vật chất. Có việc làm là có ngay đời sống
tự do, tự lập, tha hồ có bạn trai bạn gái,
thuốc sái, rượu chè, và cờ bạc mà không bị
ai cấm đoán hay g̣ bó điều ǵ. Ở Bắc Mỹ
này, có tiền, có việc làm là có tất cả, trừ
đạo đức. Chính v́ thế mà việc giáo dục
con em ở trong gia đ́nh và học đường gặp
rất nhiều khó khăn.
- Một
số phụ huynh thấy việc buôn lậu thuốc lá,
buôn đồ ăn cắp, buôn x́ ke ma túy được lời
nhiều và có tiền nhanh nên đă khuyến khích con em bỏ
học hay bỏ làm việc để ăn tiền trợ cấp xă hội hầu có th́ giờ đi buôn lậu.
Cả gia đ́nh làm những việc phạm pháp th́ sao con
em có thể trở thành công dân tốt được. Ấy
là chưa nói tới việc làm nhục cho cả cộng
đồng người Việt ở đây v́ “con sâu làm rầu
nồi canh.”
- Những người dân Việt sống
dưới chế độ “xuống hàng chó ngựa” của
Việt Cộng cũng đă bị nhiễm tính gian manh của
bọn Việt Cộng đến tận xương tủy.
Theo báo Toronto Star, số ngày 24 tháng 4 năm 2001, một nữ
y sĩ Việt Cộng, Lê Thị Minh Tâm, sang Canada với hộ
chiếu sinh viên, cũng đă bị cảnh sát truy nă v́ tội
mở dưỡng đường lậu, chữa bệnh
lậu, và làm thiệt mạng một nữ bệnh nhân, Trần
Thị Hạnh Lan, 36 tuổi, vào ngày 22-4-2001 tại Toronto.
Trước đây, ở Hamilton,
Ontario, vào tháng 9/95, có một phụ huynh người Việt
đă huấn luyện em bé bốn tuổi đi ăn cắp
nữ trang trong một cửa tiệm. Thật là nhục
nhă cho cả cộng đồng người Việt chúng
ta. Quả là bọn Cộng Sản Việt Nam đă hủy
hoại tất cả những truyền thống đạo
đức tốt đẹp của tiền nhân để
đưa dân Việt “xuống hàng chó ngựa.”
- Một
số phu huynh mải làm việc và coi thường luật
pháp ở đây. Họ đi làm trong khi để con cái c̣n
nhỏ ở nhà một ḿnh mà không nhờ ai trông hộ. Có
những em dưới 12 tuổi đi học về, thấy
không có người lớn ở nhà, lại đi chơi với
bạn bè. Nếu ở nhà một ḿnh chúng lại có thể
gây ra hỏa hoạn, hay gặp tai nạn trong nhà mà không ai
hay. Trường hợp này không phải là hiếm trong cộng
đồng chúng ta.
- Một số đông trẻ em
khác lại không được cha mẹ săn sóc kỹ
lưỡng về sức khỏe, nhất là việc dinh
dưỡng và việc ăn mặc cho đủ ấm
trong mùa đông. Có nhiều trẻ đi học không
được ăn sáng, mặc không đủ ấm,
không đánh răng rửa mặt, và thường đi học
trễ. Lư do là phụ huynh đi làm đêm, sáng ngủ
trưa nên không có th́ giờ săn sóc con em. Con cái không
được ai đánh thức đúng giờ đi học
nên nhiều khi thức dạy trễ, chúng chỉ đủ
th́ giờ mặc vội áo quần và xách cặp chạy
đến trường mà thôi. Có nhiều trường hợp
con em c̣n quên cả mang cặp đến trường và mặc
áo quần không đủ ấm nữa.
Khi đến bữa ăn, có nhiều
gia đ́nh mạnh ai lấy cơm vào bát rồi ra ngồi ở
pḥng khách vừa xem TV vừa ăn. Ăn không đủ chất
bổ, ngủ không đúng giờ, và không có không khí học
bài và làm bài, th́ hỏi sao con em
có thể lớn khôn và học hành tiến bộ được.
- Một
số con em bị kỳ thị ở trường và ở
nơi chơi đùa gần nhà. Trong những trường
hợp này, phụ huynh lại không hiểu biết ǵ về
luật pháp ở đây, không biết cách xử sự,
không biết cách hướng dẫn con em nên mới gặp
nhiều chuyện lôi thôi và c̣n phải “vô phúc đáo tụng
đ́nh,” tức là bị đưa ra toà án nữa.
- Việc
con em được hưởng đầy đủ tiện
nghi vật chất cũng là một trở ngại lớn
cho sự học hành và cuộc sống mai hậu. Thử hỏi
mới mười mấy tuổi đầu mà đă có
hàng trăm bạc tiền mặt trong túi và có đủ dụng
cụ về Video Games, TV, dàn âm thanh tối tân, v.v. th́ làm sao
trẻ có thể thành công trong việc học và tiến thân
được! Chính v́ thế mà xă hội có nhiều trẻ
em phạm pháp.
- Một
thiểu số phụ huynh thường chỉ thích con em học
chăm thôi mà không khuyến
khích chúng tham gia các sinh hoạt xă hội, thể thao, hay t́nh
nguyện làm các công tác cộng đồng. Chính v́ thế mà
sự phát triển của trẻ không được đồng
đều về các mặt t́nh cảm, trí tuệ, thể
chất, và xă hội. Hậu
quả là trẻ sẽ thiếu tiềm năng học cao
lên ở bậc đại học. Và cũng chính v́ thế
mà người Việt, nói chúng, chưa có tinh thần làm việc
t́nh nguyện cao độ, phần đông chỉ biết
lo cho ḿnh và gia đ́nh ḿnh mà thôi.
- Một
số đông phụ huynh chỉ thích con em ḿnh nói tiếng
Anh hay Pháp thật giỏi mà quên khuyến khích chúng trau giồi
tiếng Việt. Họ hănh diện khi nói toàn tiếng Pháp
hay tiếng Anh với con em và cho đó là văn minh tiến
bộ. Chính v́ điểm này con em mới sinh ra mất gốc
Việt và đi đến chỗ vong bản.
- Những
gia đ́nh có cha mẹ ly thân hay ly dị mà có con em c̣n nhỏ
tuổi, họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc
dạy con em. Xưa nay phần đông những trẻ thành
công là có cả cha mẹ săn sóc và nuôi nấng. Nhất là
vào dịp Giáng Sinh và Tết, những trẻ có cha thiếu
mẹ, có mẹ thiếu cha, hay thiếu cả cha lẫn mẹ
đều ở vào t́nh trạng khốn khổ vô cùng. Chúng
cảm thấy cô đơn và tủi phận nhiên hậu sẽ
lớn lên trong bẽ bàng xen lẫn hận thù. Hậu quả
là chúng sẽ thất bại trong trường đời
và sống nhờ vào trợ tiền trợ cấp xă hội.
- Trẻ em thường cần t́nh
thương yêu tŕu mến, vỗ về, an ủi, và khuyến
khích để phát triển về các mặt cơ thể,
t́nh cảm, xă hội, và trí tuệ. Từ đó chúng sẽ
yêu đời và thành công trong việc học cũng như
trong cuộc sống.
Ở Bắc Mỹ này, phần
đông trẻ em sống trong
gia đ́nh mà cả cha lẫn mẹ đều bận
rộn về công việc làm ăn và không để ư hỏi
han, an ủi, và khuyến khích chúng trong việc học cũng
như trong việc chơi. Chính v́ thế mà trẻ sẽ cảm
thấy cô đơn và đi ra ngoài gặp bạn bè để
t́m cách đáp ứng nhu cầu của chúng. Từ đó
chúng có thể sa ngă và vượt khỏi tầm tay của
phụ huynh.
III.
Đề Nghị Một Số Nguyên Tắc Giáo Dục
Con Em
Sau khi đă tŕnh bày hiện trạng
cuộc sống con em người Việt ở hải ngoại,
chúng tôi mạn phép đề nghị một số nguyên tắc
áp dụng trong việc giáo dục con em cho có hiệu quả.
Muốn dạy trẻ, tối thiểu ta phải áp dụng
các nguyên tắc sau:
1. Các Bậc Phụ Huynh và Thầy
Cô Giáo Hăy Tự Hỏi Xem Ḿnh Dă Thực Sự Tỏ T́nh
Thương Yêu, Săn Sóc, và Hy Sinh Một Cách Cụ Thể Đối Với Trẻ Chưa? Trẻ em rất tinh. Chúng biết
rơ ai là người thực sự yêu thương chúng. Khi
biết rơ ai là người thương yêu chúng, chúng tỏ
ra lễ phép, vâng lời, và thích gần người đó.
Được yêu thương, an ủi, và khuyến khích
là nhu cầu tối cần thiết đối với trẻ
để phát triển và khôn lớn. Ḷng ta yêu thương
trẻ chưa đủ, ta phải tỏ sự yêu
thương này bằng lời nói và cử chỉ nữa.
Nếu không tỏ ra yêu thương và săn sóc trẻ, th́ đừng bao giờ nghĩ
tới việc dạy trẻ. Các thầy cô phải
nhớ rơ điều này.
2. Hăy Tôn Trọng Trẻ. Để
đạt được việc tôn trọng trẻ, ta cần
phải gạt bỏ quan niệm cũ của một số
người cho là “trẻ con th́ biết ǵ” và phải nhớ “trẻ con không phải là người
lớn thu nhỏ.” Tôn trọng trẻ là ta cần để
ư đến lời nói của chúng, sinh hoạt của
chúng, đối đăi lịch sự và công bằng với
chúng, giữ lời đă hứa, và không được nói
dối chúng. Trẻ con không phải là người lớn
thu nhỏ, chúng hoàn toàn khác hắn người lớn. Chúng có một nhân phẩm riêng, một
nhu cầu riêng, một cơ thể riêng, một cách suy nghĩ riêng, và một đời
sống riêng mà ta cần phải t́m hiểu, lắng nghe, và
tôn trọng.
3. Cần Phải Kiên Nhẫn. Các bậc
phụ huynh và thầy cô cần phải bỏ th́ giờ với
trẻ. Lúc nào cũng phải có người lớn ở
bên trẻ để theo dơi, lắng nghe, giúp đỡ, và
đề pḥng tai nạn xảy ra. Một nhà giáo dục
Pháp đă nói: “La répétarion est l'âme de l'enseignement” (Sự lập
đi lập lại là linh hồn của viện giảng
huấn). Điều này có nghĩa
là khi dạy trẻ cái ǵ ta phải nhắc lại hay ôn lại
nhiều lần dưới nhiều h́nh thức khác nhau.
Nhưng cũng phải nhớ câu tục ngữ của ta:
“giáo đa thành oán.” “Giáo đa
thành oán” có ư nói về cách dạy bảo vụng về,
không đúng tâm lư, tức là hễ thấy mặt trẻ là
răn dạy chửi bới và kể tội của chúng
mà không có khi nào khuyến khích hay khen thưởng.
Muốn dạy trẻ, ta cần phải
từ từ, kiên nhẫn, và không bao giờ được
nổi nóng, nhất là không được phép đánh mắng
trẻ. Mặt khác, chúng ta cần để tâm t́m hiểu
tâm lư và nhu cầu mỗi trẻ. Không có trẻ nào giống
trẻ nào. Mỗi trẻ là một thế giới riêng biệt, có thể chất riêng, cảm xúc
riêng, trí tuệ riêng, và đời sống xă hội riêng. Bốn
phạm vi quan yếu này phải được phát triển
song song và đồng đều để giúp trẻ em
thành người toàn diện sau này.
Nếu ta khám phá ra các vấn đề
trở ngại liên quan tới việc phát triển cơ thể,
t́nh cảm, trí tuệ, và xă hội của trẻ, ta phải
nhờ các chuyên gia về y tế và giáo dục để
t́m cách chữa trị cho trẻ càng sớm càng tốt. Phải tâm niệm rằng việc
nóng giận và đánh mắng trẻ chỉ gây tai hại
cho trẻ mà thôi. Nếu ta nổi giận, chính ta đă hóa
ra điên khùng và làm hại trẻ. Người xưa
đă nói: “Giận lên là phát cơn điên, người khôn
hóa dại, người hiền hóa ngu.”
4. Tạo Sinh Hoạt có Ư Nghĩa
cho Trẻ . Bất cứ ai cũng cần sinh hoạt
để giúp cho tinh thần được lành mạnh và
đời sống có ư nghĩa. Trẻ em cũng thế,
chúng rất năng động, chúng cần sinh hoạt nhiều
hơn nữa để tăng trưởng và khôn lớn.
Có sinh hoạt các em mới phát triển về mọi mặt
và lớn khôn được. Các sinh hoạt này phải có ư
nghĩa và được hướng dẫn, chẳng hạn
như các sinh hoạt thể thao, văn nghệ, và xă hội,
v.v. Không sinh hoạt, các em sẽ đâm ra phá phách, ăn
chơi trác táng, và vướng vào ṿng tù tội. Mặt khác,
nếu trẻ em không thích hoạt động th́ chúng tất
có vấn đề về sức khỏe. Ta cần phải
t́m hiểu nguyên do, nếu cần phải đưa chúng
đi khám bác sĩ chuyên môn để chữa trị cho
chúng càng sớm càng tốt.
5. Phải Hiểu Các Khó Khăn và
Biết Rơ về Trách Nhiệm của Bậc Làm Cha Mẹ
Trước Khi Có Ư Định Sinh Con. Nguyên tắc này đặc
biệt dành cho những cặp vợ chồng chưa có con
hay những người độc thân mà muốn lập
gia đ́nh để sinh con. Ta phải dứt khoát bỏ
quan niệm có con để đỡ cô đơn hay đỡ
buồn. Trước khi định có con phải tự hỏi
ḿnh đă sẵn sằng muốn có con, có khả năng
nuôi dạy con, đủ th́ giờ chăm nuôi được
con không, và đă sẵn sàng làm bậc cha mẹ chưa? Nếu
câu trả lời cho một trong những vấn nạn
trên là “không” hay “chưa,” th́ chúng ta đừng nên sinh con ra kẻo chúng khốn khổ
vô cùng. Nếu không muốn mà lỡ có con, chúng ta phải nhận
trách nhiệm và thu xếp bằng được th́ giờ
để nuôi dạy chúng.
6. Phải Có Sự Hợp Tác Giữa
Chồng và Vợ, Giữa Gia Đ́nh, Nhà Trường, và Cộng
Đồng. Trách nhiệm nuôi dạy con em phần chính là ở
vai tṛ của phụ huynh trong tinh thần hợp tác giữa
các bậc làm cha mẹ, giữa gia đ́nh, nhà trường,
và cộng đồng. Không thể thành công trong việc nuôi
dạy con em nếu ta thiếu sự hợp tác này.
Phải xây dựng cộng đồng
người Việt ở nơi ḿnh ở cho thật vững
mạnh để có thể giúp đỡ lẫn nhau và tạo
môi trường cho con em sinh hoạt và tiến bộ. Phụ
huynh phải tham gia vào các sinh hoạt của nhà trường
nơi con em minh theo học, nhất là phải cộng tác với
nhà trường trong việc giáo dục con em.
Việc hợp tác giữa cha và mẹ
trong việc dạy con rất là cần thiết và có hiệu
quả vô cùng. Nếu con hỗn với mẹ và không nghe lời
mẹ, người cha phải dạy và khuyên bảo con th́
mới có kết quả. Ngược lại cũng vậy,
nếu con hỗn với bố và không nghe lời bố,
người mẹ phải dạy và khuyên bảo con. Cha mẹ
không bao giờ được nói xấu nhau trước mặt
con cái. Phải giữ uy tín cho nhau đối với các con
và dùng uy tín của nhau cũng như ưu điểm cùng
thành quả của nhau để dạy con cái.
Việc dạy con em rất khó và tế
nhị. Người ta thường nói rằng thầy giáo dạy con
người ta th́ được chứ dạy con ḿnh lại
là một chuyện khác. Điều
này có nghĩa là ngoài việc phụ huynh tự ḿnh dạy lấy
con, phải nhờ đến người khác nữa. Chẳng
hạn như nhờ bạn bè của ḿnh, nhất là những
người trẻ kính mến. Ngoài ra, ta có thể nhờ
hàng xóm, nhờ các phụ huynh khác và
nhờ các vị hướng dẫn tinh thần
như các nhà sư, mục sư, cha cố, và nhờ các vị
có uy tín trong cộng đồng. Thêm vào đó, ta có thể
nhờ các bạn của con em ḿnh để giúp vào việc
khuyên bảo chúng. Cổ nhân ta
có câu “Học thầy không tày học bạn” là vậy. Và cuối cùng, ta nên khuyến khích
trẻ tham gia các sinh hoạt cộng đồng. Nhờ
tham gia các sinh hoạt cộng đồng, con em chúng ta sẽ
học hỏi được những kinh nghiệm cụ
thể trong cuộc sống.
7. Nuôi Dạy Con Em Là Một Công
Tŕnh Nghệ Thuật. Việc nuôi dạy thú vật,
chơi cây cảnh, và hoàn thành một tác phẩm văn
chương nghệ thuật phải đ̣i hỏi một
nghệ thuật cao, một sự kiên nhẫn lâu dài, và một
công tŕnh to lớn. Việc nuôi dạy con em lại càng
đ̣i hỏi một nghệ thuật cao hơn, một tấm
ḷng kiên nhẫn hơn, và một công t́nh qui mô hơn gấp
bội phần. Nếu không quan niệm được
như vậy, chúng ta đừng bao giờ nghĩ đến
việc có con th́ tốt hơn.
8. Trẻ Em Sợ Nhất Là Sự
Mất Mặt. Các nhà giáo dục dày kinh nghiệm, các nhà tâm
lư học uyên thâm, và các bậc phụ huynh từng trải
của bao thế hệ đă quả quyết rằng trẻ
em sợ nhất là sự mất mặt, nhất là mất
mặt với người yêu và bạn bè. Khi trẻ có lỗi, chúng ta phải
kín đáo khuyên bảo một cách khéo léo và nhẹ nhàng. Tuyệt
đối đừng bao giờ chê trách chúng trước mặt
anh chị em, bạn học, người lạ mặt, và
nhất là trước mặt người yêu của chúng.
Nếu không, chúng sẽ không nghe lời ta mà c̣n sinh ḷng chán nản,
oán hờn, có thái độ hỗn láo, t́m cách trốn tránh
cha mẹ, và có thể bỏ nhà ra đi.
9. Hăy Làm Gương Mẫu Cho Trẻ
Noi Theo. Dạy trẻ tốt nhất là phải làm
gương cho trẻ về đủ mọi phương
diện, từ việc đúng giờ, giữ chữ tín, tổ
chức đời sống trong nhà, đến cách cư xử
với những người trong nhà và ngoài xă hội sao cho
đúng lễ, hợp t́nh hợp ly,ù và hợp tinh thần
dân chủ tiến bộ. Cổ nhân đă nói là muốn dạy
trẻ, ta không những dùng lời lẽ để giảng
giải mà c̣n phải lấy chính bản thân ḿnh làm
gương để dạy trẻ. Đó là nghĩa của
câu “Dĩ ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo.”
Khi cha mẹ nói ǵ và làm ǵ, trẻ em
thường hay bắt chước. Phải nhớ câu của
cổ nhân đă dạy: “Ấu tử thường thị
vô cuống,” tức là trẻ em thường không biết dối
trá. Người xưa c̣n nói: “Tín vi quốc chi bảo.” Câu
này có nghĩa là ḷng thành tín và đáng tin là của báu của cả nước.
Chính v́ thế mà thầy cô và cha mẹ đều phải hết
sức thận trọng trong lời nói và việc làm, nhất
là không bao giờ được nói dối trẻ. Những
ǵ mà cha mẹ hay thầy cô đă nói ra th́ phải thực
hành cho bằng được.
Ngoài ra, phương ngôn ta có câu “bề
trên ăn ở chẳng chính ngôi để cho bề dưới
chúng tôi hỗn hào” và “con hư tại mẹ, cháu hư tại
bà” để chỉ vai tṛ cùng
tư cách của người lớn, của các bậc cha
me,ï và của ông bà trong việc giáo dục con em vậy.
Người mẹ và bà nội hay bà ngoại thường
hay gần gũi con cháu, nhất là khi chúng c̣n nhỏ. Nếu
nuông chiều trẻ không đúng cách, mẹ và bà sẽ làm
hư chúng. Người xưa c̣n quan niệm rằng
người mẹ là thầy giáo đầu tiên của trẻ
nên người mẹ cần phải biết cách dạy trẻ
mới được.
Phải dạy trẻ ngay từ
khi chúng c̣n thơ dại. Ca dao ta có câu: “Dạy con từ thuở
c̣n thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới
về.” Thời kỳ thơ dại này của trẻ mới
là thời kỳ khó khăn nhất trong vấn đề
giáo dục trẻ mà người mẹ lại là người
gần gũi trẻ nhiều nhất trong thời thơ ấu
này của trẻ. Trách nhiệm
về giáo dục của người mẹ trong gia đ́nh
quả thật là to lớn vậy!
10. Phụ Huynh Phải Học Hỏi
Thêm để Có Đủ Kiến Thức và Phương
Pháp Giáo Dục Con Em. Về ngoại ngữ, ta phải t́m
đủ cách để học nếu chưa biết hầu
có thể nói và đọc được tiếng bản xứ
như tiếng Anh tiếng Pháp chẳng hạn. Học
để hiểu luật pháp, phong tục, nếp sống,
cùng hệ thống giáo dục tại nơi ḿnh ở để
theo dơi việc học của con em và tránh mọi phiền
phức về luật pháp. Ngoài ra, việc nuôi dạy con em
ở đây cũng khác xa so với khi ta con ở Việt
Nam trước 30 tháng 4, 1975.
Các bậc cha mẹ sắp sửa
có con, nhất là người mẹ, nên ghi tên tham dự các
khóa hướng dẫn về cách chăm sóc và nuôi dạy
con cái do các cơ quan y tế địa phương tổ
chức. Thêm vào đó, các bậc cha mẹ này c̣n phải mua
các sách thuộc loại hướng dẫn phụ huynh về
vấn đề nuôi dạy con em, chẳng hạn
như Smart Parenting, An Easy
Approach To Raising Happy, Well-Adjusted Kids của Dr. Peter Favaro; How
To Stop The Battle With Your Child của Don Fleming và Linda Balahoutis;
Parent in Control, Bringing Out The Best in Your Children của David Rice;
hay Dr. Spock's Baby And Child Care của Benjamin Spock và Michael B. Rothenberg
v.v.
IV. Kết Luận
Đă biết được hiện
trạng và một số nguyên tắc giáo dục và giúp
đỡ con cái, ta sẽ tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh
để tùy cơ ứng biến trong việc giáo dục
trẻ. Mỗi trẻ là một thế giới riêng, mỗi
hoàn cảnh một khác, ta không thể nào đề cập
hết mọi khía cạnh giáo dục con em một cách tỷ
mỉ được. Việc quan trọng nhất là các bậc
phụ huynh phải để hết tâm hồn vào việc
thương yêu, săn sóc, và giáo dục con cái. Từ đó
chúng ta sẽ tự t́m cách hoàn hảo nhất để
nuôi dạy con em. Trong những bài tới, chúng tôi sẽ
đề cập một số trường hợp cụ
thể trong việc giáo dục con em để giúp các bạn
trẻ tham khảo.
Gia Đ́nh: Nền Tảng của
Việc Giáo Dục Con Em
Trong hai bài trước chúng tôi
đă tŕnh bày những điểm sau đây: “Đặt Vấn
Đề Về Giáo Dục, Thế Nào Là Người Có
Giáo Dục. Vấn Đề Giáo Dục Con Em Trong Xă Hội
Bắc Mỹ, Hiện Trạng Cuộc Sống Con Em Việt
Ở Bắc Mỹ, và Đề Nghị Một Số
Nguyên Tắc Giúp Vào Việc Giáo Dục Con Em.” Trong bài này chúng tôi đề cập
đến vấn đề “Gia Đ́nh, Nền Tảng của
Việc Giáo Dục Con Em.”
I. Gia Đ́nh và Việc Thành Đạt
Của Con Em
Ngày
xưa, khi thi đỗ ông nghè, người ta thường
được nhà vua ban cho niềm hănh diện “vinh qui bái tổ.” “Vinh qui” nghĩa là về một
cách vẻ vang, “bái tổ” là làm lễ tế tổ tiên khi
thi đỗ hay được vua ban phẩm hàm. Việc
này mang ư nghĩa nhớ ơn tổ tiên, đền đáp
công ơn cha mẹ, và làm rạng rỡ bà con hàng tổng. Ngày nay, trong các cuộc tranh đua
thể thao, những người đoạt giải vô
địch đều ngỏ lời trước nhất
cám ơn phụ huynh rồi đến huấn luyện
viên cùng bạn bè và các người liên hệ khác. Lá cờ
của các quốc gia họ đều được các bạn
lực sĩ và quan khách nghiêm
chỉnh đứng lên chào để tỏ ḷng ngưỡng
mộ đất nước đă hun đức ra các bậc
kỳ tài này.
Đa số những người học
hành thành đạt từ trước tới nay đều
do công lao chăm sóc tận tâm của các bậc phụ huynh
và gia đ́nh. Có những bà mẹ mải chăm nuôi và dạy
bảo con đến quên ăn quên ngủ, thậm chí c̣n bị
bệnh lao tới hai ba lần trong đời. Có những
ông bố đă hy sinh hết th́ giờ vào việc lo trau giồi
nghề nghiệp để kiếm tiền nuôi gia đ́nh và
lo cho con cái có đủ phương tiện ăn học
đến nơi đến chốn. Thêm vào đó, con cái
thành công được phần lớn là nhờ cha mẹ
có một cuộc sống gương mẫu và một gia
đ́nh hạnh phúc.
Trên nhật báo The London Free Press, số
ra ngày 20-01-96, bà Sharon Mather
đă viết một bài về sự thành công và thất bại
trong học đường của người Nhật.
Trong một tiểu mục “Home Life Is Good,” bà Mather viết:
“Educators have always agreed the home has a major impact on child's
education.” Ư tác giả muốn nói rằng các nhà giáo dục
luôn luôn đồng ư rằng gia đ́nh có ảnh hưởng
rất quan trọng đối với việc giáo dục
trẻ.
Bà Mather c̣n nhấn mạnh rằng ở
Nhật, hoàn cảnh gia đ́nh có ảnh hưởng một
cách tích cực lên việc giáo dục con em. Học
đường Nhật không có những học sinh mà cha mẹ của chúng ở trong
t́nh trạng ly dị v́ sự ly dị xảy ra rất ít ở
Nhật. Nếu cha mẹ ly dị
nhau th́ trẻ em Nhật cũng sống trong một đại
gia đ́nh và được nuôi dạy kỹ lưỡng.
Đa số đàn bà Nhật chọn làm việc nội trợ
để nuôi dạy con cái và họ không có mặc cảm tự
ty về việc ở nhà này.
Bà Hillary Rodham Clinton, vào năm 1996, hồi
c̣n là vị Đệ Nhất Phu Nhân tại Hoa Kỳ,
đă cho xuất bản cuốn sách nhan đề It Takes A
Village. Cuốn sách này đề cập một cách đầy
đủ về các vấn đề trong việc nuôi dạy
con cái. Bà Clinton đă mượn lời của Elizabeth
Stone để nói về tầm
quan trọng trong quyết định có con cái như sau:
“Making the decision to have a child - it's wondrous. It is to decide forever
to have your heart go walking around outside your body.” Câu này có ư nói rằng
quyết định sinh con là một điều tuyệt
diệu. Đó là một quyết định để suốt
đời đem hết tâm hồn lo lắng cho con.
Bà Hillary Rodham Clinton c̣n viết: “Each
of us plays a part in every child's life: it takes a village to raise a child.”
Điều này có nghĩa là mỗi chúng ta đều dự
phần quan trọng trong đời sống của trẻ,
tức là phải cần đến cả một làng để
nuôi dạy trẻ. Bà Clinton đă chọn câu “It takes a
village” trong câu tục ngữ cổ của người Phi
Châu là “It takes a village to raise a child” để làm tựa
đề cho quyển sách đầu tay của bà v́ câu tục
ngữ này đă luôn luôn nhắc nhở bà là trẻ em chỉ
có thể thành công nếu gia đ́nh chúng thành công và cả xă
hội hết ḷng lo và săn sóc chúng đến nơi
đến chốn.
Trong hoàn cảnh tỵ nạn Cộng
Sản ở nơi đất khách quê người, việc
nuôi dạy con em của người Việt chúng ta lại là cả một thách đố
sinh tử cho các bậc phụ huynh. Muốn nuôi dạy con
em, các bậc phụ huynh phải thu xếp sao có được
nếp sống thoải mái, thoát khỏi được cảnh
bất ḥa trong gia đ́nh, có th́ giờ dành cho con em, và học
hỏi cách thức thích hợp nuôi dạy con em ở
nơi quê hương mới này cho tốt đẹp.
II. Phân Công Đồng Đều Việc
Gia Đ́nh Khi Vợ và Chồng Đều Đi Làm
Trước khi Cộng Sản chiếm
Miền Nam, mỗi gia đ́nh người Việt chúng ta
thường có ông bố đi làm và bà mẹ ở nhà
chăm nuôi con cái. V́ thế mà các con em ở Miền Nam
trước đây đa số đều ngoan và học
hành thành đạt. Ngày nay ở nơi đất khách,
thường th́ cả cha lẫn mẹ đều phải
đi làm nên cả cha lẫn mẹ có rất ít th́ giờ,
nếu không muốn nói là không có th́ giờ, để
chăm nom các con và dạy bảo chúng đến nơi
đến chốn.
Người đàn bà Việt Nam sẵn
có đức tính đảm đang. Đến khi ra hải
ngoại, mặc dầu đă phải đi làm mệt nhọc
giống như người chồng, họ vẫn trổ
tài quán xuyến việc nhà để đức ông chồng
được thoải mái sau giờ phút đi làm về.
Trong khi đó, đức ông chồng, ngoài giờ làm việc,
lại cứ quen thói cũ dành quyền sai bảo để
có th́ giờ ăn nhậu, xem báo, coi các chương tŕnh thể
thao, đi đánh bài, ra quán thụt “bi-da” hay uống cà phê với
bạn bè để kệ bà vợ ở nhà với bày trẻ
nhỏ cùng trăm mối ngổn ngang. Chính v́ thế mà gia
đ́nh đi từ chỗ bất ḥa đến đổ
vỡ và gây tai hại cho bầy trẻ.
H́nh như tạo hóa đă an bài
để các ông chồng trên thế gian này đều có sẵn
tính lười biếng trong khi các bà vợ Việt Nam lại
được tạo hóa an bài để có sẵn đức
tính chiều chồng nuôi con thật là đảm đang một
cách tuyệt vời. Điều này đă được thực
tế chứng minh rơ ràng. Trên khắp thế giới, không
phải chỉ có các ông chồng thuộc loại thế hệ
xưa mới như thế, một số đông các ông chồng
thuộc thế hệ trẻ ngày nay cũng lười làm
việc nhà như vậy. Trong khi đó, các bà vợ người
Việt ḿnh từ bao thế hệ nay lúc nào cũng đảm
đang hết sức lo săn sóc chồng con một cách
hoàn hảo.
Ngày nay ở Bắc Mỹ, muốn
giúp vào việc nuôi day con em thành công, chúng ta phải điều
chỉnh t́nh trạng này để tránh sự bất công giữa
chồng và vợ cùng sự đổ vỡ có thể xảy
ra trong gia đ́nh. Có một số
các đấng ông chồng không quen với công việc nhà cửa,
họ không chấp nhận công việc rửa bát hay nấu
ăn. Họ cho đó là công việc của các bà. Các bà phải
t́m cách sao để đánh đổ quan niệm lỗi thời
này ở nơi các ông mới được.
Nếu các ông chồng là loại
người hợp lư, hăy phân giải t́nh lư với họ.
Nếu họ đồng ư rằng các bà cần có sự
nghỉ ngơi, th́ công việc sẽ đâu vào đấy.
Làm sao để các ông chấp nhận là họ phải chia
xẻ công việc nhà và hiểu rằng nếu không chấp
nhận th́ công việc sẽ không hoàn tất được.
Các ông phải chấp nhận một số việc ưu
tiên, chẳng hạn như, bằng đủ mọi cách
để các bà vợ và ông chồng đều có th́ giờ
rảnh rỗi, phải ưu tiên cho việc học hành và
sức khỏe của các con.
Nếu vợ nấu ăn th́ chồng
phải lo việc hút bụi, giặt quần áo, hay xếp
quần áo vào tủ. Nếu vợ rửa bát hay đi chợ
sắm đồ ăn th́ chồng trông nom con cái. Chồng
lo việc học của con cái th́ vợ lo dọn dẹp
đồ đạc trong nhà. Chồng lo việc ở ngoài
xă hội th́ vợ lo việc gia đ́nh. Chồng có sức
khỏe hơn vợ th́ làm việc nặng nhọc, vợ
làm việc nhẹ. Tóm lại,
vợ chồng phải chia xẻ công việc trong gia
đ́nh với nhau một cách đồng đều th́ gia
đ́nh mới có hạnh phúc và con cái mới có không khí thuận
lợi để học tập.
Nếu các ông chồng thuộc loại
người “việc nhà dáo dác, việc chú bác siêng năng,”
hay không hợp t́nh lư, các bà phải từ từ khuyên giải
và giúp chồng làm quen với công việc nhà. Cần khéo léo
giao cho ông ta từng việc một và chỉ cách thức
làm để ông ta không thể thoái thác hay làm hỏng việc
được. Mỗi ngày nhờ chồng một việc,
từ từ ông chồng sẽ quen đi. Cũng nên biết
rằng có một số bà đă nhờ được chồng
rồi, lại không biết lấy thế làm đủ, mà
nhân đó sai chồng như sai mọi, coi chồng như
người làm. Trong trường hợp này, các cụ bảo
là chồng bị vợ “xỏ chân lỗ mũi.” Điều
này đưa đến việc người chồng bị
mất mặt với bạn bè và mất cái thế để
dạy bảo con và gia đ́nh sinh ra lủng củng.
Trong khi thương lượng với
chồng, cần cởi mở và thẳng thắn đối
thoại với nhau để sao có được sự
thỏa thuận cho cả hai bên. Lấy sự hợp t́nh
hợp lư và tương kính đối đăi với nhau mới
là thượng sách. Nếu chỉ la hét, lấn át, hờn
dỗi, hay nói bóng gió, các bà sẽ chỉ gặp sự lẩn
tránh, giận hờn, và t́nh trạng lại trở thành tồi
tệ hơn mà thôi. Do đó gia đ́nh sẽ không có không khí
thuận lợi cho con cái học hành và tiến bộ.
Vợ chồng phải thỏa thuận
cùng nhau lo việc gia đ́nh th́ mọi việc mới tốt
đẹp được. Trong trường hợp cả
hai vợ chồng đều đi làm, nếu muốn cảnh
gia đ́nh được vui tươi thoải mái, vợ
hay chồng về nhà trước th́ phải lo làm những
việc ḿnh có thể làm. Chẳng hạn như nếu có mặt
ở nhà trước khi vợ đi làm về, người
chồng phải đôn đốc con cái thu dọn nhà cửa
cho ngăn nắp, lo cho các con tắm rửa, bỏ quần
áo vào máy giặt, và thổi sẵn nồi cơm để
chờ bà vợ về nấu đồ ăn cho cả nhà
dùng bữa cơm tối.
Sau khi ăn tối và nghỉ
ngơi xong, ông bố phải đôn đốc các con
đánh răng, tắm rửa, và trông cho chúng học và làm bài ở trường
đem về. Nếu chúng có ǵ khó khăn, ông bố phải
giúp chúng. Trong khi đó, bà mẹ rửa bát, thu dọn nhà cửa,
và lo sẵn sàng quần áo và đồ ăn sáng ăn
trưa cho các con đi học vào ngày hôm sau. Có được như thế, mọi
việc sẽ đâu vào đấy và ai nấy đều
có th́ giờ nghỉ ngơi để tiếp tục công
việc hôm sau.
Công việc trong gia đ́nh phải
được phân chia đồng đều cho hai người.
Nói th́ dễ, làm th́ khó. Thường thường, một số
các bà vợ đợi cho đến khi ḿnh mệt lả mới
trách chồng là không giúp vào việc nhà. Khi đă bị
căng thẳng và tức bực điên người lên,
các bà lại không tự kiềm chế được nên mới
càu nhàu, nói xa nói gần, giận cá chém thớt, chửi chó mắng
mèo, lụng bà lụng bụng, và mặt xưng mày xỉa.
Từ chỗ lời nói không hợp t́nh lư, vợ chồng
mới sinh căi nhau và làm cho con cái ngơ ngác chẳng hiều
ǵ. Chúng lo lắng và không thiết học hành ǵ nữa. Tội
nghiệp cho trẻ. Để lo công việc trong gia
đ́nh cho có hiệu quả, vợ chồng phải chọn
th́ giờ thuận tiện để ngồi lại bàn thảo
với nhau một cách cởi mở và trong tinh thần trách
nhiệm.
Cần bàn về phận sự mà mỗi
người phải làm trong gia đ́nh hầu giúp cho vả
vợ lẫn chồng đều có th́ giờ rảnh rỗi.
Khi bận việc th́ cả hai người đều phải
chia xẻ công việc để khi rảnh th́ cả vợ
lẫn chồng đều được nghỉ và làm những
ǵ mà ḿnh ưa thích, chẳng hạn như trong khi chồng
xem báo th́ bà vợ xem “TV Show” nào mà nàng ưa thích. Không có th́ giờ rảnh rỗi
cho riêng ḿnh th́ cả vợ lẫn chồng không thể nào
thoải mái để tiếp tục cuộc sống một
cách tốt đẹp được. Do đó, con cái sẽ
không được chăm nom dạy bảo cho chu đáo,
chúng sẽ có vấn đề khó khăn trong việc học.
Ngoài ra, đời sống tinh thần cùng thể chất của
trẻ cũng sẽ bị khủng hoảng. Đó là lỗi
tại cha mẹ.
Nếu việc chân thành hợp tác,
chia xẻ gánh nặng gia đ́nh, và trao đổi kỹ
thuật nuôi dạy con cái đều được cả
cha lẫn mẹ đồng ư và thông cảm th́ mọi việc
trong gia đ́nh mới tốt đẹp. Một chút thông cảm giữa vợ
và chồng rất là quan trọng. Có hiểu nỗi vất
vả và hy sinh của nhau cho gia đ́nh, vợ hay chồng
mới cảm thấy được an ủi và có thêm nghị
lực trong cuộc sống. Một chút thông cảm này có thể
là sự chia xẻ giúp đỡ, một câu an ủi, một
ánh mắt yêu đương, một món quà bất ngờ
dành cho nhau, hay một cử chỉ vuốt ve âu yếm. Để ư săn sóc, yêu
thương, và chia xẻ vỗ về an ủi nhau là cả
một nghệ thuật trong cuộc sống hạnh phúc
gia đ́nh.
III. Chiều Chồng Con Là Điều
Hănh Diện Của Một Số Các Bà Vợ Việt
Đa số các bà vợ Việt Nam
đă quen tính chiều chồng nuôi con và mặc nhiên coi việc
nấu ăn, rửa bát, quét nhà, tắm rửa cho các con,
cho con ăn, dỗ con ngủ, và giặt quần áo là của
đàn bà. Một số bà, được giáo dục trong một
gia đ́nh nề nếp đạo đức, quan niệm
rằng thứ đàn ông mà vào bếp, đi chợ xách
đồ cho vợ, thay tă cho con, hay tắm rửa cho con là
thứ đàn ông đụt. V́ thế mỗi lần ông chồng
ṃ vào bếp là các bà đuổi như đuổi tà vậy.
Các bà rất thích thú được
thấy ông chồng đứng ra lo việc dân việc
nước, ngồi đọc sách xem báo, hút thuốc, viết
văn làm thơ, hay tiếp đăi bạn bè. Họ thích
được hầu hạ và săn sóc chồng con, khổ
sở hay bận rộn đến mấy cũng chịu
đựng được, và coi đây là niềm vui có ư
nghĩa. Không được chồng con nhờ đến,
các bà sẽ buồn và cảm thấy đời vô vị.
Đây là hoàn cảnh ở Việt Nam trước 30 tháng 4,
1975 khi trong nhà có nhiều người giúp việc và việc
kiếm tiền nuôi gia đ́nh là trách nhiệm của các ông
chồng. Hơn nữa việc lo cho dân cho nước là bổn
phận của các bậc tu mi nam tử và là cả một
hănh diện cho gia đ́nh.
Có một số bà quan niệm rằng
để th́ giờ chỉ bảo các ông làm, thà làm lấy
c̣n hơn v́ có quá nhiều việc để chỉ bảo,
và nếu có chỉ bảo th́ các ông cũng không thể làm nổi
mà c̣n làm hư việc nữa là khác. Đây là “típ” đàn bà
thuần túy Việt Nam, thời nay khó t́m lắm. Các bà thuộc
loại này bận mấy cũng thấy vui, miễn là các
ông chồng biết cho sự vất vả của vợ,
biết ngỏ lời khen, cám ơn, và an ủi vợ là
được. Có được như thế dù các bà vợ
có vất vả đến mấy họ vẫn vui. Người
xưa thường nói: “Không được ăn thịt
ăn xôi, cũng được lời nói cho tôi bằng
ḷng.” Trong truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: “Một
lời đă biết đến ta, muôn chung ngàn tứ cũng
là có nhau” cũng nằm trong nghĩa đó.
Hiện ngày nay ở hải ngoại
này chúng tôi cũng vẫn thấy có những bà vợ tuyệt
vời như vậy. Chồng con của những bà này lại
rất thành công. Thật cả là một đại hạnh
cho gia đ́nh vậy. Thông
thường th́ “được vợ hỏng chồng,”
hay ngược lại. Trường hợp được
cả vợ lẫn chồng cũng có, nhưng hơi hiếm.
Đàn ông được vợ chiều lại hay làm tới
và sinh ra ăn chơi hư hỏng. Các con v́ thế cũng
hư luôn v́ bố đă không ra ǵ th́ làm sao dạy được
con. Người xưa có câu: “Nhà dột từ nóc dột xuống”
là vậy.
Trong gia đ́nh có bà vợ tuyệt
vời như trên và nếu ông chồng lại là người
biết điều lo chăm sóc việc học của các
con, lo việc nặng nhọc trong gia đ́nh, và
thương yêu vợ con, th́
gia đ́nh sẽ được hạnh phúc biết mấy!
Nếu gia đ́nh có hạnh phúc và vợ chồng hợp
tác với nhau để lo cho nhau và lo cho con cái th́ con cái chắc
chắn sẽ thành đạt và nhiên hậu chúng sẽ làm
việc ích quốc lợi dân và đem lại hănh diện cho gia đ́nh
và dân tộc.
IV. Nỗi
Khó Khăn của Người Đàn Bà Vừa Đi Làm Vừa
Phải Lo Việc Gia Đ́nh