Dật Tiên, họ Tôn cấp tốc
tổ chức hôn lễ ngay để tạo ra một sự
đă rồi. Cuối cùng Tống Khánh Linh đă chính thức
trở thành bà Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng của
Trung Hoa. Bà vợ già của Tôn Dật Tiên lẳng lặng
lùi vào bóng tối.
Trên đây là trường hợp
trong văn chương lịch sử. C̣n trong thực tế,
trên báo The London Free Press,
Trường hợp trên đây là
thuộc lănh vực tu hành. C̣n về lănh vực giáo dục,
ta cũng thấy có trường hợp nhà giáo bị kết
án về tội sờ mó học sinh.
Theo tin The London Free Press, London, ngày
31-09- 1996, vào ngày 30-05-96, ṭa Supreme Court of Canada đă kết tội một nhà
giáo, ông Yves Audet, ở New Brunswick, Canada, về tội sờ
mó (Sexuallyt Touching) một học sinh mười bốn tuổi
vào năm 1992 và nhận định rằng: “Teachers are
almost always in a trusted position” (Thầy cô giáo luôn luôn phải ở
trong địa vị được tin cậy).
Chính v́ để ngăn chặn những
điều đáng tiếc xảy ra, nhà nước phải
có pháp luật, nhà trường và các tổ chức hội
đoàn phải có điều lệ và nội quy, gia
đ́nh phải có gia pháp, và nhà chùa phải có giới luật.
Các bác sĩ khi ra trường phải
thề trước thần Hoppocrates (ông tổ ngành y khoa)
là khi hành nghề phải tuyệt đối theo đúng với
các nguyên tắc đạo đức cùng lư tưởng do
Hippocrates đề ra. Các nhà
giáo lại càng phải giữ ḿnh hơn nữa v́ họ là
khuôn vàng thức ngọc cho học sinh noi theo.
Theo quan niệm Á Đông, thầy
được coi trọng hơn cha trong thứ tự:
“quân, sự, phụ.” Cũng bởi thế mà việc thầy
tṛ yêu nhau bằng t́nh yêu trai gái bị coi là vi phạm đạo
đức giữa thầy và tṛ.
Ngày xưa các cụ đă chủ
trương: “nam nữ thụ thụ bất thân.” Điều
này rất đúng ngay cả với ngày nay. Trong thế giới
tự do này, chính v́ không có chủ trương trên nên đă
nhan nhản có cảnh loạn luân. Đă có những trường
hợp anh em, bố con, mẹ con, thầy giáo học tṛ, cô
giáo học tṛ, hay ông cháu ở đất Bắc Mỹ này
phạm tội loạn luân. Các cụ ta đă dạy: “Con
gái mười bẩy chớ ngủ với cha, con trai
mười ba đừng nằm với mẹ.” Thật là
văn minh vậy. Cẩn thận pḥng ngừa vẫn là
thượng sách.
IV. Không Nên Cạn Tầu Ráo Máng với
Nhau, Nên Cùng Nhau Cộng Tác Để Giáo Dục Con Cái
Khi có vấn đề nan giải
như cảnh vợ ngoại t́nh hay chồng “vợ nọ
con kia,” vợ chồng phải thu xếp sao cho đẹp
và đặt quyền lợi của các con lên trên hết.
Tuy người xưa có câu: “Anh em như chân như tay, vợ
chồng như áo cởi ngay dễ ĺa,” nhưng t́nh vợ
chồng không thể ví với t́nh anh em, bố mẹ, bạn
bè, con cái, t́nh hàng xóm, hay t́nh đồng bào quê hương
được. Mỗi thứ t́nh một khác. Mỗi thứ
t́nh đều có tầm quan trọng, cần thiết, và thắm
thiết riêng của nó. Mỗi mỗi đều độc
đáo. Hết t́nh c̣n nghĩa. Đừng “cạn tầu
ráo máng” để sau này c̣n nh́n thấy mặt nhau.
Đối với những người
đă sống chung lâu năm và có con với nhau, các con vẫn
là mối dây liên hệ và kỷ niệm c̣n măi trong nhau. Nếu
v́ cớ ǵ mà vợ chồng bất ḥa hay phải xa nhau cũng
không nên tạo hận thù để con cái oán bố hay hận
mẹ kẻo tội nghiệp cho chúng. Vợ chồng không
được kể tội nhau hay nói xấu nhau trước
mặt con cái.
Nếu con cái có thái độ vô lễ
người nọ th́ người kia phải dạy bảo
chúng, chẳng hạn như nếu chúng có tỏ ra vô lễ
hay bất hiếu bằng lời nói và bằng hành động
với mẹ, người bố phải giải nghĩa
cho chúng là chuyện của bố mẹ các con có thể biết
và góp ư, nhưng không được có cử chỉ hay lời
nói vô lễ và bất hiếu. Dù thế nào đi nữa, mẹ
cũng vẫn là mẹ, bố cũng vẫn là bố. Công
nuôi dưỡng và hy sinh của cha mẹ cho các con c̣n rành
rành ra đó. Người bố phải khảng định
rơ: “Nếu các con mà hỗn hay bất hiếu với mẹ
th́ không xứng đáng là con cũa bố và cũng đừng
nh́n bố nữa.” Như thế th́ làm sao chúng có thể v́
bố mà hỗn và bất hiếu với mẹ được.
Ngược lại, nếu các con v́ bất cứ lư do nào
mà hỗn hào hay có thái độ bất hiếu với bố,
người mẹ cũng theo cách trên để răn các
con. Hăy nói cho chúng biết rằng dù người cha có phạm
tội cướp của giết người th́ ông ấy
vẫn là cha của chúng. Nếu phạm pháp, bố sẽ
bị pháp luật xử tội. T́nh bố con vẫn c̣n
đó, không thể chối bỏ được.
Đành rằng sự thương
yêu và kính trọng phải phát xuất tự đáy ḷng,
không ai có thể bắt buộc được, nhưng
t́nh bố mẹ đối với con cái hay t́nh con cái đối
với bố mẹ là một thực thể, không v́ lư do
này hay lư do kia mà phủ nhận được. Vợ chồng
phải kính trọng nhau và không nên cạn tàu ráo máng với
nhau th́ con cái mới có hiếu với bố mẹ
được. Giúp cho con cái có ḷng hiếu thảo cũng
là cách xây dựng hạnh phúc cho vợ chồng.
Người xưa đă nói: “Nhân
sinh bách hạnh hiếu vi tiên” (trăm nết tốt của
con người, nết hiếu thảo đứng hàng
đầu). Cha mẹ là người rất thân mà con cái
cư xử đă chẳng ra ǵ, th́ khi ra đến xă hội
chúng c̣n tốt với ai được nữa.
Muốn cho con cái kính trọng bố
mẹ và tránh cho chúng phạm tội bất hiếu, bố
mẹ phải kính trọng nhau, giữ ǵn uy tín cho nhau, và phải
yêu thương con cái hết ḷng cũng như phải làm
gương cho chúng noi theo. Mẹ
không bao giờ được tả oán và nói xấu bố
với các con và người bố cũng không bao giờ
được kể tội mẹ và nói xấu mẹ với
chúng. Phải luôn luôn nói với các con về sự hy sinh và
vất vả của bố mẹ cho chúng biết. Phải
nghĩ tới các con. Chúng cần cả bố lẫn mẹ.
Phải lo tṛn bổn phận làm bố và làm mẹ trong việc
nuôi dạy chúng.
Nếu người đàn ông có con
riêng, cũng đừng v́ tiếng tăm hay danh dự hăo
để không nhận con ḿnh. Phong tục Việt có thể
rộng lượng cho trường hợp “tài trai lấy
năm lấy bảy,” nhưng không chấp nhận việc
vô ngh́ (không có t́nh nghĩa thủy chung), bạc nghĩa, hay
bất nhân. Nếu v́ lư do ǵ mà có con riêng với ai th́ phải
lo cho các con chung và con riêng một cách chu đáo cho đến
khi chúng trưởng thành.
Đă “làm tài trai” th́ phải rộng
lượng bao dong. Phải lo cho vợ con và cả gia
đ́nh nhà vợ cho đầy đủ. Coi gia đ́nh vợ
như gia đ́nh ḿnh, không đặt nặng vấn đề
“rể là khách” để bào chữa cho ḿnh. Không nên v́ bất
cứ điều ǵ để quên t́nh nghĩa. Người
vợ từ thuở hàn vi mới là người vợ quí.
Vợ chồng ở với nhau từ trẻ tới già
bao giờ cũng thương yêu nhau vô điều kiện
và săn sóc nhau hết ḷng.
Xưa nay, người ta chỉ giữ
được kẻ ở chứ làm sao giữ được
người cố t́nh ra đi. Nếu vợ ḿnh đă ngoại
t́nh, ta không nên trách kẻ quyến rũ vợ ḿnh. Cái
người đáng trách là vợ ḿnh và cái kẻ đáng chê
là chính ta v́ chính ta đă có điều sai quấy với vợ
hay vợ ta là loại lăng loàn trắc nết. Đă ở
vào trường hợp này th́ hết cách cứu văn. Việc
dàn xếp tốt đẹp nhất là khi người vợ
ngoại t́nh th́ ta hăy vui vẻ
tiễn đưa cô ta ra khỏi nhà càng sớm càng tốt
kẻo gặp họa sát thân.
Nếu người chồng có “vợ
nọ con kia,” ta ráng b́nh tĩnh, kiên nhẫn v́ đây là cái bệnh
của đàn ông. T́m “thầy hay thuốc tốt” là chữa
được. Người xưa đă nói “dù chàng năm
thiếp bảy thê, cũng không
tránh khỏi gái sề này
đâu,” và “chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp
như cơm nguội đỡ khi đói ḷng.”
Không
nên ghen tuông một cách kém cỏi. Ḿnh phải làm chủ những
hành động và ư nghĩ của ḿnh trước. Có thể
hỏi ư kiến những người chuyên môn để dễ
bề quyết định chứ không nên nghe lời của
chị em, con cái, hay bạn bè v́ những người này họ
sẵn sàng đi đánh ghen cho ta bất cứ lúc nào. Chỉ
ḿnh có thể hiểu tánh t́nh và tư cách của chồng
ḿnh. Chuyện vợ chồng nên do vợ chồng giải
quyết, làm lớn chuyện chỉ tổ “xấu chàng hổ
thiếp” mà thôi. Cũng như trên, cái người đáng
trách là chồng ḿnh, chứ không phải “cái con đàn bà phá
nát gia cang nhà người ta” kia.
Nếu c̣n yêu chồng và chồng vẫn
c̣n yêu ḿnh và vẫn muốn sống với ḿnh, ta hăy cứ
ở với chồng một cách vui vẻ để tùy
cơ ứng biến hầu khuyên chàng trở về nẻo
chánh. Có như thế, chắc chắn thế nào gia đ́nh
cũng được yên vui v́ đàn ông Việt ai cũng
yêu “vợ cái con cột” suốt đời.
Đàn ông Việt là đàn ông yêu vợ
vào hạng nhất ở trên thế gian này. C̣n nếu muốn
theo nếp sống ở Bắc Mỹ, hơi tư là ly thân,
hơi tư là ly dị, ta có toàn quyền. Luật pháp và xă hội
ở đây sẵn sàng bảo vệ ta và cấp tiền
“welfare” cho ta và cho các con ta một cách dễ dàng nếu ta hợp
lệ. Thế là yên và thế là rảnh nợ.
Khi bắt buộc phải ly thân hay
ly dị, vợ chồng cũng nên đặt quyền lợi
của con cái lên trên hết. Làm sao phải đem lợi ích
tối đa lại cho việc học và việc phát triển
đời sống tâm hồn cũng như thể chất
của các con một cách tốt đẹp. Nếu không yêu
nhau nữa, hăy sống và hy sinh cho tương lai các con.
Dù thế nào chăng nữa, việc
vợ chồng vừa là duyên vừa là nợ. Số kiếp
đă ràng buộc với nhau, nhiều khi khổ cách mấy
cũng chưa chắc đă bỏ được nhau.
Đấy là nói số đông. Ca dao ta có câu: “Chồng ǵ anh
vợ ǵ tôi,/ Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.”
là ở trong nghĩa này.
Nhiều cặp vợ chồng dù bề
ngoài có vẻ hạnh phúc đến mấy vẫn có những
điều khổ tâm bên trong. Tṛ đời phần nhiều
là “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa đậy lại.”
V. Những Ư Kiến về Phụ
Nữ
Có một số người cho rằng,
theo phong tục Việt, người chồng dù có vợ nọ
con kia cũng vẫn thương yêu người vợ
chính thức v́ vợ cái con cột bao giờ cũng
hơn. Trái lại, một khi người vợ đă ngoại t́nh th́ họ có thể
giết chồng và bỏ con để đi với trai. Cổ
nhân có nói: “Thanh yết hoàng phong độc, tối độc
phụ nhân tâm.” Câu này có ư nói nọc của con ong vàng và con
ḅ cạp xanh rất độc nhưng không độc bằng
tâm địa người đàn bà. Tục ngữ của
ta cũng có câu: “Đàn bà giết chồng, đàn ông ai giết
vợ bao giờ.”
Trong đời sống của loài
cua, người ta cũng quan sát thấy giống cái rất
ác độc. Chuyện xưa kể rằng khi con cua cái
đến kỳ lột vỏ th́ rất yếu đuối
và không đi kiếm ăn được. Trong khi đó th́
cua đực phải đi kiếm mồi về nuôi cua
cái và canh chừng không cho các con vật khác đến sát hại
cua cái. Nhưng khi đến lượt cua đực lột
vỏ th́ cua cái lại bỏ mặc cua đực để
đi với bạn trai và c̣n đem bạn trai về cùng
nhau ăn thịt cua đực nữa. Chuyện người
chuyện vật thật là ngao ngán.
Tuy rằng
các con vật giống cái có ác độc nhưng vẫn
không ác độc và dă man bằng bọn Cộng Sản
đúng như ư của câu ca dao sau:
“Từ ngày có đất có trời,/ Không ǵ độc
ác bằng loài Việt Minh.” Chúng tôi thấy nên đổi từ
“Việt Minh” thành “Cộng nô” cho rơ nghĩa và thích hợp với
hiện t́nh. Cộng nô có nghĩa là những tên Việt
gian như Hồ tặc và bè lũ đă t́nh nguyện lài
tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản để
bán nước hại dân và đưa dân xuống hàng chó ngựa.
Hai câu ca dao “Từ ngày có đất có trời,/ Không ǵ độc
ác bằng loài Cộng nô” thật tuyệt vời ở chỗ
nó diễn tả rơ được bản chất của bọn
Cộng nô. Bản chất của bọn này là loài ác độc
và dă man kinh thiên động địa mà chúng ta chưa từng
thấy kể từ khi khai thiên lập địa tới
nay.
Trong tác phẩm The International
Thesaurus of Quotations, Eugene Ehrlich và Marshall De Bruhl đă trích dẫn
các lời nhận xét có tính cách đầy kỳ thị và
thành kiến về đàn bà của một thiểu số
những nhà soạn kịch và tiểu thuyết gia Âu Tây
như sau:
a. Kịch gia Anh, William Congreve, trong
tác phẩm The Double Dealer, 1964, đă viết: “Women, like
flames, have a destroying power, never to be quenched till they themselves
devour.” (Giống như những ngọn lửa, đàn bà có
một bạo lực phá hoại mà không thể có cái ǵ dập
tắt được cho tới khi chính họ tự làm
tiêu tan đi mà thôi).
b. Kịch gia Hy Lạp, Euripides,
đă viết trong tác phẩm Hebuba vào năm 425 trước
Tây lịch như sau: “Neither earth nor ocean produces a creature as
savage and monstrous as woman.” Câu này nghĩa là cả lục địa
lẫn đại dương đều không có thể tạo
ra được một giống vật nào dă man, mọi rợ,
và tàn ác như người đàn bà.
c. Kịch gia Hy Lạp, Menander, ở
vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch
đă viết trong tác phẩm
The Changeling câu sau: “There
are many wild beasts on land and in the sea, but the beastliest of all is
woman.” Câu này có nghĩa là có rất nhiều dă thú ở trên
đất liền và trong biển cả, nhưng con thú tàn
bạo và dữ tợn hơn tất cả là người
đàn bà.
d. Nhà viết tiểu thuyết và
truyện ngắn Hector Hugh Munto với bút hiệu Saki đă
viết trong truyện ngắn “Reginald on Besetting Sins” của tác phẩm Reginald vào năm 1904 như sau “Women and
elephants never forget an injury.” Câu này có nghĩa là đàn bà và con
voi không bao giờ quên được vết thương.
Điều này có ư nói đàn bà và con voi đều thuộc
loại “thù này oán hăy c̣n lâu, trồng tre lên gậy, gặp
đâu đánh què.”
e. Nhà văn La Mă, Publilitus Syrus, ở
thế kỷ thứ I trước Tây lịch đă viết
trong tác phẩm Mortal Saying câu sau: “Woman loves or hates: she knows no
middle course.” Câu này có nghĩa là
đàn bà chỉ có yêu hay ghét chứ họ không có thái độ
lừng chừng. Tuy nhiên, ở
nước ta và trên thế giới không thiếu ǵ những
bậc nữ lưu tài sắc và đức hạnh vẹn
toàn. Đă có nhiều bậc nữ lưu đứng ra
gánh vác việc quốc gia đại sự hay giúp chồng
tạo thành sự nghiệp hiển hách. Những ư kiến
đầy chủ quan và tiêu cực về phụ nữ của
một thiểu số các nhà văn nói trên thuộc về
trường hợp cá biệt, không thể được
coi là ư kiến của đa số quần chúng được.
Dù muốn dù không, đứng trên
cương vị khách quan, các đấng đàn ông và cả
quí vị nữ lưu cũng cần phải biết những
ư kiến và quan điểm về phụ nữ như đă được đề
cập ở trên để suy ngẫm. Các đấng
đàn ông con trai cũng liệu mà ăn ở cho phải
đạo và phải biết pḥng thân kẻo gặp đại
họa sát thân lúc nào không biết.
Thói thường là “không được
ăn th́ đạp đổ.” Nếu đă đến lúc
“t́nh nghĩa đôi ta có thế thôi,” th́ chả c̣n có ǵ là tốt
đẹp nữa và phải liệu mà xa chạy cao bay chứ
không nên dây dưa hay níu kéo nữa kẻo mang họa sát thân.
VI. Bất Khả Cải Hoán
Bất khả cải hoán là không thể sửa đổi được. Nếu không may mà có ông chồng hay
bà vợ thuộc vào loại bất khả cải hoán và nếu
muốn tránh đổ vỡ để sống chung hầu
có thể lo cho các con nên người, ta phải biết áp dụng
phương pháp nhẫn nhục.
Một người thuộc loại
bất khả cải hoán là họ không có thể thay đổi quan niệm, tính nết, hành động,
và cách ăn nói để trở thành tốt đẹp
được. Đây là
trường hợp của một người thiếu
giáo dục, thiếu trách nhiệm, không chăm nom con cái và
gia đ́nh, ngồi lê đôi mách (ngồi hết chỗ này
đến chỗ kia để bàn chuyện phiếm), lắm
điều, thích xem bói toán, tin dị đoan, thích đồng bóng, làm mất mặt
chồng hay vợ trước đám đông.
Điều tệ hại hơn nữa
là con người thuộc loại bất khả cải
hoán thường tự cao tự đại, cậy gia thế,
cậy tiền cậy của, mất nết, hỗn láo,
lăng loàn, bê tha rượu chè cờ bạc, bạ
đâu hay đó, và việc nhà
th́ dáo dác việc chú bác lại siêng năng đă ăn sâu
vào xương tủy của họ và trở thành tập
quán cùng nếp sống mà không thể nào thay đổi
được. Người vợ hay chồng nào mà ở
trong trường hợp này th́ chỉ có cách nhẫn nhục
để sống cho qua ngày hay phải ly thân ly dị mà
thôi.
Có nhiều trường hợp
người chồng hay người vợ gặp phải
người bạn đời thuộc loại bất khả
cải hoán nhưng v́ tiếng
tăm và danh giá của gia
đ́nh nên họ không dám bỏ nhau v́ sợ bị chê cười.
Hơn nữa, nếu họ đă có bày con với nhau th́ việc
bỏ nhau lại là điều không thể làm được
chỉ v́ vấn đề lương tâm và trách nhiệm
đối với con cái nên họ chỉ c̣n có cách nhẫn
nhục chịu đựng cho qua ngày mà thôi.
Sở dĩ đă có những
người nhẫn nhục chịu đựng được
khi phải sống với loại người bất khả
cải hoán là v́ ngoài việc gia đ́nh, người ta c̣n
nhiều điều lư tưởng khác để vui sống
như t́m vui trong nghề nghiệp, viết văn, làm
thơ, xem sách, t́nh nguyện làm việc thiện việc nghĩa,
đọc báo, thưởng thức âm nhạc, và dạy dỗ
con cái, v.v.
Chúng tôi đă chứng kiến những
cảnh gia đ́nh thuộc loại này mà họ vẫn sống
với nhau đến măn đời. Con cái của họ học
hành rất thành công và đă trở thành tướng tá, giáo
sư, bác sĩ, dược sĩ, v.v.
Đa số các ông chồng của
những người vợ thuộc loại bất khả
cải hoán là nhà giáo và nhà văn.
Đa số các bà vợ của những ông chồng
thuộc loại bất khả cải hoán đều làm
nghề nội trợ và buôn bán đảm đang
như vợ ông Tú
Xương.
Phương pháp nhẫn nhục của
họ là lờ đi, không khuyên bảo, không có ư kiến,
không trách móc, và không tranh luận v́ càng khuyên bảo và càng góp
ư th́ loại người bất khả cải hoán lại
càng to tiếng căi lại và nói dai như đỉa đói.
Việc này chỉ tổ làm họ nhức đầu, làm
cho hàng xóm khó chịu chê cười, và làm khổ tâm cho con
cái.
Chúng tôi đă chính mắt thấy 3
gia đ́nh mà các ông chồng có vợ thuộc loại bất
khả cải hoán. Ba ông chồng này đều thuộc loại
những người có giáo dục,
một người là nhà giáo, một người là
nhà ngoại giao, một người là nhà văn. Khi đi
làm, các ông chồng này thường đi làm sớm và khi về
th́ cố t́nh về trễ. Khi ăn cơm xong các ông liền vào pḥng hay lên gác đọc
sách, soạn bài, xem TV, xem báo, viết văn, hay chăm sóc
việc học của con cái. Hễ có dịp đi xa là các
ông đi cho đă. Các ông này c̣n thích đi hội họp hay
làm các việc công ích vừa để gặp bạn bè cho
vui vừa tránh việc gặp vợ để khỏi phải
nghe những lời trách móc hay những lời nói lảm nhảm.
Có nhiều khi người vợ
làm hay nói những việc rơ ràng là trái nhưng các ông cũng
tạm thời làm thinh để cho yên chuyện rồi sẽ
t́m cách khuyên giải sau. Nhờ vậy mà các ông đă trở
thành nhà văn nổi tiếng, nhà ngoại giao lành nghề,
nhà giáo gương mẫu, và người cha chu toàn bổn
phận. Không những thế, các ông đă tránh được cảnh
gia đ́nh đổ nát và đă tạo cho con cái có
tương lai tốt đẹp. Tất cả đều
nhờ vào sự nhẫn nhục.
Các bà mà có ông chồng thuộc loại
bất khả cải hoán thường để hết
th́ giờ vào việc buôn bán tảo tần và nuôi con. Họ
coi chồng như khách. Chồng ở nhà cũng được
hay đi rượu chè cờ bạc trai gái cũng xong mà
không lư ǵ đến. Họ chỉ cốt làm sao cho con cái có
cha và khuyên các con không được hỗn láo với bố.
Nếu có bị chồng đánh đập chửi mắng
họ cũng cam. Nhờ thế mà gia đ́nh được
sum họp và con cái nên người.
Việc nhẫn nhục đă giữ
vai tṛ thật tuyệt vời trong việc giữ ǵn hạnh
phúc gia đ́nh. Ca dao ta có câu: “Chữ nhẫn là chữ
tương vàng,/ Ai mà nhẫn được th́ càng sống
lâu” và “Một câu nhịn là chín câu lành.”
Trên đây là nói về các trường
hợp của đàn ông và đàn bà trong gia đ́nh. Riêng
đối với xă hội Cộng Sản, những con
người Cộng Sản chính tông đều thuộc vào
loại người bất khả cải hoán. Những
người bị bọn CS dụ dỗ và lừa đảo
mà đi theo CS th́ không thuộc vào loại này.
Đối với những con
người CS chính tông, ta phải loại trừ chúng để
cứu dân cứu nước chứ không thể nhẫn nhục
sống với chúng hay t́m cách biến đổi chúng thành
người yêu nước thương ṇi được
v́ càng nhẫn nhục sống với chúng th́ càng bị
chúng đưa xuống hàng chó ngựa.
Đối với loại Công nô, những
phường gian manh phản phúc và phản quốc, chúng ta
cũng không thể nhẫn nhục để sống với
chúng mà phải loại trừ bọn này ra khỏi tổ
chức của ta.
Nếu mọi người ư thức
được như thế th́ chúng ta mới mong giải
thể chế độ CSVN để đem lại tự
do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.
VII. Hăy Tận Hưởng Những
Giờ Phút Hiện Tại Với Nhau Cho Thật Tuyệt Vời.
Đời là bể khổ như
đức Phật đă dạy. Nhiều người không
hiểu nên họ luôn luôn có cuộc sống bon chen, dày ṿ
nhau, ḅn mót, quá lo xa đến nỗi quên ăn quên ngủ
và lúc nào cũng vất vả với danh quyền lợi bất
chính. Đối với những người này, cuộc sống
của họ thực là “hiện tại chán chường,
tiếc thương dĩ văng, lo lắng tương lai,
chuốc lấy ưu sầu” (thơ Khải Chính).
Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể
sống cuộc đời “ăn xổi ở th́,” tức
là sống tạm bợ được. Chúng ta cũng không
thể sống một cách “bóc ngắn cắn dài” v́ sẽ
phải mang công mắc nợ. Nhưng chúng ta phải sống
cho hiện tại một cách đầy đủ và có ư
nghĩa. Hiện tại có ư nghĩa th́ tự nhiên
tương lai sẽ sáng lạn.
Ai mà
không hy vọng ở ngày mai, nhưng điều chính yếu
là ta phải lo cho ngày hôm nay trước để có ngày
mai. Có ai bụng đói mà khi sẵn có đồ ăn lại
bảo “Thôi, đừng ăn, hăy để dành đến
ngày mai.” Chỉ có kẻ điên mới như thế.
Ăn uống đúng lúc, đúng chỗ, và đúng thứ
ḿnh ưa thích th́ thật là tuyệt vời. Chúng ta hăy thử tưởng tượng cảnh
một người chồng đang đi chơi với vợ
trong buổi trưa hè nóng nực, thèm uống chai bia mà bà vợ
lại nói: “Nhà ḿnh c̣n bia, đợi về nhà hăy uống
cho đỡ tốn anh ạ.”
Như thế th́ làm tiền để làm ǵ và sống
để làm ǵ mà khổ vậy?
Trong cuộc hội thảo hàng
năm về “Death and Bereavement” (Sự Chết và Tang Ma) tại
trường King's College ở London, Ontario, Canada, diễn ra
từ 12 đến 15 tháng 5,1996, Giáo Sư James McGregor thuộc
trường Queen's University đă phát biểu trước
450 phái đoàn của Mỹ, Canada, và 7 nước khác trên
thế giới về đây hội thảo như sau:
“People should let go of their attachment to the future because it may never
come and let go of the past because it's already gone” (Người ta nên
tách rời sự ràng buộc với tương lai v́ nó có
thể không bao giờ tới và hăy quên quá khứ v́ nó đă
qua rồi).
Chủ ư của diễn giả nhấn
mạnh về tầm quan trọng của việc vui sống
từng ngày ở hiện tại giống như ngày cuối
ta được sống vậy. Điều này không có nghĩa
ta sống không có tương lai và không liên hệ với quá
khứ. Dĩ nhiên có quá khứ mới có hiện tại, và
có hiện tại mới có tương lai. Có rất nhiều
người đă tối ngày nuối tiếc quá khứ
vàng son, đôi khi lại hối hận buồn rầu nên
đă để lỡ cơ hội tiến thân hay làm giầu.
Những người khác lại cứ trông chờ ở
tương lai, hy sinh cuộc sống hiện tại để
lo cho “bánh vẽ” tương lai. Cuộc đời của
họ quả thật là: “Đời ta chỉ những
đợi chờ,/ Những thương những tiếc
những mơ mà già” (thơ Khải Chính).
Đôi khi người ta thỏa măn
ước mơ nhưng vẫn c̣n thấy khổ v́ đạt
được ước mơ này họ lại mơ cái
khác. Đúng là: “Thỏa măn ước mơ chưa hẳn
sướng,/ Thà rằng mơ măi, sướng trong mơ,/
Đời ta chỉ những đợi chờ,/ Nhưng
thương những tiếc những mơ mà già” (thơ
Khải Chính).
Đă có nhiều người không
chịu vui sống ở hiện tại mà cứ lo dành dụm
cho ngày về hưu. Có trường hợp chưa kịp
về hưu họ đă lăn đùng ra chết. Có nhiều
người làm hai ba nghề cùng một lúc để kiếm tiền trả nợ nhà nợ
xe. Đến khi trả xong nợ th́ họ kiệt sức
mà c̣n bị tàn tật nữa và suốt cuộc đời
c̣n lại, họ không được hưởng cái ǵ
ngoài chiếc xe lăn.
Có nhiều người chồng mải
làm ngày làm đêm để lo cho tương lai, nhưng kết
quả sau cùng dẫn đến việc vợ bỏ nhà
đi theo trai và con cái đi bụi đời. Lư do chính là
ông chồng không tạo môi trường để vợ chồng
và con cái vui hưởng với nhau nên vợ phải đi
t́m vui với người khác và con cái phải bỏ nhà ra
đi.
Tiền của rất quí nhưng
không quí bằng hạnh phúc gia đ́nh. Cổ nhân ta thật
có lư khi nói: “Đời cua, cua máy, đời cáy, cáy đào,”
hơi đâu mà lo!
Mải mê với những ǵ đâu
đâu để vợ chồng không được hưởng
hạnh phúc bên nhau quả là một điều đáng tiếc.
Thật là chí lư khi nhà văn Trần Kim Vy đă viết: “Đă cưới
rồi mà không hưởng những giây phút tuyệt vời
bên nhau khi có cơ hội th́ chết sướng hơn.”
Trong đạo vợ chồng quí
nhất là sự tương kính và sự ḥa thuận. Vợ chồng yêu
thương, săn sóc, chiều chuộng, giữ ǵn, và biết
cho nhau th́ cuộc sống lứa đôi chắc chắn sẽ
hạnh phúc suốt đời. Thật là chí lư khi nhà
văn Hoàng Dược Thảo
diễn tả lời người vợ nói với chồng
trong truyện ngắn “Nhớ Anh Không, Hoàng Hôn” như
sau: “Ông hàng xóm không yêu vợ,
chỉ biết nhậu nhẹt, dơ bẩn, bà ấy dữ
là phải. Anh yêu em, thương em, em dữ với ai?”
Muốn tận hưởng những
giờ phút hiện tại với nhau cho thật tuyệt vời,
vợ chồng phải biết rộng lượng và tha
thứ cho nhau. Ngoài ra, vợ chồng c̣n phải hiểu rơ
nghĩa của câu tục ngữ sau: " Tại anh tại
ả, tại cả hai bên, hai đàng cùng tại." Câu
này có nghĩa là nếu gia
đ́nh có điều không tốt xảy ra th́ thường
do lỗi của cả vợ lẫn chồng. Vậy vợ
hay chồng phải biết tự kiểm để sửa
đổi chứ không nên đổ tội cho nhau. Có
được như thế th́ vợ chồng mới có
thể sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.
Chúng ta phải sống cho nhau và cho
hiện tại lên hương như trong ư nghĩa của
những câu thơ sau: “Thật tuyệt diệu lúc thời
son trẻ,/ Sống sao cho phải lẽ làm người,/
Chơi cho lịch mới là chơi,/ Sống sao t́nh nghĩa
vẹn đôi mới là./ Sống sao cho đời ta thoải
mái,/ Sống sao cho hiện tại lên hương,/ Cuộc
đời đă lắm chán chường,/ Chán chường
chi nữa trăm đường khổ đau./ Hăy xây dựng
cho nhau cùng hưởng,/ Dâng tâm can lư tưởng cho nhau,/
Cùng nhau ta bắc nhịp cầu,/ Nhịp cầu t́nh nghĩa
nhịp cầu yêu thương.” (Sống Cho Nhau, thơ Khải
Chính).
Luận Về Vai Tṛ của Phụ
Nữ Việt Nam
Trong Việc Xây Dựng Gia Đ́nh, Cộng Đồng, và
Đất Nước
I. Truyền Thống Đàn Bà Việt
Nam từ Trước Tháng 4 Năm 1975
1. Truyền Thống Anh Thư Của
Đàn Bà Nước Nam Trước Tháng 4 Năm 1975 và Hiện
Nay ở Hải Ngoại
a. Gương Hai Bà: Nước ta
dưới thời bắc thuộc lần thứ nhất,
111 tr. Tây lịch - 39 Tây lịch, (nhà Đông Hán), ở huyện
Mê Linh đất Phong Châu (thuộc làng Hạ Lôi, huyện
Yên Lăng, tỉnh Phúc Yên, Bắc Phần), có quan Lạc Tướng
sinh được hai người con gái, người chị
tên là Trưng Trắc và người em tên là Trưng Nhị.
Bà chị lấy ông Thi Sách, ḍng dơi vua Hùng Vương.
Năm Giáp Ngọ (34 Tây lịch), Tô
Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tên thái thú
người Tàu này đă giết
ông Thi Sách. V́ thù nhà nợ nước, bà Trưng Trắc và
Trưng Nhị chiêu tập được hơn 10 vạn
(100 ngàn) binh mă để đánh đuổi quân Tô Định.
Tô Định thua phải chạy về Tàu. Hai Bà đă hạ
được 65 thành tŕ của địch ở xứ Lĩnh
Nam thuộc Quảng Đông và Quảng Tây nước Tàu
lúc bấy giờ. Liền sau đó, Hai Bà tự xưng làm
vua gọi là Trưng Vương và đóng đô ở Mê
Linh vào năm 40 dương lịch. Hai Bà làm vua được
3 năm th́ bị Mă Viện, một danh tướng nước
Tàu tài kiêm văn vơ, sang đánh. Hai Bà thua phải chạy
đến xă Hát Môn, huyện Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây.
Dù bị thua nhưng Hai Bà không
chịu hàng giặc nên đă gieo ḿnh xuống sông Hát
Giang tự tận (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng
Hà). Bấy giờ là ngày 6 tháng 2 năm Quí Măo, tức năm
43 Tây lịch.
Qua việc chiến thắng quân Tô
Định, Hai Bà không những đă làm cho vua tôi nhà Hán phải
lo sợ mà c̣n tạo tiếng thơm muôn đời cho toàn
dân Việt. Chưa có người đàn bà nào trên thế giới
có thành tích đánh đuổi quân xâm lăng để bảo
vệ tổ quốc và tạo được sự nghiệp
hiển hách như Hai Bà. Thành tích của Hai Bà đă tạo
cho địa vị đàn bà Việt hơn hẳn địa vị
đàn bà ở khắp nơi trên thế giới. Thật
là một niềm hănh diện lớn cho chúng ta được
làm con cháu Hai Bà. Hiện nay tại làng Hát Môn, huyện Phú Thọ,
tỉnh Sơn Tây có đền thờ Hai Bà. Vua Anh Tôn nhà Lư
cho lập miếu thờ Hai Bà và phong sắc là “Trinh Linh Chi
Phu Nhân.” Đến đời nhà Trần, nhà vua lại
phong thêm tám chữ: “Uy Liệt Chế Thắng Thuần
Trinh Bảo Thuận.” Hàng năm cứ đến ngày 6
tháng 2 ta, con dân đất Việt đều làm lễ
tưởng niệm Hai Bà rất trọng thể.
Sau Hai Bà c̣n có biết bao vị anh
thư có công lớn với quốc gia dân tộc như Bà
Triệu, Công Chúa Huyền Trân, Cô Giang, Cô Bắc, và nữ anh hùng Nguyễn Thị Ngọc Hạnh.
b. Gương Bà Triệu: Vào năm
Mậu Th́n (248 Tây lịch), năm thứ 11 nhà Đông Ngô
bên Tàu, Ngô chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử
đất Giao Châu. Lúc bấy giờ ở quận Cửu Chân có người
đàn bà tên là Triệu Thị Chinh, c̣n gọi
là Triệu Trinh Nương hay Bà Triệu (sử xưa của
ta và sử Tàu thường chép là Triệu Ẩu). Bà là một
người có sức mạnh, có chí khí, lắm mưu
lược. Bà sống trong núi và đă chiêu mộ được
hơn 1000 tráng sĩ làm thủ hạ. Bà thường nói với
anh bà là Triệu Quốc Đạt rằng: “Tôi muốn
cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém
cá tràng ḱnh ở Bể Đông, và quét sạch bờ cơi
để cứu dân ra khỏi nơi đắm đưối
chứ không thèm bắt chước người đời
cúi đầu cong lưng để làm t́ thiếp người
ta.”
Quan lại nhà Ngô lúc bấy giờ
thật là dă man, chúng đă đàn áp dân ta một cách rất
tàn ác và làm cho dân ta khổ sở trăm đường nên
ông Triệu Quốc Đạt đă khởi binh đánh quận
Cửu Chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh. Quân sĩ của
Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tướng rất
can đảm nên mới tôn bà làm chủ. Khi ra trận, bà đă xưng là
Nhụy Kiều Tướng Quân, mặc áo giáp vàng, và cưỡi
voi bạch trông rất là uy nghi. Lúc đầu bà đánh
đâu thắng đó và đă chiếm giữ được
quận Cửu Chân. Quân Tàu khiếp sợ tôn bà là Lệ Hải
Bà Vương. Bà chống với quân nhà Ngô được
sáu tháng. Sau v́ quân ít thế cô, bà bị thua và phải rút quân
về xă Bồ Điền (tức xă Phú Điền, huyện
Mỹ Hóa, tỉnh Thanh Hóa) rồi tự tử ở
đó. Lúc bấy giờ bà mới được 23 tuổi. Về sau Vua Nam Đế đời
Tiền Lư (544- 548 Tây lịch) nhớ ơn bà đă sai lập
đền thờ và phong cho bà là “Bật Chính Anh Liệt
Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân.”
c. Gương Công Chúa Huyền Trân:
Công Chúa Huyền Trân có công mở mang bờ cơi nước
ta trong việc hy sinh hạnh phúc cá nhân để nhận lời
lấy vua Chiêm là Chế Mân. Lúc bấy giờ, 1301, theo dă sự,
Huyền Trân Công Chúa đă có người yêu là Trần Khắc
Chung, nhưng Thượng Hoàng lại hứa gả nàng cho vua Chiêm. V́ lễ cưới
của vua Chiêm là châu Ô và châu Ri nên Huyền Trân Công Chúa đă
vui vẻ nhận lời. Vào năm 1306 vua Anh Tông cho công chúa
về Chiêm Thành, rồi đến năm 1307 nhà vua thu nhận
hai châu Ô và châu Ri để đổi thành Thuận Châu và
Hóa Châu và đặt quan cai trị.
Trời chẳng phụ ḷng người,
sau khi Huyền Trân Công Chúa lấy Chế Mân chưa
được một năm th́ Chế Mân chết. Để
tránh cho Huyền Trân khỏi bị hỏa thiêu chết theo
Chế Mân, vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung sang gặp công
chúa và đă đưa được công chúa về nước.
Đây là truyền thống hy sinh
cho quốc gia dân tộc và truyền thống đặt việc
nước trên việc nhà và hạnh phúc cá nhân của
đàn bà Việt Nam.
d. Gương Cô Giang Cô Bắc:
Trong thời kỳ chống quân xâm lăng Pháp, chúng ta có Cô Giang (Nguyễn thị Giang) và
Cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc)
đă hoạt động tích cực chống lại
quân xâm lăng Pháp. Hai cô là đảng viên của Việt
Nam Quốc Dân Đảng.
đ. Gương Bà Nguyễn Thị
Ngọc Hạnh: Vào tháng 5 năm 2000, nữ anh hùng Nguyễn Thị Ngọc
Hạnh đă hiên ngang thiêu rụi lá đại kỳ của
bọn Việt Cộng ở trước dinh Tổng Pháp tại
Paris trong lúc đoàn xe hộ tống tên Tổng Bí thư Việt
Cộng Lê Khả Phiêu đến ngay trước cổng
điện Élysées. Bà đă làm cho tên Lê Khả Phiêu mất mặt
trong chuyến thăm nước Pháp kỳ này. Sau đó 3
tháng, tức là vào ngày 31 tháng 8, 2000, bà Nguyễn Thị Ngọc
Hạnh lại đốt lá đại kỳ của bọn
Việt Cộng và đồng thời đă thiêu rụi
căn pḥng tiếp khách trong
ṭa đại sứ của chúng tại Luân Đôn ở Anh
Quốc. Sau đó bà Ngọc Hạnh
chạy ra ngoài và căng các biểu ngữ chống chế
độ Cộng Sản Việt Nam. Một màn đặc
biệt hơn nữa là bà Ngọc Hạnh đă treo một
lá Quốc Kỳ Việt Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc
Đỏ lên ngay trên cổng chính ra vào của ṭa đại
sứ bọn Việt Cộng. Với các thành tích này, bà Nguyễn
Thị Ngọc Hạnh đă làm cho bọn Việt Cộng
phải nát đởm kinh hồn trước hành động
tranh đấu một cách phi thường của bà để
đ̣i tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.
Theo Tạp Chí Cách Mạng, số 22
của Đại Việt Cách Mạng Đảng th́ sau một
thời gian bị tạm giữ tại ty cảnh sát
Chelsea ở Luân Đôn tại Anh Quốc, bà Ngọc Hạnh
đă bị đưa ra ṭa v́
bọn Cộng Sản đưa đơn kiện bà về
các tội khủng bố, mưu sát tên đại sứ của
chúng là Nguyễn Hải Bằng, và cố t́nh gây thiệt hại
về nhân mạng và vật chất cho sứ quán của bọn
Cộng Sản.
Trong phiên ṭa
đầu tiên vào ngày 15 - 9 - 2000, các luật sư biện
hộ cho bà Ngọc Hạnh là do chính phủ Anh Quốc chỉ
định. Đó là các luật sư Lisa Rose và J. F. Passley.
Các luật sư này không nắm được t́nh h́nh và cũng
không am tường về tính chất của vụ án. Thêm
vào đó tên thông dịch viên lại có phần thiên vị về
phía ṭa đại sứ Việt
Cộng của hắn. Với diễn biến xảy ra
hoàn toàn bất lợi cho bà Ngọc Hạnh nên trước
khi phiên ṭa thứ hai xử vào ngày 13 -10 - 2000, bà Josette De
Roland Peel, đương kim Tổng Thư Kư của Tổ
Chức The British Committee For Free Vietnam, Laos, Cambodia, and Burma,
v́ cảm phục hành động tranh đấu để
đ̣i tự do dân chủ và nhân quyền cho dân Việt của
bà Ngọc Hạnh, đă nhờ Luật Sư Birnberg Peirce
đứng ra t́nh nguyện biện hộ cho bà Ngọc Hạnh
trong các phiên ṭa ngày 13- 10- 2000, 27 - 10 - 2000, và 31 - 10 - 2000 tại ṭa án West London
Magistrate Court, London, Anh Quốc.
Sau đó, bà Ngọc Hạnh lại
được đưa ra xử ở ṭa án Central Criminal
Court “Old Bailey,” London, EC4M- 7EH,
trong ngày 28 - 11- 2000 và 15 - 2 - 2001. Sau khi được tha bổng
và trước khi về Pháp, bà Ngọc Hạnh phải nằm
bệnh viện thêm một tháng nữa để điều
trị những thương tích do nhân viên an ninh Việt Cộng
tại ṭa đại sứ của bọn chúng ở Anh Quốc
gây ra.
Luật Sư Peirce đă chứng
minh trước ṭa rằng việc tranh đấu để
đ̣i tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Việt
Nam của bà Ngọc Hạnh là hành động ái quốc rất
hợp t́nh lư đúng với xu thế thời đại.
Luật Sư Peirce c̣n nhấn mạnh rằng việc tranh
đấu của bà Ngọc Hạnh không những có lợi
cho nhân dân Việt Nam mà c̣n có lợi cho toàn thể nhân dân thế
giới trong cao trào tranh đấu cho tự do dân chủ. Cộng
đồng Việt Nam hải ngoại ở khắp
nơi trên thế giới đă phát động cuộc vận
động vô cùng lớn lao trong việc can thiệp với
chính phủ Anh Quốc và các chính phủ khác để thả bà Ngọc Hạnh ra cũng
như ủng hộ tinh thần lẫn vật chất cho
bà Ngọc Hạnh, một nữ anh hùng của chúng ta. Cuối
cùng bà Ngọc Hạnh đă được toà tha bổng
để về đoàn tụ với gia đ́nh tại
Pháp.
Một sự kiện hết sức
đặc biệt trong phiên ṭa xử bà Ngọc Hạnh là
ông Chánh Án Pontius đă ca ngợi bà Ngọc Hạnh như
sau: “Bà là một người phụ nữ nhỏ nhắn,
yếu đuối, nhưng hành động của bà lại
hết sức cao cả và vĩ đại. Bà quả là một
chiến sĩ đấu tranh vô cùng can đảm mà tôi rất
cảm phục. Bà đă quên đi bản thân ḿnh để
hy sinh tranh đấu cho quê hương Việt Nam yêu quư của
bà. Nhân danh luật pháp Anh Quốc, tôi tuyên bố bà
được tự do!” Ngoài ra, Luật Sư Peirce c̣n ngỏ
lời cám ơn bà Ngọc Hạnh nữa.
Thường th́ chỉ có thân chủ
cám ơn luật sư biện hộ mà thôi, nhưng trong
trường hợp này, sau khi bà Ngọc Hạnh cám ơn
luật sư xong, ông Peirce, luật sư của bà lại
nói rằng: “Trước hết tôi xin cám ơn bà đă cho
tôi cái may mắn được dịp biện hộ cho
bà, một nữ chiến sĩ đấu tranh cho tự do
dân chủ và nhân quyền, một khát vọng của thời
đại. Thứ đến, nhờ biện hộ cho bà,
tôi mới được chứng kiến một sự kiện
quá đặc biệt mà trên 25 năm phục vụ tại
pháp đ́nh tôi chưa bao giờ thấy xảy ra. Đó là
một vị quan ṭa đă ca ngợi 'bị can' ngay tại
ṭa án.”
Nữ anh hùng Nguyễn Thị Ngọc
Hạnh quả đă làm rạng rỡ cho dân Việt và nước
Việt Tự Do chúng ta trên chính trường quốc tế! Bà Ngọc Hạnh đích thực
là tấm gương sáng muôn đời cho toàn thể
người Việt chống Cộng ở hải ngoại
noi theo để tranh đấu giải thể chế
độ Việt Cộng bạo tàn dă man ở trong nước
hầu đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho
toàn dân ta.
Ngoài các vị anh thư kể trên,
người Việt chúng ta c̣n
có biết bao nhiêu những vị nữ lưu như Bà Ba
Đề Thám và ba Phan Bội Châu, v.v.,đă từng giúp chồng
rất đắc lực trong công cuộc cách mạng cứu
nước giúp dân. Những vị
nữ lưu này quá nhiều mà chúng ta không thể kể hết
được.
2. Truyền Thống Yêu Chồng Quư
Con Và Săn Sóc Gia Đ́nh Của Đàn Bà Việt Nam trong
Nước Trước Tháng 4 năm 1975
Từ ngàn xưa, người phụ
nữ Việt đă giữ một vai tṛ hết sức
quan trong trong việc xây dựng gia đ́nh và xă hội.
Người vợ lo việc trong nhà và quán xuyến mọi
việc của gia đ́nh nên được phong là nội
tướng. Việc bếp núc, theo nếp sống Việt,
là nhiệm vụ của đàn bà đúng như câu ca dao
sau: “Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh
bếp.” Cũng v́ thế mà
vai tṛ người đàn bà càng trở nên quan trọng trong
gia đ́nh. Không có sự chăm nom chu đáo của các bà
th́ chồng con sẽ đói khổ và bị bệnh hoạn.
Mọi người trong gia đ́nh
có được khỏe mạnh hay không là do người
đàn bà có hoàn tất nhiệm vụ chuẩn bị đồ
ăn thức uống một cách chu đáo hay không. Bạn
bè của chồng con đến chơi nhà có được
vui vẻ và thoải mái hay không cũng là do sự hiếu
khách của người đàn bà trong gia đ́nh. Không ǵ buồn cho khách của chồng
bằng khi đến chơi nhà bạn mà không được
vợ của bạn ra tươi cười chào hỏi
và mời uống nước hay mời ở lại ăn
cơm. Chính v́ thế mà người Việt chúng ta đă có
câu tục ngữ: “Giầu về bạn, sang về vợ.”
Người đàn ông trong xă hội
Việt Nam có nhiệm vụ chính đối với gia
đ́nh là đi làm đem tiền về để giúp vợ
lo việc chi tiêu trong gia đ́nh. Theo phong tục Việt,
người vợ thường giữ vai tṛ của một
thủ quỹ gia đ́nh. Trong trường hợp này,
người vợ được gọi là tay ḥm ch́a khóa của
chồng.
Người đàn bà Việt chỉ
biết lo cho chồng, c̣n thân phận ḿnh th́ chẳng kể
chi như đă được diễn tả trong câu ca dao
sau: “V́ chàng cho nên thiếp phải mua mâm,/ Cả như thân
thiếp, thiếp bốc ngầm trong niêu."
Gia đ́nh có hạnh phúc là gia
đ́nh có người vợ giữ tiền bạc và lo việc
chi tiêu cho cả nhà. Nếu người đàn ông giữ tiền
và chỉ chi cho vợ tiền chợ búa th́ gia đ́nh
đó sẽ lục đục lôi thôi. Tiền anh anh giữ
tiền tôi tôi cầm th́ chả c̣n ǵ vui nữa. Người
vợ sẽ t́m cách ḅn rút tiền của chồng càng nhiều
cáng tốt để rồi: “Bây giờ tiền hết gạo
không,/ Anh ơi trở lại
mà trông lấy ḥm. / Bao giờ tiền có gạo c̣n, / Th́ tôi ở lại giữ ḥm cho anh.”
Chữ "ḥm" trong trường hợp này là cái
rương bằng gỗ để đựng quần
áo, đồ dùng, và tiền bạc, chẳng hạn như
ḥm tiền, ḥm quần áo.
Nếu người đàn ông mà
đo lọ nước mắm đếm củ dưa
hành th́ gia đ́nh đó sắp đến ngày mạt vận
v́ người đàn ông đó đă đến lúc hết
xài rồi và không c̣n ǵ xứng đáng là đấng trượng
phu nữa.
Ở Việt Nam, trong các gia đ́nh
làm nghề nông, người chồng chỉ biết lo làm
việc ngoài đồng hay vườn tược trong
khi người vợ lo liệu
mọi việc trong nhà, mua bán, giữ tiền bạc cho chồng,
và c̣n phụ chồng lo việc đồng ruộng nữa.
Người đàn ông chỉ biết làm và ăn nhậu,
tiền c̣n hay hết cũng không hay. Nếu không có đàn
bà lo liệu việc nhà bằng cách "ăn chắt để
dành" và "thắt lưng buộc bụng" th́ thật
là lôi thôi. Chính v́ thế mà tục ngữ có câu: “Chồng
như giỏ, vợ như hom.”
Ngày xưa người đàn bà c̣n
lo nuôi chồng ăn học nữa như đă được
diễn tả trong các câu thơ
và ca dao sau đây:
- Quanh năm buôn bán ở mom sông,/
Nuôi đủ năm con với một chồng. (Thơ Tú
Xương)
- Canh một dọn cửa dọn
nhà,/ Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm,/ Canh tư
bước sang canh năm,/ Tŕnh anh dậy học chứ nằm
làm chi.
- Em là con gái Phụng Thiên,/ Bán rau mua
bút mua nghiên cho chồng./ Nữa mai chồng chiếm bảng
rồng,/ Bơ công em tưới nước vun trồng cho
rau.
Không những thế, người
đàn bà Việt Nam xưa c̣n lo mọi việc hiếu hỉ
của gia đ́nh chồng cũng như thay chồng lo việc hiếu thảo
với bố mẹ chồng và gia đ́nh chồng. Trăm
thứ việc về cúng kỵ và tết nhất đều
do một tay người đàn bà lo liệu. Ông chồng chỉ
có biết đi làm tiền, ăn nhậu, và vui chơi. Nhờ
sự dè sẻn của người đàn bà mà cả gia
đ́nh được ở nhà cao cửa rộng, con cái
được ăn mặc phủ phê, có “đồng
ăn đồng để,” và được mở mày mở
mặt với đời. Để diễn tả công lao
của bà vợ, người Việt ta đă có câu tục
ngữ “của chồng công vợ.” Thật là tuyệt vời!
Chính v́ thế mà người ta
đă măïc nhiên công nhận nhiệm vụ rơ ràng của
người đàn bà Việt là lo việc trông nom cửa
nhà, dạy con, lo chợ búa nấu ăn, và lo việc hiếu
hỉ. C̣n người chồng th́ lo việc quan việc
nước và chịu trách nhiệm đi làm kiếm tiền
đưa về nuôi gia đ́nh.
Sở dĩ người đàn bà
hoàn thành được công việc nặng nhọc như
vậy là do họ đă hấp thụ được nền
nếp giáo dục lâu đời của xă hội Việt
Nam. Đó là việc hết ḷng yêu thương và hy sinh cho
chồng con, sống trọn vẹn cho đại gia
đ́nh, lấy hiếu trinh làm lẽ sống, và coi việc
đảm đang cùng thắt lưng buộc bụng lo cho
gia đ́nh là phương trâm trong mọi sinh hoạt. Điều
này đă được thể hiện trong các câu ca dao sau:
- Anh đi, em ở lại nhà,/ Hai
vai gánh vác mẹ già con thơ./ Lầm than bao quản nắng
mưa,/ Anh đi, anh liệu chen đua với đời.
- Đi đâu cho thiếp đi
cùng,/ Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.
- Có con phải khổ v́ con,/ Có chồng
phải gánh giang sơn nhà chồng.
- Chàng đi đưa gói thiếp
mang,/ Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không.
- Một ḿnh buôn tảo bán tần,/
Lo phần sưu thuế, lo phần chồng con.
- Gío đưa buồng hạnh rảnh
rang,/ Tiếng nhơ thiếp chịu, để chàng danh
thơm.
II. Người Đàn Bà Việt
Trong Nếp Sống Hải Ngoại Hiện Nay
1. Thiên Chức Đảm Đang của Đàn
Bà Việt Nam
Đă quen với nếp sống cũ
ở Việt Nam nên khi ra tới hải ngoại người
đàn bà Việt thật là cơ cực v́ vừa phải
trông nom việc gia đ́nh vừa phải đi làm kiếm
thêm tiền trong khi người chồng vẫn cứ giữ
nếp sống cũ nên khi đi làm về th́ ngồi xem
báo, coi TV, hay đi chơi với bạn bè. Việc nhà mọi
thứ đều phó mặc cho người vợ và các
con. Cảnh chồng chúa vợ
tôi vẫn c̣n thịnh hành trong một số gia đ́nh Việt
ở hải ngoại này.
Người vợ vừa đi làm
vừa phải trông nom gia đ́nh v́ một ḿnh người
chồng đi làm không kiếm đủ tiền chi dùng cho
trăm thứ trong gia đ́nh. Người đàn bà Việt
phải hoàn tất không biết bao nhiêu là bổn phận: bổn
phận làm vợ, bổn phận làm mẹ, bổn phận
nấu ăn, giặt quần áo, lau quét nhà cửa, rửa
bát đũa, lo đổ rác, và bổn phận đi làm kiếm
thêm tiền phụ vào gia đ́nh. Ôi thật là vĩ đại!
Chính v́ những lư do trái nghịch nếp
sống này mà một số các bà vợ đă phải chịu
đựng bao cảnh đắng cay. Tuy nhiên, phần
đông những bà vợ lại thật là khéo léo, biết
cách khuyên chồng, và biết cách dạy con nên gia đ́nh thật
là hạnh phúc tuyệt vời!
2. Sự Khéo Léo Của Người
Vợ Trong Việc Xây Dựng Hạnh Phúc Gia Đ́nh Người
Việt Hải Ngoại
a. Nhờ Chồng Lo Việc Chung Với
Ḿnh: Có những bà vợ đă hẹn trước với
chồng là: “Khi đi làm về nhớ đón em rồi chúng
ḿnh đi chợ chung anh nhé!” Điều này rất cần
thiết v́ có góp công, người chồng mới có dịp
chung lo và thông cảm được sự vất vả của
vợ ḿnh.
Người vợ c̣n khéo léo nhờ
chồng chọn hộ xem thứ
đồ ăn nào ngon thứ nào tốt và nên mua cái
này hay cái kia để người chồng cảm thấy
ḿnh quan trọng chứ không phải là chỉ đi theo vợ
để xách đồ hay đẩy xe. C̣n điểm
quan trọng nữa là nếu người chồng đă
góp ư th́ sau này ông ta không thể chê được món đồ mà cả vợ lẫn chồng
đă đồng ư mua. Thêm vào đó, ông ta c̣n tự khen ḿnh
nữa. Chẳng hạn câu nói sau của chàng ta: “Nhờ có
anh nên em mới mua được quả dưa ngọt
như đường cát mát như đường phèn thế
này đấy nhé!”
Khi làm bếp, bà vợ nên đánh
vào cái ưu điểm của đàn ông để nhờ
việc, chẳng hạn như bà vợ nhờ chồng một
cách khéo léo như sau: “Anh vào giúp em cái này chút; tay anh khỏe,
anh mở hộ em cái hộp này đi; cái này cao quá, em không với
tới, anh giúp em chút đi (với điều kiện ông
chồng phải cao hơn vợ mới được);
anh gọi các con vào ăn cơm đi; anh có tài pha cà phê ngon lắm, anh
giúp em nghe, v.v." Cư xử với chồng khéo léo
như vậy th́ chắc chắn gia đ́nh phải có hạnh
phúc.
b. Cộng Tác Với Chồng Trong
Việc Dạy Dỗ Con Cái: Có nhiều bà vợ gián tiếp
báo cho chồng về t́nh trạng con cái trong gia đ́nh bằng
cách nói với chồng: “Các con
nghe lời anh hơn nghe lời em. Chúng nó phục bố lắm.
Anh rất khéo léo và sành tâm lư các con, anh dạy bảo các
con là các con nghe liền đấy.
Anh cứ nói là dạo này má buồn v́ các con không chịu học
mà cứ xem TV và chơi 'video game' không à. Nhà, bếp, và pḥng
tắm bẩn lắm đó, đứa nào nhận lau
đă lau chưa? Các con chịu khó làm ngay kẻo má buồn
lắm đó!”
Từ đó, chúng ta rút ra được
cách giáo dục con cái cho có hiệu quả. Đó là cách giáo dục
gián tiếp. Hăy mượn oai của mẹ hay oai của bố
để dạy các con, hăy lấy t́nh thương của
con cái đối với mẹ hay bố để khích lệ
chúng. Bố mẹ chung sức để dạy con cái th́ mới
có hiệu quả. Phải giữ
ǵn đừng bao giờ nói với các con là: “Mẹ mày th́
biết ǵ hay bố mày th́ biết ǵ, nghe lời tao mới
được.” Vợ phải
tỏ ra coi trọng chồng và chồng phải tỏ ra
coi trọng vợ trước mặt các con th́ vợ chồng
mới có uy tín dạy bảo các con được.
c. Nghệ Thuật và Tâm Lư Săn
Sóc Chồng: Có nhiều nhiều gia đ́nh người Việt
chúng ta ở hải ngoại này rất hạnh phúc là nhờ
người vợ có nghệ thuật đối đăi với
chồng và sành tâm lư của chồng. Các bà biết là người
chồng nào cũng muốn vợ ḿnh để ư tới sở
thích của họ. Nếu người chồng hút thuốc
lá, thích uống rượu, thích đeo cà vạt, thích đọc
sách, v.v. th́ mỗi khi đi chợ hay đi xa về, bà vợ
thường mua cho chồng bao thuốc mà chồng thích hút,
mua chai rượu mà chồng thích uống, chọn mua cái cà
vạt chồng thích đeo, và chọn mua loại sách mà chồng
thích đọc, v.v.
Ngoài ra, có những bà vợ đă
đem hết tâm huyết phụ giúp chồng trong các công
tác xây dựng và phát triển cộng đồng người
Việt hải ngoại. Có một bà đă t́nh nguyện
đứng ra lo việc nấu ăn ngày 3 bữa trong suốt
9 ngày cho khoảng 200 thành viên của Ban Tổ Chức Gian
Hàng Văn Hóa Saigon Pavilion Caravan's 1992 tại Toronto, Canada. Cũng
có những bà vợ đă góp ư với chồng trong việc
viết văn và làm thơ cũng như trong kế hoạch xây dựng cộng
đồng. Đây là nghệ
thuật của người vợ để làm người
chồng cảm động và yêu thương vợ
hơn. Do đó người chồng sẽ nghĩ là chỉ
có vợ ḿnh là hiểu được ḿnh, chiều ḿnh,
chung vai sát cánh với ḿnh mà thôi.
Có nhiều bà vợ đă giữ thể
diện cho chồng bằng cách nếu có ai nhờ ḿnh làm
điều ǵ th́ thường trả lời là: "Để
tôi hỏi ông nhà tôi đă." Nhiều bà c̣n sành tâm lư chồng
ở điểm chú trọng tới cái hănh diện của
người đàn ông là thích che chở cho phái nữ và tự
hào ḿnh là cột trụ của gia đ́nh, khỏe, bảnh
trai, và oai vệ, v.v. Chính v́ thế mà các bà vợ thuộc
loại này không bao giờ chê chồng ḿnh là yếu x́u, vô
tích sự, hay bất lực với hoàn cảnh, v.v. Các bà vợ
Việt Nam thường giữ thể diện cho chồng
nên ở trước công chúng hay trước mặt bạn
bè, họ luôn luôn tôn trọng
chồng ḿnh v́ họ tin là xấu chàng hổ thiếp. Họ
không bao giờ nói xấu chồng với bạn bè hay
trước công chúng. Có ǵ không đồng ư với chồng,
họ đợi về nhà sẽ xây dựng cho chồng.
V́ sành về tâm lư chồng, các bà vợ
Việt Nam biết rằng khi để tâm yêu thương
chăm sóc chồng con, người vợ sẽ được
chồng để ư chăm sóc trở lại. Thói đời
là có qua có lại. Khi chồng được hưởng
những điều đặc biệt do vợ làm cho,
người chồng cũng để ư và làm cho vợ những
điều vợ thích mà c̣n làm gấp mấy lần
hơn thế nữa. Chính v́ thấy vợ ḿnh hết ḷng
lo cho chồng con và gia đ́nh, các ông chồng thường
rất cảm thông và lựa lời an ủi và khuyến
khích vợ ḿnh. Nhờ để ư đến tâm lư của
vợ nên các đấng ông chồng mới hiểu rằng vợ ḿnh rất
cần sự thông cảm và hiểu biết của ḿnh trong mọi công việc.
Các bà vợ cũng chả cần
ǵ miễn là chồng con biết được sự vất
vả của họ và hiểu được nỗi lo âu
của họ. Đôi khi chỉ một lời hỏi han, một
cử chỉ vỗ về, hay ánh mắt tŕu mến cũng
là niềm an ủi vô biên cho bà vợ rồi. Ca dao có câu “Chả
được ăn thịt ăn xôi, / Cũng được
lời nói cho tôi bằng ḷng” là ở trong ư này. Người
chồng đôi khi chỉ cần nói: “Em anh vất vả
quá, có cần anh giúp ǵ không?” cũng đủ làm bà vợ
sung sướng rồi. Nếu vợ ḿnh không muốn ḿnh
rửa bát hay quét nhà, ông chồng nên làm những chuyện
này khi các bà vắng mặt. Về tới nhà mà thấy nhà cửa
ngăn nắp và bát đĩa đă được rửa
sạch sẽ th́ các bà sẽ cảm động và sung
sướng vô ngần. Đây là hành động
thương vợ một cách cụ thể. Câu thơ “Một
lời đă biết đến ta, / Muôn chung ngh́n tứ cũng
là có nhau” của Nguyễn Du đă viết trong truyện Kiều
thật là tuyệt vời trong trường hợp này vậy.
Các bà vợ hiền thục và đảm
đang đă tạo được hoàn cảnh để
giúp cho gia đ́nh hạnh phúc, giúp các con ngoan ngoăn và học
hành thành đạt cũng như
làm cho ông chồng yêu con
và quí vợ hết ḷng. Ở xă hội Việt Nam Tự Do
trước tháng 4 năm 1975, người đàn bà luôn luôn
là người giữ vai tṛ chính trong việc tạo hạnh
phúc gia đ́nh. Đă có rất nhiều bà vợ cố gắng
vượt qua mọi thử thách để giữ cho gia
đ́nh hạnh phúc. Đó là sự hy sinh vô bờ bến vậy.
Đă có rất nhiều bà mẹ âm thầm làm việc giúp
xă hội bằng cách nuôi dạy con cái thành những công dân
xứng đáng cho xă hội. Biết bao bà vợ giúp chồng
tạo thành sự nghiệp vẻ vang để góp công kiến
tạo đất nước. Nhờ có những bà mẹ,
bà vợ, và bà chị đảm đang như thế mà cộng
đồng người Việt hải ngoại mới
phát triển được như ngày nay.
III. Tổng Luận
Những ai đă theo dơi sự phát
triển của cộng đồng người Việt hải
ngoại đều phải ghi nhận công lao, tài ba, và sự
tháo vác của quí bà và quí cô trong sự đóng góp vô song vào việc
tạo dựng mái ấm gia đ́nh Việt Nam hải ngoại.
Mặc dù cơ cực, qui bà và quí cô vẫn giữ
được những ṿng tay của người mẹ
hiền vợ đảm để lo cho gia đ́nh xă hội
và làm rạng rỡ cho đàn bà nước Nam.
Với truyền thống yêu chồng
quư con và lo cho gia đ́nh của phụ nữ Việt, chúng
ta tin tưởng vững chắc rằng gia đ́nh Việt
sẽ là những gia đ́nh kiểu mẫu trong nếp sống
ở Bắc Mỹ này, những
người con của gia đ́nh Việt sẽ măi là những
người học tṛ ngoan và giỏi vào bậc nhất thế
giới, và những người chồng Việt Nam cũng
là những người chồng có diễm phúc nhất trên
trái đất này.
Với sự góp sức của các
bà mẹ hiền vợ đảm
cùng với truyền thống của các vị anh
thư và các nữ chiến sĩ Việt Nam, cộng đồng
người Việt hải ngoại sẽ góp công tích cực
trong việc giải thế chế độ Cộng Sản
nơi quê nhà để đem tự do dân chủ và nhân quyền
cho toàn dân. Được như thế, chắc chắn thế
nào chế độ “Xuống Hàng Chó Ngựa” của bọn
Cộng Sản Việt Nam cũng bị giải trừ
trong thời gian gần đây và toàn dân Việt sẽ vui
hưởng hạnh phúc ấm no tự do dân chủ một
cách vĩnh cửu.
Văn Pháp Tiếng Việt và Tiến
Tŕnh Viết Văn
I. Dẫn Nhập
1. Văn Tự Của Người
Việt
Ở bất cứ nơi nào, hễ
có con người là có tiếng nói riêng của giống
người đó. Tiếng nói của người Việt
đă có từ hồi con người Việt xuất hiện
trên trái đất này. Tiếng nói có trước văn tự,
ngữ pháp, văn phạm, và văn pháp. Lời nói tự
nó đă có ngữ pháp, văn pháp, và văn phạm nếu lời
nói đó có ư nghĩa mạch lạc và làm cho người
nghe hiểu rơ ràng. Tuy nhiên, chữ viết cùng với ngữ
pháp, văn phạm, và văn pháp được phát minh là
để dùng trong việc giáo dục, cai trị, liên lạc,
và lưu giữ tư tưởng cùng các phát minh của tiền
nhân cho hậu thế.
Tiếng nói hay lời nói được
gọi là ngôn ngữ. “Lời viết” hay chữ viết gọi
là văn tự. Về văn tự c̣n lưu lại, từ
trước tới nay dân tộc ta đă dùng các loại
văn tự sau:
- Chữ Nho, tức là lối chữ
viết của người Trung Hoa, được dùng
trong thời kỳ quân Tàu sang đô hộ nước ta, Bắc
Thuộc Thời Đại, từ năm 207 trước
Tây lịch, đời Triệu Vũ Vương, cho đến
năm 939 Tây lịch, đời Ngũ Quí. Chữ Nho c̣n
được thịnh hành suốt trong thời kỳ Tự
Chủ Thời Đại nữa (939-1802). Trong khoảng gần
9 thế kỷ ấy, các triều đ́nh nước ta vẫn
lấy chữ Nho làm quốc gia văn tự. Trong dân gian,
các khế ước, chúc thư, và các sổ sách đều
dùng chữ Nho cả.
Khi quân Tàu sang chiếm nước
ta, dân ta c̣n ở trong t́nh trạng bán khai nên đă chịu ảnh
hưởng của người Tàu từ chính trị, xă hội,
giáo dục, luân lư, tôn giáo, đến phong tục. Dân ta học
chữ Nho, theo đạo Nho, và hấp thụ tư tưởng
cùng học thuật của Tàu.
- Chữ Quốc Âm hay chữ Nôm là
thứ chữ được tiền nhân ta đặt ra bằng
cách biến chế từ chữ Nho, dùng nguyên chữ Nho, hoặc
ghép các bộ phận của chữ Nho lại để
đọc theo tiếng nói của người Việt Nam.
Chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ VIII, đời
Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương). Đến
cuối thế kỷ thứ XIII, thời ông Hàn Thuyên (Nguyễn
Thuyên), đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), người
ta đă dùng chữ Nôm để viết văn. Rồi tiếp
theo đó là đến thời Nguyễn Aùnh, hồi c̣n
xưng vương (1778-1802), và chưa b́nh định xong
Nam Bắc, các chỉ dụ, sắc lệnh, và công văn
được viết toàn bằng chữ Nôm.
- Chữ Quốc Ngữ là thứ
chữ đă được các giáo sĩ người Âu
sang truyền giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ
XVII đặt ra bằng cách lấy các mẫu tự (chữ
cái) La Mă để phiên âm tiếng nói của người Việt
Nam. Mục đích của việc sáng tác ra chữ quốc
ngữ là để đáp ứng nhu cầu của việc
dịch sách và soạn sách về đạo Thiên Chúa cho các
con chiên đọc.
Người có công lớn nhất
trong việc sáng tác ra chữ quốc ngữ là ông Alexandre De
Rhodes v́ vào năm 1651 ông đă soạn ra cuốn tự
điển Dictionarium Annamiticum, Lusitanum, et Latinum (Tự
Điển An Nam, Bồ Đào Nha, và La Tinh) để giúp
đời sau có sách để tra cứu. Tuy nhiên, trong buổi
sinh hoạt của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Ontario vào
ngày 28-7-2001 tại Ottawa, học
giả Việt Chi Nguyễn Hữu Quang đă tŕnh bày rằng
chữ quốc ngữ của ta là do một vị cố
đạo người Nhật Bản chế ra. Nói chung,
chữ quốc ngữ của ta là do công của nhiều
người gồm các vị cố đạo và cả những
người Việt, từ người b́nh dân đến
các bậc trí thức, đă hợp tác với nhau để
sáng chế ra chứ không phải
chỉ do công của ông Alexandre De Rhodes chế ra mà
thôi.
2. Định Nghĩa về Ngôn Ngữ,
Tộc Ngữ, Quốc Âm, Việt Ngữ, Việt Văn,
Văn Tự, Ngữ Pháp, Văn Pháp, và Văn Phạm
a. Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ, Quốc
Âm, Việt Ngữ, và Việt Văn: Ngôn ngữ là âm thanh có
ư nghĩa và hệ thống mà loài người dùng để
liên lạc, cảm thông, và diễn đạt tư tưởng
với nhau. Tộc ngữ là
ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc. Quốc âm là tiếng
của một nước. Việt
ngữ là tộc ngữ, tiếng nói, hay “lời nói” của
dân tộc Việt. Việt văn là “lời viết” hay
văn chương của ngựi Việt.
b. Ngôn Ngữ và Văn Tự: Nói ra
lời là ngôn ngữ, viết ra thành chữ là văn tự.
Như trên đă nói, loài người có tiếng nói trước
trước khi có văn tự. Tuy nhiên, v́ ngôn ngữ là
chính và văn tự là phụ nên người ta dùng ngôn ngữ
để chỉ cả “lời nói” lẫn “lời viết.”
Trong khi đó văn tự dùng để chỉ “lời viết”
mà thôi.
c- Ngữ Pháp: Ngữ pháp là phép xếp
đặt “lời nói” và “lời viết” cho đúng. Điều
này có nghĩa là ngữ pháp áp dụng cho cả lời nói
thường ngày và lời viết hay văn chương.
d-Văn Pháp và Văn Phạm:
Văn pháp và văn phạm nói chung là khuôn phép viết
văn hay làm văn. Văn pháp
(syntax) là cách viết câu văn c̣n gọi là cú pháp, tức là
cách phối hợp những chữ theo một quy luật
để thành một câu văn. Văn pháp tiếng Việt
là phép viết văn hay làm văn bằng tiếng Việt.
Văn phạm (gammar) là mẹo luật hay cách viết một
thứ tiếng nói.
3.Yếu Tố Chính trong Văn Pháp
Các yếu tố chung của văn
pháp tiếng Việt hay bất kỳ tiếng nước
nào: lời văn, cú pháp, dấu chấm câu, nội dung, và
chủ đề. Lời
văn phải chân thành, trong sáng, ngắn gọn, mạch lạc,
uyển chuyển, nhẹ nhàng, trang nhă, lịch sự, và có
ư nghĩa để giúp người đọc cảm thấy,
nghe được, cũng như h́nh dung ra những ǵ nhà
văn muốn viết. Cú pháp là nói về phép tắc dùng tiếng
để đặt câu văn cho chỉnh, tức là
văn phải thành cú. Các dấu
chấm câu gồm dấu chấm, dấu phết (phẩy),
dấu chấm phết, hai chấm, dấu ngoặc
đơn, dấu ngoặc kép, dấu chấm than, và dấu
hỏi phải phải được sử dụng cho
đúng cách hầu giúp cho câu văn được mạch
lạc và có ư nghĩa rơ ràng. Nội
dung bài viết phải có tính chuyên chở tư tưởng
để thuyết phục được độc giả,
tức là văn dĩ tải đạo. Chủ đề là vấn đề
chính mà tác giả muốn tŕnh bày trong một bài văn hay
bài thơ. Một bài văn, một bài thơ, cũng
như một tác phẩm phải có chủ đề, bố
cục, và phân đoạn rơ ràng.
II. Tiến Tŕnh Viết Văn
Muốn viết văn cho hay, nhà
văn phải kiên nhẫn, có nghị lực, biết tập
trung tư tưởng để hoạch định và suy
nghĩ về đề tài sáng tác cùng tiến tŕnh viết
văn. Tiến tŕnh viết văn gồm 5 giai đoạn:
chuẩn bị viết, viết bản thảo, sửa bản
thảo, đọc lại bản thảo lần cuối,
và liệt kê tài liệu tham khảo.
1. Chuẩn Bị cho Việc Viết
Văn
a. Chọn và Giới Hạn Đề
Tài: Nên chọn đề tài
thuộc phạm vi ḿnh đă có kinh nghiệm. Những ǵ nhà
văn đă thấy, đă đọc, và đă nghe là điều
cốt yếu giúp cho việc viết văn thành công. Điều
này có nghĩa là nhà văn phải có kinh nghiệm sống về
những điều ḿnh muốn viết th́ tác phẩm mới
có giá trị. Trong những kinh nghiệm sống này, nhà
văn cần chọn những ǵ ḿnh thích thú, quan tâm, và tin
tưởng nhất để viết. Muốn bài văn được
rơ ràng và minh bạch, nhà văn cần phải biết giới
hạn đề tài. Việc giới hạn đề tài
rất là cần thiết. Nhà văn cần giới hạn
đề tài để có thể tập trung vào phần mà
ḿnh có sở trường để viết cho đầy
đủ. Nhà văn có giới hạn đề tài để
viết th́ đọc giả mới dễ theo dơi và mới
hiểu được đại ư của tác phẩm.
b. Ấn Định Mục Đích
cho Bài hay Tác Phẩm Ḿnh Định Viết: Mục đích
tức là lư do khiến ḿnh cầm bút viết, chẳnh hạn
như viết để thuyết phục độc giả
về những ǵ ḿnh sắp viết, viết để mua
vui cho độc giả, hay viết để làm cho độc
giả nghe thấy, cảm thấy, hay nh́n thấy những
ǵ ḿnh định viết ra. Để đạt
được mục đích khác nhau, nhà văn cần áp dụng
lối viết khác nhau.
c. Viết Cho Thành Phần Độc
Giả Nào? Trước khi viết,
nhà văn phải biết ḿnh định viết cho thành phần
độc giả nào, chẳnh hạn như thành phần
người lớn, thanh niên, học sinh, trẻ em, quần
chúng, những người mới vào nghề, hay các chuyên
gia. Đối với mỗi đối tượng, nhà
văn phải dùng cách viết và cách tŕnh bày cùng chi tiết
và ngôn ngữ làm sao cho thích hợp
với tŕnh độ hiểu biết của họ.
Nhà thơ không có độc giả
v́ nhà thơ thường chỉ đối thoại với
một người hay cảnh vật mà thôi. Nhà văn th́
khác, nhà văn cần độc giả nên phải luôn luôn
đặt địa vị ḿnh vào địa vị độc
giả mỗi khi viết văn. Phải h́nh dung ra nét mặt
của độc giả ḿnh để xem họ có tỏ
ra hiểu ư ḿnh hay chán nản khi đọc tới những
ḍng ḿnh đang viết. Có như thế nhà văn mới
mong thành công trong việc viết văn được.
d. Thu Thập Tài Liệu Giúp cho Việc
Viết Văn: Khi thu thập các tài liệu, nhà văn phải
nhớ mục đích và thành phần độc giả
để gom góp tài liệu cho thích hợp. Viết văn
là để thuyết phục độc giả tin vào những
điều ḿnh viết. Chính v́ thế, ngoài tài liệu trong
sách báo và thư từ liên lạc với bằng hữu,
nhà văn c̣n phải phỏng vấn hay hỏi ư kiến từ
những người có thẩm quyền hay thảo luận
với những người có kinh nghiệm về đề
tài ḿnh định viết.
Nhà văn c̣n phải thu thập tài
liệu bằng cách ghi chép ngay vào sổ bất cứ những
ǵ hiện đến trong óc hay những ǵ quan sát và đọc
được về đề tài ḿnh định viết.
Có khi nhà văn c̣n phải chụp h́nh, thu băng, hay quay
phim các diễn tiến sự việc để làm tài liệu
viết văn.
Muốn viết cho có kết quả,
nhà văn phải đọc thật nhiều. Tôi c̣n nhớ
được một câu của nhà văn kiêm nhà ngôn ngữ
học và thi sĩ Samuel Johnson (1709-1784) trong một tác phẩm
nào đó: “Để viết một cuốn sách, nhà văn
phải tham khảo một nửa số sách có trong thư
viện” (The greater part of a writer's time is spent in reading. A man
will turn over half a library to make one book).
e. Chọn Lựa và Sắp Đặt
Tài Liệu Cho Hợp với Nội Dung của Tác Phẩm:
Khi có đủ tài liệu, nhà văn cần chọn những
tài liệu thích hợp nhất rồi xếp theo từng
loại. Những tài liệu có cùng liên hệ về nội
dung phải được xết thành từng nhóm. Những
sự kiện xảy ra nên xếp theo thứ tự thời
gian và nơi chốn.
2. Viết Bản Thảo (Nháp)
Sau khi việc chuẩn bị đă
hoàn tất, nhà văn phải bắt đầu viết
ngay và viết nhanh v́ trong khi viết ư tưởng sẽ nảy
sinh và tuôn ra dào dạt.
Những người có kinh nghiệm
viết văn thấy việc bắt đầu viết mới
là việc khó khăn. Khi đă bắt đầu viết
th́ mọi sự sẽ tiến triển tốt đẹp.
Muốn đạt được việc này, chúng ta cứ
viết, đừng để ư tới văn phạm hay
văn pháp.
Hăy cố gắng tŕnh bày tư
tưởng theo tài liệu đă sưu tầm và ghi chép. Hăy
viết theo bố cục đă định và theo mục
đích đă vạch ra.
Trong khi viết, ta sẽ có những
ư tưởng mới xuất hiện. Có khi ta viết
đi viết lại một đoạn văn nhiều lần
mới ưng ư.
Khi viết, ta nên viết tự
nhiên theo lối hành văn của ḿnh, đừng cố bắt
chước cách viết của người khác. Nên dùng chữ
giản dị dễ hiểu giống như khi ḿnh nói chuyện
với bạn bè và nên dùng các câu ngắn gọn.
Trong mỗi đoạn văn, ta
nên diễn đạt tóm tắt ư tưởng này vào trong một
câu gọi là câu chủ đề, rồi sau đó, ta diễn
giải ư tưởng này cho rơ. Trong mỗi đoạn
văn, ta nên diễn đạt một ư tưởng mà
thôi.
Nếu cần, ta nên dùng thí dụ
để làm sáng tỏ điều ḿnh muốn tŕng bày.
Cuối cùng, ta phải h́nh dung ra những
thắc mắc của độc giả về những ǵ
ta đang viết. Có như thế bài viết của ta mới
rơ ràng và súc tích.
Ngày nay, ta viết văn bằng máy
vi tính (computer) nên việc viết văn lại trở nên rất
dễ dàng. Ta có thể vừa viết vừa sửa bài một
cách nhanh chóng. Chúng ta nên viết liên tục đến khi
xong tác phẩm rồi cố gắng đọc lại ngay
để sửa sơ qua lần đầu. Sau đó, ta
nên nghỉ một lúc trước khi sửa lần thứ
hai. Nếu có th́ giờ, ta nên đọc lại nhiều lần
bài đă viết để sửa v́ càng đọc lại,
ta càng thấy lỗi về cú pháp, chính tả, và lỗi về
cách diễn đạt ư tưởng.
3. Sửa Bản Thảo
Bản thảo đầu tiên là bản
có rất nhiều lỗi. Ta nên so sánh những điều
đă viết với tài liệu đă sưu tầm
được để xem có chính xác không. Trong kỳ sửa
lần này, ta chưa cần phải để ư đến
văn phạm và văn pháp mà phải để ư đến
nội dung bài viết. Không chú tâm về văn phạm và
văn pháp, nhưng nếu thấy các lỗi về văn
phạm và văn pháp ta vẫn phải sửa ngay.
Ta cần gọt giũa, diễn giải
thêm, và làm trong sáng bài viết. Sửa đi sửa lại
nhiều lần càng tốt. Đă có nhiều nhà văn
đă sửa tác phẩm của ḿnh đến hàng chục
lần mới hoàn tất. Ta cần tự hỏi những
câu hỏi sau để t́m ra các khuyết điểm:
- Tác phẩm đă đáp ứng mục
đích đề ra hay không?
- Nội dung có thích hợp với
loại độc giả ta nhắm tới hay không?
- Bài viết có gắn liền với
chủ đề hay không?
- Có ư nào dư thừa không? Nếu
có thể cắt bớt đoạn văn mà bài vẫn
đủ ư th́ nên cắt bớt. Những ǵ viết ra phải
cần thiết, tránh những điều dư thừa và
lập lại một cách vô ích. Nên nhớ rằng nếu
đă diễn tả đầy đủ ư tưởng th́
bài viết càng ngắn càng tốt.
- Lập luận có vững không?
- Sự sắp xếp ư tưởng
có hợp lư hay không?
- Các ư tŕnh bày có trôi chảy, rơ ràng,
dễ hiểu, và hợp lư không?
- Việc dùng chữ có chính xác không?
- Và quan trọng hơn hết là bài
viết có hấp dẫn, lôi cuốn, và chinh phục
được độc giả không?
Ta nên nhớ rằng viết là tŕnh
bày tư tưởng một cách hữu lư, mạch lạc,
hẫm dẫn, và thuyết phục được người
đọc. Muốn chắc chắn một tác phẩm
được hoàn hảo, ta cần phải:
- Đọc to toàn bài của ḿnh nếu
có thể. Khi đọc to, ta sẽ dễ thấy những
điều sai sót nghe chướng tai và như thế ta dễ
nhận ra lỗi để sửa.
- Nhờ người khác đọc
và cho ư kiến, chẳng hạn như nếu bài viết nhắm
vào thanh niên, ta nên nhờ một thanh niên đọc và cho ư
kiến.
- Viết và sửa xong tác phẩm rồi,
ta hăy để tác phẩm đó trong một thời gian rồi
lấy ra đọc lại. Khi đọc lại, ta chắc
chắn sẽ thấy có thêm nhiều điều cần phải
sửa. Chính v́ thế, khi viết xong một tác phẩm rồi
mà ta có ư định gửi đi in, ta hăy giữ tác phẩm
này lại khoảng độ hai tuần lễ để
đọc cho kỹ. Có như thế, tác phẩm của ta
mới bớt đi các lỗi, nhất là các lỗi về
ư tưởng, cú pháp, và văn pháp. Chúng tôi muốn nói là
"bớt đi" các lỗi thôi chứ không dám nói chắc
là đă hoàn hảo.
4. Đọc Lại Bản Thảo
Lần Cuối
Việc
sửa bản thảo đă xong, ta viết lại và cho in
ra để đọc lần cuối. Lần này ta chú trọng
về mặt văn phạm và văn pháp. Điều cần
nhất là xem cú pháp có chỉnh không? Dấu chấm câu có
đúng cách không? Các chữ viết hoa và chính tả đă
đúng chưa?
Sau khi sửa, ta đọc lại
để kiểm soát từng lỗi đă mắc phải
để chắc chắn là chúng ta đă sửa hết các
chỗ sai. Mục đích lần sửa kỳ này là làm cho
bài viết của ta rơ ràng và đúng cách.
Nếu có thể, ta đem bài đă
viết để tŕnh bày trước công chúng, để dạy
học, hay thảo luận với bạn bè. Việc này sẽ
giúp ta thấy các điều thiếu sót. Có như thế
ta mới cải tiến các khuyết điểm trước
khi cho xuất bản.
Đă viết văn ai cũng mắc
phải sai lầm kể cả những nhà văn đă
thành danh và các nhà văn vào bậc thầy. Có một điều
là nếu ta cẩn trọng trong khi viết văn và sửa
đi sửa lại bài sau khi viết th́ bài viết của
ta sẽ có ít sai sót chứ chưa hẳn đă hoàn hảo
được. Muốn hoàn hảo, ta phải nhờ
người khác góp ư và sửa bài cho ta.
5. Liệt Kê Tài Liệu Tham Khảo
Sau khi hoàn thành bài viết hay một
tác phẩm, ta phải liệt kê các tài liệu tham khảo ở
ngay cuối mỗi bài trong trường hợp gửi
đăng báo hay cuối mỗi tác phẩm. Đây là điều
bắt buộc phải làm đối với các loại bài
hay tác phẩm có tính cách nghiên cứu và sưu tầm.
Tài liệu tham khảo giúp ta rất
nhiều trong khi viết văn. Tác phẩm của ta có giá
trị hay không là do ta co đủ tài liệu chính xác hỗ
trợ những lập luận của ta hay không. Việc liệt kê tài liệu tham
khảo phải theo thứ tự
và tiêu chuẩn như sau: tên
tác giả, tên sách hay tên tờ báo, tên nhà xuắt bản,
nơi xuất bản, và năm xuất bản. Nếu tham
khảo một bài văn hay bài thơ được trích
trong một quyển sách hay tờ báo, ta phải ghi tên tác giả,
tựa của bài văn hay bài thơ, tên sách hay tên tờ
báo mà bài văn hay bài thơ được trích dẫn (nếu
là tờ báo, ta phải biên thêm số báo, ngày, và nơi phát
hành), tên nhà xuất bản, nơi xuất bản, và năm
xuất bản.
Mỗi chữ của tên sách hay tên
tờ báo đều phải được viết hoa. Nếu
viết tay, ta phải gạch dưới tên sách hay tên tờ
báo, nếu đánh máy hay in, ta phải dùng loại chữ
nghiêng. Mỗi chữ của tựa
bài băn hay bài thơ đều phải được viết
chữ hoa và phải để tựa bài này trong dấu ngoặc
kép. Sau đây là vài thí dụ về việc liệt kê các
sách tham khảo:
- Nếu tham khảo cuốn Nho Giáo
của Trần Trọng Kim và bài thơ “Chia Nhau” của nữ
sĩ Ư Nga trong thi tập Góp Lửa, để viết bài,
ta phải ghi ở cuối bài viết như sau:
Sách Tham Khảo:
1. Lệ Thần Trần Trọng
Kim, Nho Giáo, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục, Saigon,
1971.
2. Ư
Nga, “Chia Nhau” Góp Lửa, Nhà Xuất Bản Anh Em, Oslo, Norway,
4/2000.
Nếu tham khảo bao nhiêu tác phẩm
th́ phải liệt kê bấy nhiêu tác phẩm. Đây là nói về
trường hợp khi ta chỉ viết một bài để
gửi đăng báo th́ ta phải liệt kê những tài liệu
tham khảo cho bài ấy. Tuy nhiên,
đối với các bài được đăng
chung trong một tác phẩm người ta không liệt kê
tên các tài liệu tham khảo. Những tài liệu tham khảo
này được đăng chung ở cuối tác phẩm
mà thôi.
Cuối mỗi bài văn, bài thơ,
hay mỗi tác phẩm, ta cần ghi ngày tháng năm đă hoàn
tất bài hay tác phẩm. Riêng đối với tác phẩm
đă được xuất bản, nhà xuất bản có
trách nhiệm phải đề năm xuất bản hay
năm tái bản tác phẩm. Ngoài ra, thường thường
người ta c̣n đề ngày tháng năm ngay dưới
các bài "Lời Nói Đầu," "Tựa" (bài viết
ở đầu cuốn sách để chỉ dẫn ư
trong sách), hay "Bạt"
(bài viết ở cuối cuốn sách hay dưới bức
họa). Điều này rất
quan trọng cho việc nghiên cứu văn học.
Cú Pháp Tiếng Việt
I. Cú Pháp
Cú pháp là phép tắc dùng các tiếng
để đặt câu văn cho chỉnh. Cú pháp là linh hồn
của ngôn ngữ. Muốn viết văn cho đạt và
muốn nói cho hay, ta phải sành về cú pháp. Muốn sành về
cú pháp, ta phải hiểu thế nào là câu văn, các loại
câu văn, mệnh đề, các loại mệnh đề,
cùng cấu trúc của chúng.
II. Câu Văn
Câu văn là sự kết hợp của
nhiều tiếng để diễn tả một sự việc
(sự t́nh) hay nhiều sự việc một cách đầy
đủ, có ư nghĩa, và có liên quan với nhau.
Khi nói hết một câu, ta ngừng
lại hay thôi không nói nữa. Khi viết một câu văn,
ta viết hoa mẫu tự đầu của chữ ở
đầu câu. Ở cuối mỗi câu, tùy từng trường
hợp, ta dùng dấu chấm (.), dấu chấm hỏi
(?), dấu chấm than (!), hay ba chấm (...). Trong một
câu, ta c̣n dùng dấu phẩy (,) và chấm phẩy (;) để
phân các chữ, các nhóm chữ, và các mệnh đề. Mỗi
câu văn gồm có một hay nhiều mệnh đề.
III. Mệnh Đề
Mệnh đề là lời diễn
tả kết quả của một sự phán đoán. Nếu
có đầy đủ ư nghĩa, một mệnh đề
tự nó đă là một câu. Đó là câu đơn. Nếu
trong một câu có nhiều mệnh đề th́ câu đó là
câu tổng hợp hay câu phức.
Các mệnh đề được
xếp thành ba loại: mệnh đề độc lập,
mệnh đề chính, và mệnh đề phụ. Vậy,
mệnh đề là một thành phần của một câu.
Mỗi mệnh đề gồm có tối thiểu một
chủ từ và một động từ, trừ những
trường hợp tỉnh lược, nhất là trong câu
hỏi và trả lời.
Thí dụ: 1. Cô Hồng đi vắng.
(Mệnh đề độc lập) / 2. Quyển sách này
là của tôi và quyển kia là của anh. (Hai mệnh đề
độc lập) / 3. Tại xe hỏng, tôi không lại
thăm anh được. (Mệnh đề phụ và mệnh
đề chính) / 4. Dừng lại! (Chủ từ hiểu
ngầm hay được tỉnh lược: Anh hay các anh
dừng lại) / 5. Anh Hải đến chưa? - Chưa.
(Anh Hải chưa đến. Chủ từ Anh Hải và
động từ đến được tỉnh lược
trong câu trả lời Chưa.)
IV. Phân Loại Câu Văn
1. Theo cách cấu tạo câu, ta có hai
loại câu văn: câu đơn và câu tổng hợp (câu phức).
Câu đơn diễn tả một sự việc, câu tổng
hợp (câu phức) diễn tả nhiều sự việc.
Câu tổng hợp có từ hai mệnh đề trở
lên: mệnh đề độc lập, mệnh đề
chính, và mệnh đề phụ. Thí dụ: a.Câu Đơn
chỉ có một mệnh đề: Tôi xin lỗi anh! b.Câu Tổng
Hợp (câu phức) có nhiều mệnh đề (m.đ.): Xin lỗi anh (m.đ. độc lập),
tôi không đến dự phiên họp được
(m.đ. độc lập). V́ hôm qua xe hỏng (m.đ. phụ),
tôi không đến dự phiên họp được (m.
đ. chính). Tôi xin lỗi anh
(m.đ. độc lập), v́ hôm qua xe hỏng (m.đ. phụ),
tôi không đến dự phiên họp được
(m.đ. chính).
2. Theo ngữ điệu của
câu, tức là theo giọng khi ta nói câu đó, chúng ta có ba loại
câu: a. Câu nói theo giọng
thường: Mẹ đă về
chợ. / b. Câu nói theo giọng hỏi: Mẹ đă về chợ? (Dùng
để hỏi lại xem có
đúng không). c. Câu nói biểu lộ t́nh cảm: Mẹ
đă về chợ! (Người con reo mừng khi thấy mẹ về
chợ). Ngoài ra muốn nhấn mạnh vào chữ nào, ta nói
chữ đó với giọng cao hơn trong câu nói theo giọng
thường, chẳng hạn như ta nói: “Anh phải làm
ngay việc đó.” hay “Anh phải làm ngay việc đó.”
3. Theo cách nói xác định, phủ định, hay nghi vấn (hoài
nghi), ta có ba loại câu:
a. Câu Xác Định diễn tả
sự việc có xảy ra: Cô ta ngâm thơ. Trong cac câu xác
định, ta c̣n dùng các trạng từ sau để
tăng thêm ư xác định: có (Nhà tôi có ở nhà.), chính
(Chính cô ta đă nói.), tự (Anh hăy tự trách ḿnh.), phải
(Cô ta phải đi.), chỉ (Chỉ có anh mới làm
được việc ấy.), mới (Tôi mới thấy
cô ta.), duy (Duy có anh mới xứng đáng chức vụ ấy.),
toàn (Họ toàn là người tốt.), tinh (Họ ăn
tinh những rau.), rặt (Bọn Cộng nô rặt là đồ
tồi), thuần (Cô ta mặc thuần một màu đen.),
những (Cô ta mua những mười cái áo dài.), v.v.
b. Câu Phủ Định diễn tả
sự việc không xảy ra: Cô ta không đi dự tiệc.
Trong các câu phủ định, ta thường dùng các phủ
định trạng từ như: không (Chúng nó không tới),
chẳng (đồng nghĩa với không nhưng có ư quả
quyết hơn: Chúng nó chẳng làm được ǵ ra hồn.),
chớ (Chớ thấy người sang bắt quàng làm họ),
đừng (Đừng nghe những ǵ Cộng Sản nói,
hăy nh́n những ǵ Cộng Sản
làm.) , chưa (Cái ǵ cũng chưa xong.), há (Anh ấy há phải
con người vô ơn bạc nghĩa; tôi một ḷng v́ nghĩa
há v́ danh lợi.), phi (Phi những người học rộng
tài cao, không ai làm được việc đó.), bao giờ
(Tôi có làm thế bao giờ.), đâu (Của đâu mà cho nó
hoài, tôi biết đâu việc đó.), v.v.
Người ta c̣n dùng những tiếng
phiếm chỉ đại danh từ ai, người nào,
cái ǵ, v.v. kèm với các phủ định trạng từ
chẳng, không, cũng, cũng không, chưa, v.v. để
diễn tả ư phủ định một cách mạnh
hơn: Chẳng ai ưa hắn. Không người nào lai văng
đến đây. Chưa cái ǵ hoàn tất cả. Người
nào cũng không thích. Cái ǵ cũng tệ.
Ngoài ra, người ta c̣n dùng các trạng
từ sau để nhấn mạnh nghĩa phủ định
của câu: nào (Nào tôi có làm thế bao giơ.), (Nào ngờ
cùng tổ bợm già. 'Kiều, câu 2087'), dễ (Đă dễ
ǵ nó làm được việc đó mà anh lo.), dám (Tôi
đâu dám sai lời.), quản (Quản bao tháng đợi
năm chờ. 'Kiều, câu 553'), xiết (Khóc than khôn xiết
sự t́nh. 'Kiều, câu 73-74'), c̣n (C̣n chi là cái hồng nhan.
'Kiều, câu 3101'), kể (Kể chi những nỗi dọc
đường. 'Kiều, câu 1527'), chắc (Chắc ǵ nó
làm xong việc ấy.), v.v..
c. Câu Nghi Vấn để hỏi
hay để tỏ ư hoài nghi: Cô ta có đến không? Cuối câu nghi vấn bao giờ cũng
phải có dấu hỏi (?) . Muốn đặt câu hỏi,
người ta thường dùng các trạng từ nghi vấn,
chứ không cần đảo ngược vị trí chủ
từ và động từ như trong tiếng Anh tiếng
Pháp.
Người ta thường dùng các
trạng từ sau đây trong câu hỏi: không (Anh đi
không?), có...không (Cô có đi không?), chưa (Anh đọc quyển
sách này chưa?), đă...chưa (Anh đă đọc quyển
sách này chưa?), à (Thật như thế à?), nhỉ, a (Da mồi
tóc bạc ta già nhỉ? Aó tía đai vàng bác đấy a ?) (
Nguyễn Khuyến), ư (Thật thế ư?), tá (dùng
trong văn chương để tự hỏi ḿnh: Người
xưa đâu tá?), hử hay hở (Làm ǵ thế hử? Ngă
như thế có đau không hở?), v.v.
Trong các câu hỏi về người,
ta dùng tiếng nghi vấn đại danh từ: ai (Ai đi
với nó?Nó nói chuyện với ai vậy?). Người ta
c̣n dùng tiếng nghi vấn chỉ định từ nào
đặt sau các danh từ ông, bà, anh, chị, người
v.v. để hỏi: Ông nào? Người nào chào anh vậy?
Bà nào đứng đằng kia? Trong số các anh này, chị
chọn anh nào? Chị nào t́nh nguyện?
Trong các câu hỏi về sự vật,
người ta dùng tiếng chỉ định từ ǵ,
chi, nào,v.v.để hỏi: Cái này là cái ǵ? Anh hỏi cái chi?
Anh đi đường nào? Trong hai việc, anh chọn việc
nào?
Ngoài ra, người ta c̣n dùng các trạng
từ nghi vấn như: sao, làm sao, thế nào, tại làm
sao, bao nhiêu, mấy, bao giờ, bao lâu, đâu, bao xa, v.v.
để đặt câu hỏi: Anh nói sao? Làm sao anh ra nông nỗi
này? Anh thấy cô ta thế nào? Tại làm sao anh không đi? Tất
cả có bao nhiêu người đến dự? Em học lớp
mấy? Bao giờ cô ta về? Anh đi bao lâu? Cô ở
đâu đến? Từ nhà anh đến đó bao xa ?
V. Thành Phần Căn Bản Của
Câu Đơn và Mệnh Đề
Một câu đơn hay mệnh
đề thường có hai phần căn bản: chủ
từ và thuật từ. Thí dụ: 1.Tôi đi xe điện
ngầm. 2.Con chó đen đang chạy ngoài sân. 3.Cám ơn
cô. 4. Bao giờ anh đi Orlando? - Mai.
Trong câu 1, chủ từ là Tôi và thuật
từ là đi xe điện ngầm. Trong câu 2, chủ từ
là Con chó đen và thuật từ là đang chạy ngoài sân.
Trong câu 3, chủ từ được hiểu ngầm là
Tôi và thuật từ là Cám ơn cô. Trong câu 4, ở câu trả
lời Mai, chủ từ tôi và thuật từ đi Orlando
được hiểu ngầm. Khi trả lời Mai, ta có
ư nói: Mai tôi đi Orlando.
1.Chủ Từ: Chủ từ là một
chữ hay một nhóm chữ trong câu. Chủ từ giữ
vai tṛ làm chủ hành động hay t́nh huống được
diễn tả trong câu đó. Phải có một chủ từ
mới thành câu văn. Tuy nhiên, câu văn có thể có chủ
từ tỉnh lược, tức là chủ từ
được hiểu ngầm như được tŕnh
bày trong thí dụ 3 và 4 ở trên. Trong một nhóm chữ dùng
làm chủ từ, có một hay nhiều tiếng chính làm chủ
từ, các tiếng khác là tiếng phụ dùng để làm
rơ nghĩa cho chủ từ.
Trong thí dụ Con chó đen đang
chạy ngoài sân, nhóm chữ Con chó đen là chủ từ của
động từ đang chạy. Trong nhóm chữ này, chữ
chó là tiếng chính làm chủ từ của câu. Chữ con,
tiếng loại từ, làm rơ nghĩa cho chữ chó. Chữ
đen, tiếng tính từ, bổ nghĩa cho chữ chó.
Trong thí dụ Bàn, ghế, và tủ trong nhà đều là của
cô ta, nhóm chữ Bàn, ghế, và tủ trong nhà là chủ từ
của câu. Trong nhóm chữ này, ba tiếng bàn, ghế, tủ
là những tiếng chính dùng là chủ từ. Chữ và là
liên từ; giới từ trong và danh từ nhà là những tiếng
bổ nghĩa cho chủ từ “Bàn, ghế, và tủ.”
2.Thuật Từ : Phần của câu ngay sau chủ từ
được gọi là thuật từ. Phần thuật
từ có thể rất đơn giản hay rất phức
tạp. Phải có thuật từ mới thành một câu.
Tuy nhiên, thuật từ có thể được hiểu ngầm
hay tỉnh lược như trong thí dụ 4 ở trên. Tiếng
chính trong phần thuật từ là động từ; những
chữ khác có thể là trạng từ và túc từ của
động từ cùng các bổ
từ khác. Thuật từ dùng để thuật về chủ
từ, tức là nói rơ chủ từ là ǵ, làm cái ǵ, làm sao, ở
đâu, thế nào, v.v. Trong thí dụ “Con chó đen dang chạy
ngoài sân,” nhóm chữ “đang chạy ngoài sân” là thuật từ
của chủ từ “Con chó đen.”
VI. Những Lỗi Thông Thường
Về Cú Pháp
Những lỗi điển h́nh về
cú pháp gồm câu què,, lỗi chấm câu, và lỗi dùng sai tiếng
bổ nghĩa, v.v.
Trong các thí dụ sau đây, để
tránh sự đụng chạm cá nhân, người viết
đă thay những tên nhân vật, tên các hội đoàn, tên
thành phố, và tên tác phẩm,v.v. bằng từ ABC. V́ tính
cách tế nhị, người viết cũng không nêu rơ xuất
xứ của câu văn. Mục đích chính của phần
này là nêu ra những câu sai về cú pháp cùng những câu đề
nghị sửa mà thôi. Sau đây là các thí dụ điển
h́nh về những câu sai cú pháp. Để các bạn đọc
tiện theo dơi giữa câu sai và những câu đề nghị
sửa, chúng tôi xin biên câu đề nghị sửa liền
sau mỗi câu sai về cú pháp.
1. a.Câu Sai (lỗi về dấu chấm
câu, câu thiếu chủ từ): Sau khi đă gửi thơ
đề ngày 1-12-1998 đến tất cả các vị cựu
chủ tịch ABC, để tường tŕnh về hiện
trạng bế tắc của tôi, do phía bà ABC cố t́nh gây
nên, với hy vọng sẽ đón nhân được cao kiến
khai thông sự bế tắc này.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Sau
khi đă gữi thư đề ngày 1-12-1998 đến các
vị cựu chủ tịch ABC để tường
tŕnh về hiện trạng bế tắc của tôi do bà
ABC cố t́nh gây nên, tôi hy vọng sẽ đón nhận
được cao kiến khai thông sự bế tắc này.
2. a.Câu Sai (lỗi chấm câu, câu
què): Bà cũng không chịu tổ chức cuộc bầu cử
thống nhất 2 ABC ở ngay nơi bà đang cư ngụ.
V́ bà ta thừa biết, cuộc bầu cử ấy sẽ
khiến con Hồ Ly Tinh phải hiện nguyên h́nh chồn
cáo.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Bà
ta cũng không chịu tổ chức cuộc bầu cử
thống nhất 2 ABC ở ngay nơi bà đang cư ngụ
v́ bà ta thừa biết cuộc bầu cử này sẽ khiến
con hồ ly tinh phải hiện nguyên h́nh chồn cáo.
3. a. Câu Sai (lỗi chấm câu, câu
què): Trong lănh vực giáo dục văn học, nghệ thuật,
và báo chí, dù không có vấn đề chiếu trên chiếu
dưới phân chia đẳng cấp như quân đội.
Nhưng thiết tưởng ông phải biết thân phận
ḿnh, và vị trí đích thực của ḿnh, mới đáng
là người có văn hoá.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Dù
trong lănh vực giáo dục, văn học, nghệ thuật,
và báo chí không có vấn đề “chiếu trên chiếu
dưới” để phân chia đẳng cấp như ở
trong quân đội, tôi thiết tưởng ông phải biết
thân phận ḿnh và vị trí đích thực của ḿnh th́ mới
đúng là người có văn hóa.
4. a.Câu Sai (câu què, lỗi chấm
câu, lỗi dùng chữ): V́ tâm lư bọn tiểu nhân, bất
tài, thường hay dùng lối chê dè, dè bỉu khơi
khơi, với dă tâm ti tiện hạ người khác xuống,
để tạo ảo tưởng ḿnh hay hơn, tài giỏi
hơn.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Với
dă tâm ti tiện hạ người khác xuống để tạo
ảo tưởng là ḿnh hay hơn và tài giỏi hơn, bọn
tiểu nhân bất tài thường có tâm lư dùng lối chê
bai dè bỉu khơi khơi.
5. a.Câu Sai (câu què, chủ từ và tiếng
bổ nghĩa không phù hợp, dùng chữ viết hoa không
đúng cách, lỗi dấu châm):
Để tưởng nhớ những người
đă chiến đấu bảo vệ Ḥa B́nh cho Thế Giới
và Tự Do cho nhân loại. Hàng năm, ngày ABC được
tổ chức tại ABC vào mỗi tháng 8 dương lịch
- nhân ngày khai trương ABC.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Hàng
năm, để tưởng nhớ những người
đă hy sinh chiến đấu bảo vệ ḥa b́nh cho thế
giới và tự do cho nhân loại, cơ quan ABC có tổ chức
ngày ABC tại ABC vào tháng 8 dương lịch nhân ngày khai
trương ABC.
6. a.Câu Sai (câu què, câu cụt, câu bất
thành cú): Một thách đố của người Việt
di cư tị nạn Cộng Sản! Chứng minh và nói lên
sức mạnh của sự đoàn kết. Con đường
duy nhất để tiến tới mạnh mẽ và liên tục
trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của dân tộc
ta hiện nay.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Một
thách đố của người Việt di cư tÿ nạn
Cộng Sản là làm sao phải chứng minh và nói lên sức
mạnh của sự đoàn kết. Đó là con đường
duy nhất để tiến tới một cách mạnh mẽ
và liên tục trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng
hiện nay của dân tộc ta.
7. a.Câu Sai (chủ từ và tiếng
bổ nghĩa không phù hợp):
Để tiếp tục duy tŕ truyền thống
văn hóa Việt Nam, Hội Xuân A với chủ đề B do Hội C cùng các hội đoàn
bạn phối hợp tổ chức.
b. Câu Đề Nghị Sửa:
Để tiếp tục duy tŕ truyền thống văn
hóa Việt Nam, Hội C cùng các
hội đoàn bạn phối hợp tổ chức Hội
Xuân A với chủ đề B.
8. a.Câu Sai (chủ từ và tiếng
bổ nghĩa không phù hợp, lỗi chấm câu): Chủ
trương tạo không khí Tết truyền thống,
chương tŕnh gồm nhiều tiết mục phong phú,
thích hợp cho mọi lứa tuổi, Hội Xuân hy vọng
thu hút một lượng người đáng kể.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Với
chương tŕnh gồm nhiều tiết mục phong phú
đượm không khí Tết truyền thống và rất
thích hợp cho mọi lứa tuổi, chúng tôi hy vọng Hội
Xuân sẽ thu hút một số khán thính giả đáng kể.
9. a.Câu Sai (câu què): Để kỷ
niệm một trong những ngày đáng ghi nhớ của
Quân, Dân Nam Việt Nam trước đây.
Trân trọng kính mời Ông, Bà và gia
đ́nh đến tham dự buổi tiệc họp mặt
nhân ngày ABC.
b. Câu Đề Nghị Sửa:
Để kỷ niệm ngày ABC, một ngày đáng ghi nhớ
của quân dân miền Nam Việt Nam trước đây,
chúng tôi sẽ tổ chức buổi tiệc họp mặt
nhân ngày ABC này. Trân trọng kính mời ông bà cùng gia đ́nh
đến tham dự buổi tiệc họp này với
chúng tôi.
10. a.Câu Sai (câu què): Để mừng
ngày ABC và cũng để đánh dấu sự h́nh thành
Đại-Đô-Thị ABC. Một cuộc ABC với sự
tham-gia đông-đảo của nhiều đoàn thể
người bản xứ, nhiều Hội-đoàn và tổ-chức
các Cộng-đồng, cùng nhiều đoàn quân của các sắc
dân hiện định cư tại ABC.-
b. Câu Đề Nghị Sửa:
Để mừng ngày ABC và cũng để đánh dấu
sự h́nh thành Đại Đô Thị ABC, ṭa ABC sẽ tổ
chức một cuộc ABC với sự tham gia đông
đảo của nhiều đoàn thể người dân bản
xứ cùng các hội đoàn, tổ chức cộng đồng,
và nhiều đoàn quân của các sắc dân hiện định
cư tại ABC.
11. a.Câu Sai (chủ từ và tiếng
bổ nghĩa không phù hợp):
Đang là bạn thân mà thay đổi lập trường,
ABC quạt ngay trên mặt báo.
b. Câu Đề Nghị Sửa: Hễ
thấy ai đang là bạn thân của ḿnh mà thay đổi
lập trường, ABC quạt ngay trên mặt báo.
12. a.Câu Sai (lổi chấm câu, câu
văn lủng củng, ư tứ lộn xộn): Th́ giờ lúc nào cũng thấy
thiếu, kể cả với những người quanh
năm thất nghiệp! Huống chi ngày ngày phải đi
làm, vật lộn với sinh kế, đầu óc thường
xuyên căng thẳng, gạt bỏ hết mọi thứ
để ngồi vào bàn biết quả thực là một
việc rất khó khăn. Mấy ai đă có được
kỷ luật sáng tác như ABC, sáng sáng ôm giấy bút ra công
viên, quyết viết cho xong trường thiên ABC gần hai
ngàn trang! Nhất là ông định cư tại Cali, giữa
cộng đồng người Việt quá sầm uất,
lúc nào cũng dễ dàng lôi cuốn người ta ra khỏi
thời khóa biểu thường nhật, cắt ngang ḍng
sáng tác của khá nhiều văn hữu. Tôi c̣n nhớ ngay từ
1982, tạp chí ABC của nhà thơ ABC xuất bản tại
ABC, đă phải than lên rằng: “Bộ môn văn, con dao
cùn trong tay những người cầm bút hải ngoại!”
b. Câu Đề Nghị Sửa: Th́
giờ lúc nào người ta cũng thấy thiếu, kể
cả đối với những người quanh năm
thất nghiệp huống chi đối với những
người mà đầu óc thường xuyên căng thẳng
v́ ngày ngày họ phải đi làm và vật lộn với
sinh kế th́ việc gạt bỏ hết mọi thứ
để ngồi vào bàn viết quả thực là một
việc rất khó khăn! Mấy ai đă có được
kỷ luật sáng tác như ABC, nhất là ông lại định
cư tại ABC, nơi có cộng đồng người
Việt quá sầm uất! Không khí sinh hoạt nơi đây
lúc nào cũng dễ dàng lôi cuốn người ta ra khỏi
thời khóa biểu thường nhật và cắt ngang ḍng
sáng tác của khá nhiều nhà văn. Thế mà sáng sáng ôm giấy
bút ra công viên, ông đă viết xong cuốn tiểu thuyết
trường thiên ABC dày gần hai ngàn trang! Tôi c̣n nhớ,
ngay từ năm 1982, trên tạp chí ABC của nhà thơ ABC,
xuất bản tại ABC, ông ta (nếu biết tên nhà
văn th́ biên ra, nếu không biết thi viết “một nhà
văn nào đó”) đă viết bài than rằng: “Bộ môn
văn, con dao cùn trong tay những người cầm bút hải
ngoại!”
VII. Muốn Viết Văn, Phải
Biết Văn Pháp Và Văn Phạm.
Lời nói rơ ràng và đầy đủ
ư nghĩa, nếu được viết ra đúng như
thế, tự nó đă là một câu văn trong sáng và
đúng văn pháp rồi. Cú pháp giúp ta viết văn
đúng cách, rơ ràng, trong sáng, và đầy đủ ư nghĩa
hơn. Bài văn trong sáng là bài có cú pháp đúng cách, ư tưởng
phân minh, và bố cục rơ ràng. Những ư trong mỗi đoạn
và toàn bài văn phải theo sát với đề tài và có liên
quan chặt chẽ với nhau. Viết hết một
đoạn, ta phải xuống hàng. Việc chấm câu
đúng cách cũng làm cho câu văn và tác phẩm trong sáng, rơ
ràng, và dễ hiểu.
Đă viết văn, ai cũng có thể
mắc lỗi kể cả các nhà văn lăo thành. Những
nhà văn lăo thành cho biết rằng sau khi viết xong một
bài văn, mỗi lần đọc lại, ta lại thấy
những lỗi chính tả và cú pháp khác nhau. Chính v́ thế
mà đă có những nhà văn sửa bản nháp của họ
tới hàng chục lần mới ưng ư. Điều này
cho ta thấy rằng cứ viết
văn là có lỗi, không nhiều th́ ít, rất hiếm có
người viết một lần mà được
như ư. Không có ngoại lệ. Muốn viết văn cho đúng
cách ta phải viết nhiều và viết riết rồi
quen đi. Khi ta đă để
công nghiên cứu văn pháp cùng văn phạm và chịu khó
viết văn, chắc chắn chúng ta sẽ viết
văn đúng cách và câu văn của chúng ta sẽ trong sáng
linh động hơn. Nếu có mắc lỗi, chúng ta sẽ
chỉ mắc những lỗi nhẹ và mắc ít lỗi
hơn.
Cách Xưng Hô Bằng Tiếng Việt Áp Dụng
Trong Gia Đ́nh
Có người cho rằng việc
xưng hô trong tiếng Việt rất phức tạp và gây
phiền phức trong khi giao thiệp. Cứ “you, me” hay “toi, moi” ráo trọi như trong
tiếng Anh tiếng Pháp có phải tiện hơn không? Thực
ra, cách xưng hô trong tiếng Việt không phức tạp
và không phiền phức. Nó rất phong phú, rơ ràng, có tôn ti trật
tự, và rất văn minh.
Cách xưng hô trong tiếng Việt tự nó không gây phiền
phức. Nếu có phiền phức chăng nữa, đó
là do người sử dụng nó không biết cách mà thôi.
Cách xưng hô trong tiếng Việt
tượng trưng cho một nền văn minh lâu đời
về gia giáo và việc giao tế ngoài xă hội. Lễ phép
và tôn ti trật tự phân minh là cách để ta phân biệt
giữa dân tộc có văn hiến lâu đời với
dân tộc mới phát triển và giữa loài người với
loài thú cùng bọn quỉ đỏ. Từ ngày có bọn quỉ đỏ, tức là bọn
Cộng Sản Việt Nam, việc xưng hô trong tiếng
Việt đă bị bọn này phá hoại tận gốc rễ
v́ bọn chúng khuyến khích cách xưng hô bằng đồng
chí, anh, chị mà không kể tuổi
tác, ngôi thứ, thân sơ, và không có tôn ty trật tự ǵ cả.
Già cũng đồng chí và trẻ cũng đồng chí. Lớn
tuổi cũng anh chị và nhỏ tuổi cũng chị
anh.
Để hiểu rơ cách xưng hô
trong tiếng Việt, chúng ta hăy cùng nhau ôn lại phong tục
Việt Nam về cách xưng hô. Trong phạm vi gia đ́nh và
họ hàng ta có cách xưng hô riêng cho
mỗi người. Trong xă hội cũng thế, ta
có cách xưng hô đặc biệt dành cho từng người
ta quen biết. Trong phạm vi bài này, chúng tôi tŕnh bày những
điều liên quan đến cách xưng hô trong gia đ́nh
mà thôi.
I. Danh Xưng Dành Cho Mỗi Thứ
Bậc Về Liên Hệ Gia Đ́nh
Ngươi sinh ra ta được
gọi là cha mẹ. Cha mẹ của cha mẹ, cô, d́, chú, và
bác của ta được gọi là ông bà. Cha mẹ của
ông bà được gọi là cụ. Cha mẹ của cụ
được gọi là kỵ.
Các ông cha đời trước nữa được
gọi là tổ tiên. Cha mẹ
sinh ra các con. Những người con này là anh chị em ruột
của nhau gồm có các anh trai,
các chị gái, các em
trai , và các em gái.
Người con trai đầu ḷng của
cha mẹ ḿnh gọi là anh cả (người Bắc và
Trung) hay anh hai (người Nam). Anh hai c̣n có nghĩa là tiền
trong nghĩa của câu: “Trong túi không có anh hai th́ không làm ǵ
được.” Người con gái đầu ḷng của
cha mẹ ḿnh gọi là chị cả (người Bắc
và Trung) hay chị hai (người Nam). Từ chị cả
c̣n có nghĩa là vợ cả trong ư của câu ca dao sau: “Thấy
anh, em cũng muốn chào, / Sợ rằng chị cả giắt
dao trong ḿnh.” Người con trai thứ hai gọi là anh thứ
(người Bắc và Trung) hay anh ba (người Nam). Từ
anh ba c̣n được dùng để gọi một người
đàn ông con trai nào đó như trong trường hợp của
câu ca dao sau:“Anh Ba kia hỡi anh Ba, /Đầu đội nón
dứa tay bưng ba cơi trầu./ Trầu này em chẳng
ăn đâu,/ Để thương để nhớ
để sầu anh Ba, / Để em bác mẹ gả chồng
xa,/ Thà rằng lấy quách anh Ba cho gần!” Từ anh Ba c̣n
để chỉ người đàn ông Hoa kiều.
Người con trai thứ bảy
trong gia đ́nh gọi là anh bảy (người Bắc). Từ
anh bảy c̣n để gọi người Ấn Độ
hay người Nam Dương.
Khi ta lấy
vợ hay lấy chồng và sinh ra các con (con trai và con gái),
con của các con ta gọi là cháu (sẽ nói rơ trong phần
sau), con của cháu ta gọi là chắt, con của chắt
ta gọi là chút, và con của chút ta gọi là chít. Vợ của
các con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi
là con rể.
Các anh chị em của cha mẹ ta
gồm có: chú, bác, cô, d́, cậu, mợ, và dượng (sẽ
nói rơ ở mục sau).
II. Cách Xưng Hô Trong Gia Đ́nh
Thứ bậc 10 đời trong gia
đ́nh gồm có: tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ,
con, cháu, chắt, chút, và chít.
Con của chúng ta gọi chúng ta là cha mẹ. Con của
các con chúng ta gọi chúng ta là ông bà. Con của con gái chúng ta gọi
chúng ta là ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại, hay gọi
tắt là ngoại. Con của con trai chúng ta gọi chúng ta là
ông bà nội, ông nội, bà nội, hay gọi tắt là nội.
Chắt của chúng ta gọi chúng ta là cụ. Chút của
chúng ta gọi chúng ta là kỵ. Và chít của chúng ta gọi
chúng ta là tổ tiên.
Danh xưng của hai gia đ́nh có
con cái lấy nhau gồm có: thông gia, thân gia, hay sui gia. Tiếng
xưng hô giữa hai sui gia với nhau hay với bạn bè:
ông bà thông gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông sui, và bà sui.
1. Xưng Hô Với Cha Mẹ: Tiếng
gọi cha mẹ trong khi nói chuyện với bạn bè và
trong lúc xưng hô với cha mẹ gồm có: bố mẹ, cha mẹ, ba má, ba
me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các
cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu,
v.v.
Tiếng xưng hô với mẹ gồm có: má, mẹ,
me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm, và đẻ, v.v Tiếng xưng hô với cha gồm có: bố, ba, thầy,
cha, cậu, và tía, v.v.
Tiếng xưng hô với mẹ nhiều
hơn tiếng xưng hô với cha. Điều này chứng
tỏ người mẹ gần gũi các con nhiều
hơn bố. Nhờ đó mà t́nh cảm giữa các con và mẹ
đằm thắm hơn và có nhiều tiếng để
xưng hô hơn. Tiếng gọi cha mẹ vợ gồm
có: ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ,
cha vợ, và mẹ vợ, v.v.
Tiếng gọi cha vợ khi nói chuyện
với bạn gồm có: nhạc phụ, nhạc gia, bố
vợ, ông nhạc, cha vợ, ông ngoại các cháu, và trượng
nhân, v.v.
Tiếng gọi mẹ vợ khi nói
chuyện với bạn bè gồm có: mẹ vợ, má vợ,
bà nhạc, bà ngoại các cháu,
nhạc mẫu, v.v.
Tiếng gọi cha mẹ chồng
gồm: cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, các
cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà nội của các cháu, và
những từ giống như phần dành cho cha mẹ
ḿnh. Khi nói chuyện với cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng,
tùy theo nề nếp gia đ́nh, ta chỉ cần xưng hô
như đă đề cập
ở trên, trong phần xưng hô với mẹ cha. Người
chồng sau của mẹ ḿnh gọi là cha ghẻ, kế phụ,
cha, cậu, hay dượng. Người vợ sau của
cha ḿnh gọi là mẹ ghẻ, mẹ kế, hay kế mẫu.
2. Cách Xưng Hô Với Anh Chị Em
của Cha Mẹ và Ông Bà. Anh của
cha gọi là bác, em trai của cha là chú, chị của cha c̣n
được gọi là bác gái. Em gái của cha là cô hay o (ca dao có câu “Một
trăm ông chú không lo, chỉ lo một nỗi mụ o nỏ
mồm.”). Có nơi chị của cha cũng được
gọi là cô hay o.
Anh của mẹ gọi là bác hay cậu, em trai của mẹ
là cậu, chị của mẹ
là già hay bác gái, và em gái của
mẹ là d́. Có những gia đ́nh bắt con cái gọi cậu
và d́ bằng chú và cô v́ muốn có sự thân thiết giống
nhau giữa hai gia đ́nh bên
ngoại và bên nội, tức là bên nào cũng là bên nội cả.
Vợ của bác (anh của cha hay mẹ)
gọi là bác gái, vợ của chú gọi là thím, và chồng của cô hay d́ gọi
là chú hay chú dượng hay dượng, chồng của bác
gái hay già gọi là bác hay bác dượng, và vợ của cậu
là mợ.
Anh trai của ông bà nội và ông bà
ngoại ḿnh gọi là ông bác (bác của cha hay mẹ
ḿnh), em trai của ông nội
và ông ngoại là ông chú (chú của cha hay mẹ ḿnh), chị của ông bà nội và ông
bà ngoại hay vợ của ông bác gọi là bà bác, em gái của
ông nội ông ngoại ḿnh gọi là bà cô (cô của cha mẹ
ḿnh), em trai của bà nội bà ngoại gọi là ông cậu
(cậu của cha hay mẹ ḿnh), em gái của bà nội bà
ngoại gọi là bà d́ (d́ của cha mẹ ḿnh), và chồng
của bà cô và bà d́ gọi là ông dượng (dượng của
cha hay mẹ ḿnh). Tuy nhiên, trong
lối xưng hô hàng ngày, người ta thường gọi
giản tiện là chú, bác, ông hay bà để thay cho chú
dượng, bác gái, ông bác, ông
chú, ông cậu, ông dượng, bà bác, bà cô, hay bà d́.
3. Xưng Hô Với Anh Chị Em: Anh
của vợ hay anh của chồng gọi là anh hay bác, c̣n
khi nói chuyện với người khác th́ dùng ông anh nhà tôi,
anh của nhà tôi, anh vợ tôi
, hay anh chồng tôi. Tiếng anh chồng c̣n dùng để gọi
chồng của một người đàn bà nào đó trong
nghĩa của câu: Anh chồng th́ đi vắng chỉ có
chị vợ ở nhà mà thôi.
Chị của chồng hay chị của vợ gọi
là chị hay bác, c̣n khi nói chuyện th́ dùng chị chồng,
chị vợ, bà chị của nhà tôi,v.v. Em trai của chồng
hay vợ gọi là em hay chú.
Em gái của chồng hay vợ gọi
là em, cô, hay d́. Các từ bác, chú, cô hay d́ trong các trường
hợp xưng hô với anh chị là cách chúng ta gọi thế
cho con ḿnh và có nghĩa là anh, chị, em của ḿnh.
- Các tiếng xưng hô về chị
em c̣n gồm có: Chị em gái: chị em toàn là gái. Chị em ruột: chị
em cùng cha mẹ trong đó có em trai. Chị gái hay chị ruột:
người chị cùng cha mẹ. Chị họ: chị
cùng họ với ḿnh. Chị em chú bác, chị em con chú con
bác, chị em thúc bá: các con gái và con trai của em trai và anh bố
ḿnh, trong đó người con gái là chị. Chị em con cô con cậu: con gái và
con trai của em gái bố và em trai mẹ, trong đó người
con gái là chị. Chị em bạn d́, chị em đôi con d́
con già: các con gái và con trai của chị hay em gái mẹ trong
đó con gái là chị. Chị
em bạn dâu: chị em cùng làm dâu trong một nhà. Chị dâu:
vợ của anh ḿnh.
- Các tiếng xưng hô về anh chị
em gồm có: Anh chị là tiếng các em gọi anh chị
hay cặp vợ chồng anh chị ḿnh, tiếng cặp vợ chồng tự xưng với các em của họ,
tiếng gọi cặp vợ chồng của bạn ḿnh,
tiếng cha mẹ dùng để gọi vợ chồng con
trai hay con gái ḿnh, và tiếng dùng để gọi những
kẻ ăn chơi giang hồ, cờ bạc trong nghĩa
của từ “dân anh chị.” Anh chị em là tiếng
người ta dùng để gọi các con trong gia đ́nh
như trong câu “Anh chị em nhà ấy có hiếu.” Tiếng
“anh chị em” c̣n dùng để gọi chung đàn ông đàn
bà hay con trai con gái trong nghĩa của câu “Hỡi các anh chị
em nghe đây!” Anh chị em bạn d́ để chỉ các
con trai con gái của chị và em gái
mẹ trong đó người con trai là anh. Anh em con chú
con bác hay anh em thúc bá để chỉ con trai con gái của
em và anh bố ḿnh, trong đó người con trai là anh. Anh em con cô con cậu để chỉ
con trai con gái của em gái bố và em trai mẹ trong đó
người con trai là anh. Anh em
bạn rể hay anh em cột chèo để chỉ các ông chồng
của chị vợ hay em vợ.
Anh rể : chồng của chị ḿnh. Tất cả những người
con của anh và chị của cha đều là anh và chị
của ta ( anh chị họ nội). Các người con của anh và chị
của mẹ cũng là anh và chị của ta (anh chị họ
ngoại)
- Các tiếng xưng hô về em gồm
có: Em là tiếng chỉ các người con do cha mẹ sinh
ra sau ḿnh gồm có em trai em gái và là tiếng gọi các
người con của cô, d́, và chú của ḿnh. Em dâu: vợ
của em ḿnh. Em rể: chồng
của em ḿnh. Em út: tiếng để chỉ người
em cuối cùng do cha mẹ ḿnh sinh ra. Tiếng em út c̣n có nghĩa
là đàn em, dùng để chỉ bộ hạ tay chân của
người ta trong nghĩa của câu: “Đám em út của tôi sẽ giúp anh chuyện
đó, đừng có lo.” Họ
nội và gia đ́nh bên nội
là họ và gia đ́nh của cha ḿnh. Họ ngoại
và gia đ́nh bên ngoại là họ
và gia đ́nh bên mẹ ḿnh.
4. Xưng Hô Với Vợ Chồng:
Tiếng xưng hô với vợ gồm có: em, cưng, ḿnh,
bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ
đĩ, nhà, bà, bà xă, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng
ấy, v.v. Tiếng gọi vợ
trong khi nói chuyện với người khác gồm có: nhà
tôi, bà nhà tôi, má tụi nhỏ, má sắp nhỏ, má bày trẻ,
tiện nội, nội tướng tôi, bà xă, bà xă tôi, và vợ
tôi, v.v. Tiếng xưng hô với chồng gồm có: anh,
cưng, anh nó, ba, ba nó, bố, bố nó, bố mày, bố thằng
cu, đằng ấy, ông xă, cậu, cậu nó, ông, ông nó, cụ,
ấy, ḿnh, v.v. Tiếng gọi chồng trong khi nói chuyện
với người khác gồm: nhà tôi, ông nhà tôi, ba tụi
nhỏ, ba sắp nhỏ, ba bày nhỏ, phu quân tôi, ông xă, ông
xă tôi, chồng tôi, trượng
phu tôi, anh ấy, v.v.
T́nh vợ chồng người Việt
rất đằm thắm, họ yêu nhau với tất cả
chân t́nh, đối đăi với nhau rất lịch sự
và tương kính. Những cặp vợ chồng có giáo dục
không bao giờ gọi nhau bằng mày và xưong tao. Họ
t́m những lời lẽ dịu dàng đầy t́nh tứ
yêu thương để gọi nhau. Chính v́ thế mà tiếng
xưng hô giữa vợ chồng người Việt có rất
nhiều, hơn hẳn tiếng xưng hô của vợ chồng
người Tây phương. Những cặp vợ chồng
có giáo dục không bao giờ chửi thề và văng tục
với nhau, nhất là trước mặt bạn bè.
5. Xưng Hô Với Con Cháu: Con trai đầu ḷng của ḿnh gọi
là con trai trưởng hay con trai trưởng nam (có người
gọi một cách thân mật là cậu trưởng tôi, thằng
trưởng nam nhà tôi). Vợ của con trai là con dâu. Vợ
con trai trưởng nam là con dâu trưởng. Con gái đầu ḷng gọi là
trưởng nữ. Chồng của con gái là con rể. Chồng
của con gái đầu ḷng là con rể trưởng. Tất cả các con trai hay con gái
kế tiếp được gọi la thứ nam hay thứ
nữ. Người con
được sinh ra trước tiên c̣n được gọi
là con cả hay con đầu ḷng.
Con trai hay con gái cuối cùng của gia đ́nh gọi
là con út, út nam, hay út nữ. Nếu
vợ chồng chỉ có một con, trai hoặc gái, th́
người con đó được gọi là con một. Con của vợ hay của chồng
có trước hay sau khi lấy nhau gọi là con ghẻ hay
con riêng. Đứa con mới
đẻ ra gọi là con đỏ. Con c̣n nhỏ gọi là
con mọn. Khi người đàn ông già rồi mới có
con, người ta gọi cảnh
đó là cảnh cha già con mọn.
Con gia đ́nh quyền thế gọi là con ông cháu cha. Con của
con trai ḿnh gọi là cháu nội (cháu nội trai, cháu nội
gái); con trai đầu ḷng của con trai trưởng nam là
cháu đích tôn, đích tôn thừa tự, hay đích tôn thừa
trọng, tức là cháu trưởng nối nghiệp lớn
của ông bà và giữ việc thờ cúng tổ tiên sau
này. Con của con gái ḿnh gọi
là cháu ngoại (cháu ngoại trai, cháu ngoại gái).
III. Đặc Tính Lịch Sự và
Lễ Phép Trong Cách Xưng Hô của Người Việt
Từ lâu đời, người
Việt ḿnh có truyền thống về lễ phép và lịch
sự trong cách xưng hô. Các con cháu có lễ phép và có giáo dục
thường biết đi thưa về tŕnh chứ không
phải muốn đi th́ đi muốn về th́ về. Khi
nói chuyện với bố mẹ và ông bà, con cháu thường
dùng cách thưa gửi và gọi dạ bảo vâng chứ
không bao giờ nói trống không với người trên. Người Việt chúng ta thường
dùng tiếng thưa trước khi xưng hô với người
ở vai trên của ta, chẳng hạn như: “Thưa mẹ con đi học.
Thưa ông bà con đă về học. Thưa cô con về.
Thưa ba, ba bảo con điều chi ạ?”
Khi trả lời bố mẹ hay
ông bà, con cháu thường dùng chữ “dạ, ạ, vâng ạ,
vâng.” Nếu bà mẹ gọi con: “Tư ơi?” th́ khi nghe thấy, người con
phải thưa: “Dạ.” Nếu người mẹ nói tiếp:
“Về ăn cơm!” người con phải nói: “Vâng.”
(người Bắc) hay “Dạ.” (người Nam). Người
ta c̣n dùng chữ “ạ” ở cuối câu để tỏ vẻ
kính trọng và lễ phép. Thí dụ:“Chào bác ạ! Vâng ạ!”
Trong cách xưng hô với người
ở vai trên của ta, ta không bao giờ gọi tên tục
(tên cha mẹ đạt cho) của
ông bà, cha mẹ, cô cậu, d́ dượng, và chú bác. Chúng ta
chỉ xưng hô bằng danh xưng ngôi thứ trong gia
đ́nh mà thôi. Nếu ông có tên là Hùng, ba có tên là Chính, và chú có
tên là Tài chẳng hạn, ta chỉ nói là:“Mời ông bà
xơi cơm, mời ba má dùng trà, mời cô chú lại
chơi.”
Đối với người trên,
chúng ta không được dùng tiếng “cái ǵ” để hỏi
lại một cách trống không v́ nó nghe có vẻ vô lễ.
Người ta thường thế từ “cái ǵ” bằng từ
“điều chi” cho lịch sự và lễ độ. Thay
v́ hỏi: “Cái ǵ?” hay “Ba bảo con cái ǵ?” th́ hỏi: “Ba bảo
con điều chi ạ?” Từ
“cái ǵ” chỉ sử dụng với người ngang hàng mà
thôi. Thí dụ: “Anh hỏi tôi cái ǵ?” hay “Chị nói cái ǵ vậy?”
Trong
cách xưng hô với anh chị
em, chúng ta dùng từ anh, chị, hay em đứng trước
tên hay ngôi thư. Thí dụ: “Anh Hùng đi vắng, em An đang học bài, chị Kim
ra má bảo, v.v.”