Các em không được phép gọi
anh chị bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể
gọi các em bằng tên trống không hay thêm từ em vào
trước tên để gọi. Thí dụ: “Hải ra chị
bảo cái này!” hay “Em Hải ra chị bảo cái này!”
Anh chị em trong một gia đ́ng
có giáo dục không gọi nhau bằng mày và xưng là tao bao
giờ. Những người con gọi nhau bằng mày và
xưng tao là do lỗi của bố mẹ không biết dạy
bảo các con ngay từ khi chúng c̣n nhỏ. Các con gọi nhau
bằng mày xưng tao măi rồi thành thói quen. Khi đă thành
thói quen th́ chúng không thể đổi cách xưng hô cho
đúng phép được.
Cha mẹ phải dạy con cái về
cách xưng hô ngay từ khi chúng c̣n nhỏ. Muốn chúng chào
ai, cha mẹ phải nói cho chúng biết cách chào và bắt
chúng lập lại, chẳng hạn như cha mẹ nói:
“Chào bác đi con!” Các con sẽ nói: “Chào bác ạ!”
Khi có bà con họ hàng thân thuộc
đến chơi nhà, cha mẹ phải giới thiệu họ
với các con ḿnh và nhắc chúng cách chào. Nếu các con ḿnh
chơi ở ngoài sân hay ở trong buồng trong khi có thân
nhân đến chơi nhà, ta phải gọi chúng ra để
chào bà con.
Khi cha mẹ đến chơi nhà
con cái, nếu trong nhà đang có khách, các con phải giới
thiệu cha mẹ với khách và giới thiệu khách với
cha mẹ. Có như thế việc xưng hô trong câu chuyện
mới tự nhiên và thân mật. Bận cho đến mấy hay bất cứ v́ lư do ǵ, ta cũng
phải thực hiện cho bằng được việc
giới thiệu khi có khách đến chơi nhà để
mọi người biết nhau hầu tiện cho việc
xưng hô. Những người ở vai trên hay bậc trên
phải được giới thiệu trước.
Đối với trẻ, ta nên nhắc
lại việc chào hỏi nhiều lần chứ đừng
tưởng bảo chúng một lần mà chúng nhớ
đâu. Chính v́ thề mà một nhà giáo dục người
Pháp đă viết “La répétition est l'âme de l'enseignement” (Việc
nhắc lại là linh hồn của việc giáo huấn). Về
phạm vi giáo dục, việc “nhắc lại” hay “lập
đi lập lại” có nghĩa là ôn tập thường
xuyên: văn ôn vũ luyện.
Có biết xưng hô đúng cách, bà
con mới thân cận nhau. Không biết cách xưng hô, dần
dần bà con sẽ xa lánh nhau. Có săn đón nhau bằng
câu chào lời mời đúng cách, t́nh gia đ́nh họ
hàng mới gắn bó lâu bền.
Chính v́ thế mà tục ngữ
ta có câu: “Lời chào cao hơn mâm cỗ.”
Trong việc dạy trẻ về
cách xưng hô và chào hỏi, ta không nên quá khắt khe với
chúng. Giải thích và khuyến khích là cách tốt nhất
để dạy trẻ. Nếu chúng quen cách xưng hô ở
Bắc Mỹ này mà chào ta là “Hi Bác!” ta cũng đừng nổi
giận mà chửi chúng. Trong trường hợp này, ta nên
vui vẻ xoa đầu trẻ và chỉ cho chúng cách chào cho
đúng cách của người Việt: “Chào Bác ạ!”
Đừng bao giờ nổi nóng với trẻ v́ chúng
chưa hiểu và cần phải được dạy dỗ.
Khi ta nổi nóng lên là phát cơn điên th́ kẻ khôn hóa dại
ngưới hiền hóa ngu.
Việc xưng hô và chào hỏi c̣n
tùy thuộc ở sự thân t́nh nữa. Nếu ta thường
xuyên thăm trẻ hay chăm nom và săn sóc trẻ với
tất cả chân t́nh, trẻ sẽ cảm thấy và tự
nhiên chúng sẽ quí mến ta và vồn vă chào hỏi ta.
Việc dạy trẻ trong vấn
đề xưng hô và chào hỏi cần phải kiên nhẫn,
khéo léo, và có nghệ thuật. Không miễn cưỡng
được. Nếu trẻ không muốn chào, ta phải
từ từ giải thích cho chúng hiểu. Khi hiểu, chúng
sẽ vui vẻ chào khách. Đừng quá khắt khe với
chúng kẻo ta mắc phải khuyết điểm “giáo
đa thành oán.”
Cách Xưng Hô Bằng Tiếng Việt Áp Dụng
Ở Ngoài Xă Hội
I. Quan Niệm Về Tuổi Tác
Trong Xă Hội Việt Nam
Cách xưng hô ở ngoài xă hội
đặt nặng trên vấn đề tuổi tác và sự
thân t́nh. Từ ngàn xưa người Việt ḿnh rất trọng
tuổi tác. Danh vọng hay tiền tài đă quí, nhưng tuổi
thọ lại càng quí hơn. Tuổi thọ có được
là do sự biết cách giữ ǵn sức khỏe, tập
luyện cơ thể, ăn uống điều độ,
và phần lớn là do di truyền và bẩm sinh.
Khoa học đă chứng minh là mỗi
loài vật có một số tuổi thọ khác nhau, chẳng
hạn như giống thỏ và chuột chỉ sống
được khoảng 5 năm
trong khi con người có thể sống được
khoảng 100 năm (nhân sinh bách tuế đáo vi kỳ).
Riêng về loài người, đàn bà thường thọ
hơn đàn ông.
Ngày nay tuổi thọ con người
tăng lên v́ nhờ có sự tiến bộ về kinh tế,
khoa học, giáo dục, môi sinh, và y tế. Nhờ có khoa học
tân tiến, mức sống được cải thiện,
và nhờ có tổ chức y tế công cộng tân tiến
nên người ta có thể sống tới trên trăm tuổi.
Tuổi thọ ai có người đó được
hưởng, không thể lấy tiền mua được.
Thọ là một trong ba điều hạnh phúc rất quí của
người đời. Đó là Phúc, Lộc, và Thọ mà
người ta thường chúc tụng nhau. Phúc nói về
công danh và điều tốt lành, lộc có nghĩa là bổng
lộc tiền tài và nhiều con cháu, và thọ có nghĩa là
sự sống lâu.
Ngày xưa ở Việt Nam đă có
tục yến lăo và chúc thọ dành cho những vị cao
niên. Đây là tiệc mừng sinh nhật dành cho quí vị
được 60 tuổi, 70 tuổi, 80 tuổi, 90 tuổi,
và 100 tuổi, v.v. Có nơi hiếm người lớn tuổi,
người ta tôn những vị 50 hay 55 tuổi lên lăo. Chữ
tôn có nghĩa là tâng lên. Lệ này gọi là đôn lăo. Lệ
đôn lăo được áp dụng cho những trường
hợp khi người ta chưa đến tuổi lăo mà
được tôn lên làm lăo. Lư do chính là ngày xưa không có mấy
người thọ tới 60 hay 70 tuổi v́ “nhân sinh thất
thập cổ lai hy” nên những người 50 hay 55 tuổi
được hưởng lệ yến lăo hay chúc thọ
của làng.
Những vị lên lăo được
người ta trọng vọng, không phải đóng thuế
và được miễn tạp dịch, tức là miễn
lao động. Ngày xưa, vào tuổi 50, người ta
đă được coi là già và thường được
gọi là cụ. Nguyễn Công Trứ đă nói rơ quan niệm
50 tuổi là già trong câu thơ sau: Mười lăm trẻ,
năm mươi già không kể.
Ăn khao 50 tuổi gọi là ngũ
tuần khánh thọ, rồi tới lục, thất, bát, và
cửu tuần khánh thọ, v.v.
Lễ thượng thọ là lễ
ăn mừng tuổi thọ của các cụ già từ 60
tuổi trở lên. Tuy nhiên, lễ khao hay ăn mừng
thượng thọ c̣n dành cả cho những cụ từ
50 tuổi nếu trong làng không có ai già hơn 50 tuổi.
Ngày xưa, khi đến tuổi
khao thượng thọ, người ta thường lo khao
cho đủ lệ làng. Dân làng đứng ra tổ chức
lễ chúc thọ các cụ tại đ́nh làng. Sau lễ tại
đ́nh làng và lễ cáo yết gia tiên, con cháu c̣n làm lễ
chúc chọ cha mẹ ở nhà.
Khi đến tuổi lên lăo, quí cụ
rất được trọng vọng và được
coi là những vị cố vấn của dân làng. Về
phương diện này người Việt ta đă hơn
hẳn người Tây phương. Ở Bắc Mỹ này
người ta coi người già là vô dụng và không
được kính trọng. V́ thế họ đă có rất
nhiều chương tŕnh giúp quí vị cao niên để
hưởng tuổi thọ ở trong các nhà cao niên hay viện
dưỡng lăo.
Việc kính trọng người lớn
tuổi của dân Việt đă đem lại trật tự
cho gia đ́nh và xă hội. Người lớn tuổi nói,
người ít tuổi nghe. Tục ngữ có câu “Ông bẩy
mươi phải hỏi ông bẩy mốt và kính lăo đắc
thọ” là vậy. Chính v́ thế mà cách xưng hô của ta
đặt nặng về yếu tố tuổi tác. Tùy theo
tuổi, người ta áp dụng cách xưng hô khác nhau ở
ngoài xă hội.
II Nguyên Tắc Dùng Trong Việc
Xưng Hô Ở Ngoài Xă Hội
1. Đối với những
người ở vào trạc tuổi ta hay anh chị của
ta, ta có thể gọi họ là anh, chị, ông, bà, hay bác và
xưng là em, tôi, hay chúng tôi. Thí dụ: Mời anh chị lại
nhà tôi chơi./ Khi rảnh, mời ông bà lại nhà chúng tôi
chơi./ Cuối tuần này, mời anh chị lại nhà em
chơi. Chữ ông bà trong thí dụ
trên không có nghĩa là ông hay bà của ḿnh. Đây là cách nói lịch
sự đối với những người bằng hay
hơn tuổi của ta nhưng không phải là bạn của
ta mà lại có địa vị trong xă hội.
2. Đối với những
người vào trạc tuổi cha mẹ hay chú bác cậu mợ
cô d́ của ta và chơi thân với cha mẹ của ta, ta
không nên gọi họ bằng anh hay chị mà nên gọi họ
là cô, bác, chú, ông, bà, hay cụ (nếu họ nhiều tuổi)
và xưng là cháu. Trong trường hợp những người
này không có liên hệ ǵ với cha mẹ ḿnh, ta có thể gọi
họ là ông hay bà và xưng là tôi hay chúng tôi cũng được.
3. Nếu ḿnh giao thiệp với bất
cứ ai trên căn bản bạn bè, ta phải gọi bố
mẹ của những người này là bác hay hai bác, và
xưng là cháu hay con nếu họ bằng hay nhiều tuổi
hơn cha mẹ ta. Nếu họ ít tuổi hơn cha mẹ
ta, ta gọi họ là cô hay chú và xưng là cháu hay con.
Trong trường hợp bố mẹ
của những người mà ta quen biết vào trạc tuổi
ta hay tuổi anh chị ta, ta nên gọi họ là ông bà và
xưng là tôi hay chúng tôi cũng được.
4. Nếu ḿnh đă gọi những
người lớn tuổi (không có họ hàng) bằng bác,
chú, cô, d́, v.v. và xưng là cháu (chữ cháu ở đây có nghĩa
là cháu đối với bác, chú, cô d́..) hay con th́ các con của
ḿnh phải gọi họ là ông bà và xưng là cháu (chữ
cháu ở đây có nghĩa của người cháu đối
với ông bà của ḿnh). Nếu họ có con, ta phải gọi
con của họ là anh, chị, hay em tùy theo ta ít tuổi hay
nhiều tuổi hơn những người này.
5. Nếu ta giao thiệp hay chơi
thân với người lớn tuổi mà các con của họ
vào trạc tuổi ta, ta cũng không nên bắc bậc gọi
con người ta là cháu. Trong trường hợp này ta nên gọi
họ là bác và gọi những người con của
người ta là anh, chị, hay cô, cậu (cô hay cậu
trong trường hợp này có nghĩa là em).
6. Trong các buổi hội họp, nếu
ta c̣n nhỏ tuổi, ta cũng không nên gọi những
người trong buổi họp bằng cách thưa gửi
như: “Thưa cha mẹ, bác, chú, thầy, cô,” v.v. dù trong buổi
họp ấy có người là cha mẹ ta, cha mẹ của
bạn ta, có người bằng tuổi chú bác ta, và có
người là thầy cô của ta cũng vậy. Trong
trường hợp này, ta nên gọi tất cả những
người hiện diện bằng quí vị và xưng là
chúng tôi (từ chúng tôi ở đây không có nghĩa là nhiều
người, nó được dùng trong nghĩa trịnh trọng
và khiêm tốn để thay thế cho tiếng tôi). Lư do là
đă dự cuộc hội họp, ta có quyền b́nh đẳng
về việc tŕnh bầy ư kiến. Mọi ư kiến phải
có giá trị ngang nhau.
Nếu trong khi phát biểu ư kiến
mà ta xưng là cháu hay con có ư kiến th́ tự cách xưng hô
này nó đă làm ư kiến của ta lép vế đi. Hơn nữa,
trong buổi họp có những người bằng tuổi
ta và có khi c̣n kém tuổi của ta nữa, nếu ta xưng
là con hay cháu th́ không hợp cách. Khi xưng hô bằng quí vị
và chúng tôi, ta mới cảm thấy có hào khí trong lúc đối
thoại và không có ǵ gọi là vô lễ cả.
7. Ta đừng lầm lẫn cách
xưng hô trong liên hệ họ hàng với cách xưng hô
đối với người ngoài. Ta có thể có anh hay chị
hơn ta hai ba mươi tuổi, nhưng ta không nên gọi
người ngoài hơn ta hai ba mươi tuổi là anh hay
chị được. Tùy theo từng trường hợp
như đă nói ở trên mà định cách xưng hô. Cũng
tương tự, ta đừng bao giờ thấy các bạn
trẻ bằng tuổi con ta mà ta gọi họ là cháu hay
con, trừ trường hợp ta chơi thân với cha mẹ
của họ. Nếu không chơi thân với cha mẹ của
họ, ta nên gọi họ là anh chị (tiếng anh chị
ở đây có nghĩa là anh chị của con chúng ta, nó c̣n
có nghĩa là các bạn trẻ nữa).
8. Vào thời nay, quan niệm nhất
tự vi sư, bán tự vi sư vẫn c̣n được
trọng và chấp nhận. Nếu có người đă là
thầy ta dù tuổi tác không hơn ta là bao, ta vẫn phải
gọi họ là thầy và xưng là con. Từ thầy con ở
đây có nghĩa nói về tước vị cũng giống
như trường hợp của những người
theo đạo Thiên Chúa hay Phật Giáo khi họ gọi các vị
tu sĩ là Cha hay Thầy và xưng con. Từ cha con không có
nghĩa là cha đối với con như ở cách xưng
hô trong gia đ́nh. Tuy nhiên, trong thời gian qua, người
ta đă mạêc nhiên chấp nhận cách xưng hô bằng
“thầy, em” hay “cô, em” giữa thầy cô và học tṛ v́ thời
thế đổi thay, con người và cách xưng hô cũng
đổi thay. Học tṛ xưng hô riết rồi quen, và
thầy cô mặc nhiên chấp nhận lối xưng hô này.
Đối với các con của thầy cô, học tṛ phải
gọi họ là anh hay chị. Trong trường hợp thầy
cô và học tṛ có liên hệ gia đ́nh, việc xưng hô có
thể thay đổi. Việc xưng hô giữa thầy cô
và học tṛ cũng có thể được thay đổi
tùy theo sự cho phép của thầy cô.
9. Đối với những
người có bằng cấp hay chức vụ, người
ta thường dùng các từ như ông, cụ, cậu, anh,
cô, hay bà trước danh hiệu bằng cấp hay chức
vụ của họ để gọi: Cậu Cử, Anh
Khóa, Cô Tú, Bà Tổng Trưởng, Cụ Thủ Khoa, Ông Giám
Đốc, Ông Hiệu Trưởng, Ông Tỉnh Trưởng,
và Ông Thủ Tướng, v.v. Người ta c̣n đặt
tên người sau các tên bằng cấp hay chức vụ của
họ để gọi: Thủ Khoa Huân, Tiến Sĩ Khôi,
Bác Sĩ Hồ, Dược Sĩ Tài, và Luật Sư Hùng,
v.v.
10. Đối với những vị
đi dạy học, người ta thường dùng danh từ
thầy hay cô đặt trước tên hay chức vụ của
họ để gọi: Thầy Tâm, Cô Tám, Thầy Giám Học,
và Thầy Hiệu Trường, v.v.
Chúng ta cũng nên biết qua về
cách học tṛ xưng hô với các thầy cô ở Bắc Mỹ
này để hướng dẫn con em chúng ta. Đối với thầy
cô ở Bắc Mỹ, con em chúng ta phải dùng các từ
Mr., Miss, hay Mrs. trước tên họ của thầy cô
để gọi: Mrs. Williamson, Mr. Black, và Miss Fenn, v.v.
Nếu thầy cô có bằng cấp
cao như tiến sĩ, người ta đặt từ
Dr. trước tên họ để gọi: Dr. Hardy, Dr.
Smith, v.v. Theo đúng phép lịch sự ở Bắc Mỹ
này, khi học tṛ gặp thầy cô, chúng phải chào bằng
cách dùng từ hello, good morning, good afternoon, v.v kèm theo các từ
Mr., Mrs, hay Miss cùng với tên họ của thầy cô để
chào: “Good morning Mrs. Fenn, Hello Mr. Black,” v.v. Khi thầy cô bảo
ǵ, học tṛ thường thưa lại bằng cách dùng từ
“Yes, Sir” hay “Yes, Ma'am” (Ma'am là chữ viết tắt của
Madam nghĩa là cô hay bà), “No, Sir” hay “No, Ma'am” để trả
lời. Những học tṛ có
lễ độ ở đây không bao giờ dùng “Hi,”
“Je...ep,” hay “Ok” trong cách chào hỏi hay xưng hô với thầy
cô. Họ cũng không dùng “Yes” hay “No” một cách trống
không để trả lời thầy cô.
11. Đối với những vị
cao niên, người Bắc thường dùng chữ cụ
để xưng hô, chẳng hạn như: “Chào cụ! Cụ
vẫn mạnh chứ ạ?” Người Miền Nam không
dùng tiếng cụ mà dùng tiếng bác, chú, hay ông để gọi.
III. Việc Xưng Hô của Con Cái
Đối Với Khách Đến Chơi Nhà
Người Việt ta thường
hiếu khách. Khi khách đến chơi nhà, tùy theo thân
sơ, mau chóng, và tùy theo công việc giao thiệp, người
ta có thể giới thiệu khách với cả nhà hay không.
Khi khách được giới thiệu với người
trong gia đ́nh, việc xưng hô phải được
đặt ra cho phù hợp. Một số điều quan trọng
mà những người thận trọng thường chú ư
để dạy các con cho bằng được:
1. Khi khách vào nhà, nếu các con
đang chơi trong pḥng khách, chúng phải đứng lên
tươi cười chào khách rồi nhắc bố mẹ
cho biết khách muốn uống nước ǵ để chuẩn
bị nước mời khách, sau đó vào trong nhà chờ nếu
bố mẹ có gọi ǵ th́ có mặt ngay. Bố mẹ phải giới thiệu
khách, nếu là khách lạ, với các con rồi giới thiệu
các con ḿnh với khách. Liền sau đó, bố mẹ phải
chỉ cho chúng cách thức xưng hô với khách.
2. Khi các con đi đâu về mà
khách đă có mặt trong nhà rồi, chúng phải chào khách
ngay khi trông thấy khách. Trong trường hợp khách là
người lạ mà con ḿnh chưa gặp bao giờ, bố
mẹ phải giới thiệu khách với các con và chỉ
cho chúng cách xưng hô. Thí dụ:
a. Đây là Bác Thuấn, bạn của
ba má. Đây là cháu Khang, con trai út của chúng tôi. Chào bác Thuấn
đi con... Người con sẽ chào khách: “Chào Bác ạ!”
Đương nhiên là khách cũng phải chào lại và có
đôi lời hỏi thăm. Có như thế th́ mối
giao t́nh mới thắm thiết.
b. Đây là anh Hùng, học tṛ của
ba. Đây là em An, con út của thầy. Chào anh Hùng đi
con... Người con sẽ chào khách: “Chào Anh ạ!” hay “Chào
Anh Hùng!” Cách giới thiệu này có lợi là khách và con ḿnh
không bỡ ngỡ trong cách xưng hô. Có những trẻ
thông minh, trong trường hợp có khách lạ và nếu bố
mẹ chưa kịp giới thiệu, chúng đă mỉm
cười và cúi đầu chào khách rồi mà không cần
phải nói năng ǵ cả.
3. Những người c̣n thiết
tha với văn hóa Việt và tiếng Việt, họ
thường dạy con ḿnh cách chào hỏi khách bằng tiếng
Việt, cách tiếp khách, và cách nói chuyện qua điện
thoại với khách một cách lịch sự. Họ
thường dạy con cái phải chào hỏi khách không những
khi khách đến chơi nhà mà c̣n chào hỏi khi gặp
khách của bố mẹ ở ngoài đường nữa.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đă có những
trẻ khi gặp bạn của bố mẹ cứ đứng
nh́n trâng trâng và không biết chào hỏi ǵ cả. Có trường
hợp chúng chỉ đưa tay vẫy và nói: “Hi!” Đây là
trường hợp của những gia đ́nh quá bận rộn
trong việc sinh kế nên đă không dạy được
con cái của họ và cũng không chịu cho trẻ theo học
các lớp Việt ngữ tại địa phương.
4. Những trẻ được dạy
bảo thường có những lời lễ phép
như: “Mời Bác vào nhà
chơi. Bác dùng nước ǵ để con lấy? Bác ngồi
chơi một chút, con vào thưa với ba má con ra tiếp
Bác” (trường hợp khách quen và bố mẹ có mặt ở
nhà). Khi khách gọi điện
thoại, người con có lễ phép thường trả
lời khách như sau: “Thưa
bác, ba má cháu đi vắng. Bác có nhắn ǵ để cháu
thưa lại với ba má cháu” (trong trường hợp
khách gọi điện thoại và bố mẹ đi vắng).
5. Thái độ của các con trong
khi chào khách của bố mẹ cũng rất quan trọng.
Nếu khách là bạn của bố mẹ hay là người
già cả, trong khi chào khách, các con phải giữ nét mặt
cho tươi vui, hai tay chắp lại hay khoanh lại
để trước ngực và đầu hơi cúi xuống
một chút. Nếu khách là người bằng vai với
các con của chủ nhà, những người con này chỉ
cần vui vẻ chào khách mà không cần phải khoanh tay hay
cúi đầu.
6. Khi bố mẹ đến
chơi nhà con cái, các con phải ra tận cửa chào mừng
bố mẹ, mời bố mẹ vào nhà, và hỏi xem bố
mẹ thích uống nưới ǵ th́ lấy nước mời
bố mẹ uống. Trong trường hợp bố mẹ
đến chơi nhà mà các con đang có khách, các con phải
giới thiệu bố mẹ với khách và giới thiệu
khách với bố mẹ. Cũng tương tự như
vậy, trong khi bố mẹ đă có mặt trong nhà mà bạn
bè của con cái đến chơi, con cái phải giới
thiệu bố mẹ với bạn bè của ḿnh và giới
thiệu bạn bè với bố mẹ. Có làm như thế
th́ việc xưng hô giữa khách và bố mẹ mới thuận
lợi, tự nhiên, và vui vẻ. Đây là vấn đề
lễ phép và lịch sự mà con cái phải theo để
chứng tỏ là ḿnh thuộc gia đ́nh có giáo dục.
IV. Nhận Xét Chung
Cần duy tŕ tuyền thống trong
cách xưng hô của người Việt. Việc xưng
hô đúng cách trong tiếng Việt, cả ở gia đ́nh
và ngoài xă hội, phải học mới biết được.
Việc xưng hô đúng cách làm chúng ta gần nhau hơn, kết
nối nhau thành một cộng đồng thắm thiết,
có trên có dưới, hợp t́nh hợp lư, và tạo điều
kiện để ta duy tŕ và phát triển truyền thống
phong tục Việt ở hải ngoại này.
Việc xưng hô không đúng cách
làm chúng ta không muốn gặp nhau v́ bẽ bàng, ngượng
ngùng, và từ đó người ta không c̣n t́nh nghĩa, gia
đ́nh đổ vỡ, bạn bè ĺa xa, và cộng đồng
phân tán.
Là người Việt, ta phải
duy tŕ truyền thống xưng hô phong phú và có ư nghĩa từ
lâu đời của tổ tiên ta. Sự xưng hô này
tượng trưng cho việc lễ độ, lịch sự,
kính nhường, thân ái, và t́nh cảm keo sơn giữa những
người Việt với nhau. Đây là sứ mạng của
các bậc phụ huynh và cộng đồng người Việt
ở hải ngoại. Phụ huynh phải dạy các con
cách xưng hô ngay từ khi chúng c̣n nhỏ. Cộng đồng
và phụ huynh người Việt hải ngoại phải
khuyến khích công việc này bằng cách mở và duy tŕ các
lớp Việt ngữ. Việc xưng hô bằng tiếng
Việt phải được đặt ưu tiên hàng
đầu trong chương tŕnh dạy Việt ngữ v́
việc xưng hô đúng cách là thể hiện tŕnh độ
lễ phép của học tṛ và con cái. Học tṛ và con cái có lễ
mới là người con ngoan, học tṛ giỏi, và công dân
tốt. Đó là ư nghĩa của câu Tiên học lễ hậu
học văn.
Phải cảnh giác về cách
xưng hô lố lăng của bọn Việt Cộng. Hiện
nay ở Việt Nam, bọn Cộng Sản đang phá hoại
mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt. Đất nước ta đă và đang bị bọn
Cộng Sản làm cho “xuống hàng chó ngựa” về đủ
mọi mặt. Riêng về cách xưng hô, bọn Cộng Sản
đă làm tiêu tan và đảo lộn hết cả. Chúng dùng
tiếng đồng chí để gọi những người
làm việc với chúng. Già cũng đồng chí và trẻ
cũng đồng chí. Đàn bà cũng đồng chí và
đàn ông cũng đồng chí. Ngoài ra chúng c̣n dùng tiếng
anh chị để gọi tất cả mọi người.
Già cũng anh chị, trẻ cũng chị anh, cấp trên
cũng anh chị, và cấp dưới cũng chị anh.
Ngoài ra, bọn Cộng Sản thường hay nói tục và
chửi thề. Khi viết văn, những bọn Cộng
nô thường dùng lối văn hạ cấp và viết
toàn giọng mất dạy, tục tĩu, và vô lễ,
Cần phải hiểu âm mưu của
bọn Việt Cộng trong cách xưng hô bằng chữ Việt
kiều. Trước đây, bọn Cộng Sản mạt
sát người Việt hải ngoại đủ điều
tệ hại, thế mà ngày nay chúng lại gọi người
Việt hải ngoại là Việt kiều và coi người
Việt hải ngoại là khúc ruột ngoài ngàn dậm của
bọn chúng. Bọn Việt cộng quả thật là đồ
vô liêm sỉ! Chúng o bế và ve văn người Việt hải
ngoại đủ điều để lôi cuốn những
người ấu trĩ, thờ ơ, và u tối để
gửi và mang tiền về cứu nguy cho bọn chúng. Bọn
Cộng Sản ngu không hiểu nghĩa của chữ Việt
kiều đă đành, một số người Việt tỵ
nạn Cộng Sản lại tự xưng ḿnh là Việt
kiều mới là điều
nhục nhă và đau đớn không những cho họ
mà c̣n cho cả chúng ta nữa!
Theo công pháp quốc tế, kiều
cư là người dân của một nước lưu
trú ở nước ngoài nhưng vẫn c̣n là công dân và trực
tiếp chịu sự kiểm soát và chi phối của
chính phủ trong nước qua trung gian toà đại sứ
của nước này ở hải ngoại. Người
Việt tỵ nạn Cộng Sản chúng ta không phải là
công dân của nước XHCN (Xuống Hàng Chó Ngựa) của
bọn Việt Cộng và không
chấp nhận sự kiểm soát của bọn Việt Cộng.
Không những thế, chúng ta hiện là công dân của nước
mà chúng ta đang ngụ cư và c̣n t́m cách giải thể chế
độ Cộng Sản để đem lại tự
do, dân chủ, và nhân quyền cho toàn dân nơi quê nhà. Tóm lại,
chúng ta không phải là Việt kiều của bọn Cộng
Sản.
Chữ Việt kiều mà bọn Việt
Cộng đang dùng chỉ được áp dụng cho những
cán bộ Cộng Sản được gửi ra hải
ngoại, những du học sinh là con cháu bọn cộng sản,
và những tay sai đang làm kinh tài ở hải ngoại cho
bọn Việt cộng. Xin những người chân chính chống
Cộng đừng dùng tiếng Việt kiều để
xưng hô cho ḿnh, cho tổ chức ḿnh, hay cho người
Việt hải ngoại. Nếu tự nhận ḿnh là Việt
kiều, ta đă tự phản bội và xỉ nhục
ḿnh. Ta là người Việt tỵ nạn Cộng Sản
và chống Cộng. Ta không phải là Việt kiều của
bọn chúng. Chữ Việt kiều hiện nay có nghĩa
là Việt cộng ở nước ngoài, tức là người
của bọn Cộng Sản Việt Nam, chứ không phải
là người Việt tự do như nghĩa của chữ
Việt kiều trước đây.
Khi được nhận vào các
nước tự do để tỵ nạn Cộng Sản,
chúng ta ở trong t́nh trạng stateless (người không thuộc
về một quốc gia nào). Điều này có ghi rơ trong giấy
di trú của chúng ta và nó có nghĩa là chúng ta ở trong t́nh trạng
vong quốc do bọn Việt Cộng gây ra. Chúng ta hăy quyết
tâm tiêu diệt chế độ Cộng Sản Việt Nam
để phục quốc và phục hồi nghĩa chính thống
của hai chữ Việt kiều trong cách xưng hô của
chúng ta.
Bản Chất Và Động Lực
Đích Thực Của Con Người
Đă có nhiều người
băn khoăn về bản chất đích thực của
con người ra sao và động lực đích thực
nào đă giúp cho con người tiếp tục sống.
Chúng ta hăy thử t́m hiểu bản chất đích thực
và động lực đích thực của con người
như thế nào để từ đó chúng ta có được
cái nh́n đích thực về cuộc sống con người
và t́m cách thăng hoa cuộc sống cho nhân loại.
I. Bản
Chất Đích Thực Của Con Người
1. Con Người Theo Nghĩa Của
Sinh Vật Học: Theo sinh vật học, con người
thuộc loại động vật có xương sống,
có trung khu thần kinh cùng năo bộ phát triển cao độ,
có hai chân đứng thẳng, đẻ con và nuôi con bằng
sữa mẹ, có khả năng nói rơ ràng, biết lư luận
trừu tượng, và có khả năng tưởng tượng.
Theo định nghĩa này, con người trước nhất
là một con vật. Đă là con vật th́ tất nhiên phải
có thú tính. V́ có trung khu thần kinh và năo bộ phát triển
cao độ và có khả năng lư luận nên nhiều khi
cái thú tính này c̣n tệ hại hơn thú tính của những
con vật khác nếu con người thiếu căn bản
đạo đức và không được giáo dục
đúng cách. Trong trường hợp này, những thú tính dă
man, phản phúc, và phản quốc của họ sẽ trở
nên rất tồi bại không thể lường được.
Người xưa có nói đại
ư rằng khi được hoàn thiện, con người là
con vật tốt đẹp nhất trong loài vật. Nếu
không có luật pháp và công lư ràng buộc, con người lại
là con vật tồi bại nhất trên thế giới.
Điều này rất đúng v́ nó đă được chứng
minh một cách cụ thể bằng những sự kiện
xảy ra hàng ngày trước mắt chúng ta trong các xă hội
Cộng Sản, nhất là xă hội Cộng Sản tại
Việt Nam, nơi không có luật pháp chân chính và công lư chân
chính ngự trị. Luật pháp và công lư của Cộng Sản
là thứ ngụy luật pháp và ngụy công lư của quân
xâm lăng cướp của giết người. Đó là
thứ bánh vẽ và b́nh phong để che đậy dă tâm của
chúng.
Những tên chóp bu trong trung
ương đảng Cộng Sản Việt Nam, tay sai của
Cộng Sản quốc tế, đă âm mưu núp dưới
chiêu bài “độc lập, tự do, hạnh phúc, yêu nước,
nhân dân,và cứu quốc,v.v.” để thẳng tay lừa
gạt dân chúng và che mắt mọi người kể cả
nhân dân thế giới. Chúng đă ăn cướp chính quyền
một cách gian manh bỉ ổi từ những năm 1945
cho tới ngày nay. Khi có chính quyền trong tay, chúng thẳng
tay đàn áp, cướp của nhân dân, và đầy ải
toàn dân “xuống hàng chó ngựa.”
Bọn cướp Cộng Sản
mà có chính quyền trong tay th́ toàn dân Việt làm sao ngóc đầu
lên được! Bọn Việt Cộng c̣n là bọn chủ
trương xuyên tạc lịch sử, phá hủy truyền
thống văn hóa cổ truyền, buôn dân bán nước
cho quan thầy Nga Hoa. Chúng rất dă man, khát máu, vô nhân cách, phản
phúc, phản quốc, đầy thú tính, và vô liêm sỉ. Luật
pháp chân chính, công lư chân chính, tự do, dân chủ, và nhân quyền
không có chỗ đứng trong xă hội Cộng Sản Việt
Nam.
Những tên chóp bu trong guồng máy
cai trị của chế độ Cộng Sản quả
là những con vật tồi bại nhất thế giới.
Một chính khách chân chính, ông Toàn Không Nguyễn Huy Hân, đă
thổ lộ với kẻ viết bài này rằng chủ
nghĩa Cộng Sản là ma giáo, các đảng viên đảng
Cộng Sản là những con yêu tinh đội lốt
người. Nhật xét này quả thật là chí lư!
Trong xă hội tự do, con người
cũng là con vật nhưng họ tiến bộ hơn những
con vật Cộng Sản. Họ cũng thuộc loại
cá lớn nuốt cá bé và cũng độc ác, nhưng nhờ
có luật pháp, công lư, tự do, dân chủ, và nhân quyền
chân chính nên đại đa số con người sống
dưới chế độ tự do được
hưởng cuộc đời hạnh phúc và ấm no. Tuy
nhiên, tội ác trong xă hội tự do vẫn xảy ra, chẳng
hạn như những trường hợp mẹ giết
các con để đi theo trai, con cái giết bố mẹ
để đoạt gia tài sớm hơn, vợ giết
chồng hay chồng giết vợ, và các vụ cướp
của giết người cùng các trường hợp vi
phạm luật giao thông công cộng không phải là hiếm.
Nhưng dầu sao đi nữa, những nạn nhân của
các tội ác này đều được luật pháp và
công lư chân chính bảo vệ và che chở một cách đúng
mức, và những kẻ phạm pháp đều bị trừng
trị một cách đích đáng.
2. Bản Chất Đích Thực Của
Con Người Theo Quan Niệm Của Một Số Triết
Gia Tây Phương: Nhờ có kinh nghiệm thực tế và
kiến văn quảng bác, các triết gia Tây Phương
đă có những nhận xét sau:
- Con người uống nước
ngay cả khi không khát và có thể làm t́nh bất cứ lúc
nào. Đây là điều duy nhất để phân biệt
con người với các con vật khác. (Beaumarchais, The
Marriage of Figaro, 1784)
- Đa số con người đều
có óc lười biếng, thờ ơ, và bị lôi cuốn
vào các chuyện vô ích và việc ăn không ngồi rồi.
(T.S. Eliot,Introduction to Pascal's Pensees, 1931)
- Con người là những cái b́nh
bằng đất mà có tinh thần ở trong. (Nathaniel
Hawthorne, American Note-Books, 1842)
- Trong tất cả những sinh vật
biết thở và biết ḅ trên trái đất, không có sinh vật
nào buồn rầu chán nản hơn con người. (Homer,
Iliad, 9th Century, B.C.)
- Con người là những con khỉ
lớn không có đuôi; đừng có ngạc nhiên khi thấy
những sự kiện về cách thức mà tổ tiên con
người đă sống. (Richard Leakey, The Origin of Humankind,
1994)
- Tôi chưa từng thấy trên thế
giới có một con quái vật to lớn hay một phép lạ
vĩ đại nào bằng chính tôi. (Montaigne, “Of Cripples,”
Essey, 1580-88)
- Con người có tất cả mọi
thứ, bạn có thể tùy ư chọn ở nơi hắn
ta cái nào làm cho bạn hài ḷng. (Saint-Exupery, The Wisdom of The Sands,
1948)
- Chúng ta nên biết rằng, ở
con người có cả những điều tốt nhất
cũng như những điều tệ hại nhất;
nó cũng giống như t́nh trạng thay đổi của
thời tiết vậy. (Vauvenargues, Reflections and Maxims, 1746)
- Con người rất ham sống
và bám víu lấy cuộc sống ngay cả lúc phải chịu
đựng nỗi hẩm hiu và tuyệt vọng nhất.
(Aristotle, Politics, 4th Century, B.C.)
- Nghệ thuật sống của
con người giống như cuộc vật lộn
hơn là việc nhảy đầm. (Marcus Aurelius,
Meditations, 2th Century)
- Làm một con chó c̣n sống tốt
hơn là làm một con sư tử đă chết. (Bible,
Ecclesiastes 9:4)
- Khi nghĩ về cuộc sống,
tôi thấy tất cả đều là sự gian xảo và
đùa cợt với hy vọng. Con người ưa thích
điều gian trá. (John Dryden, Aurengzebet, 1676)
- Con người khóc từ khi mới
sinh ra, sống để than phiền, và chết v́ thất
vọng. (Thomas Fuller, M.D.,Gnomologia, 1732)
- Cuộc đời làm bằng cẩm
thạch và đất bùn. (Nathaniel Hawthorne, The House of The Seven
Gables, 1851)
- Đời là cuộc tranh đấu
không ngừng để trở nên cái ta không phải là ta và
làm những cái mà ta không thể làm được. (William
Hazlitt, “Disappointment,” Lectures on The Dramatic Literature of The Age of
Elizabeth, 1820)
- Không phải cuộc đời chỉ
là một chuỗi hết thứ khả ố này đến
thứ khả ố khác mà là cùng một thứ khả ố
cứ lập đi lập lại măi. (Edna St. Vincent Millay,
Letters of Edna St. Vincent Millay, 1952)
- Nghệ thuật sống là nghệ
thuật biết cách tin những lời nói láo. (Cesare Pavese,
The Burning Brand, 1961)
- Đời sống con người
không tốt mà cũng không xấu, nó là nơi cư ngụ
cho cả điều tốt lẫn điều xấu.
(Seneca, Letters to Lucilius,1st Century)
- Không có cái ǵ giả tạo và phản
phúc bằng đời sống con người. (Seneca, A Marciam
de Consolatione, 1st Century)
- Loài người có bẩm tính hay
đánh nhau và gây sự. (Trish Crawford, “Science Unlocks Brain's
Secrets,” Toronto Star, September 6, 1999).
3. Bản Chất Đích Thực Của
Con Người Theo Quan Niệm Đông Phương Qua Lời
Cổ Nhân, Ca Dao, và Tục Ngữ
a. Những Lời Cổ Nhân: Sau
đây là những lời của cổ nhân về bản chất
đích thực của conngười do kẻ viết bài
này c̣n nhớ nội dung nhưng không nhớ tên tác giả:
- Truy nguyên ra th́ trong đầu óc
nhân loại vẫn có những thú tính, tham dâm hung tàn. Đa số
chỉ có nghĩ lành, nói lành, ước ao lành, cầu
người làm lành, bắt người làm lành, mà chính thân
ḿnh th́ ác. Người là giống tàn ác hơn các loài mănh thú.
- Nhân
gian có hai cái mỏng, giá mùa xuân đă mỏng mà thói đời
c̣n mỏng hơn (mặt nước gặp khí lạnh
đông lại thành váng gọi là giá). Nhân gian có hai cái hiểm,
núi sông hiểm mà ḷng người càng hiểm hơn.
- Hôn dạ khất ai, kiêu nhân bạch
nhật. Ư của câu này là để phơi bày cái xấu xa
của những kẻ quen thói cầu công danh phú quư bằng
cách đêm khuya van lạy, ban ngày vênh váo khinh người.
- Thói thường ở đời,
ḿnh dở không ưa người hay, ḿnh lười không
ưa người chăm, ḿnh trái không ưa người phải,
ḿnh nghèo hèn không ưa người giàu sang, và ḿnh độc
ác gian manh mà lại ghét kẻ chê ḿnh... Cho nên người với
người thường hay sinh sự, xă hội mới hỗn
loạn, và nhân loại mới phải ngụp lặn trong
chiến tranh.
b. Ca Dao và Tục Ngữ Nói Về Bản
Chất Đích Thực Của Con Người: Từ khi có
đất có trời, không ǵ độc ác bằng loài Cộng
nô. / Sông sâu c̣n có kẻ ḍ, ḷng
người nham hiểm ai đo cho cùng./ Ḷng người
thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết
nơi nào ḍ./ Cứu vật vật trả ơn, cứu
nhân nhân trả oán. / Làm phúc phải
tội. / Cháy nhà hàng xóm b́nh chân như vại. / Khen ai khéo tạc
b́nh phong, bên ngoài long phụng, trong ḷng gạch vôi. / Anh về
rẫy vợ anh ra, con anh thơ dại th́ đà có tôi./ Anh
đà rẫy vợ anh rồi, con anh thơ dại mặc
trời với anh. / Có tiền vợ vợ chồng chồng,
hết tiền th́ lại chồng đông vợ đoài. /
Ông chết th́ thiệt thân ông, bà tôi sắp sửa lấy
chồng nay mai./ Bà chết th́ thiệt thân bà, ông tôi sắp
sửa lấy ba nàng hầu. / Ở sao cho vừa ḷng
người, ở rộng người cười, ở
hẹp người chê./ Cao che ngỏng thấp chê lùn, béo
chê béo trục béo tṛn, gầy chê xương sống,
xương sườn ch́a ra. / Thế gian lắm kẻ
mơ màng, thấy ḥn son thắm ngỡ vàng chắt chiu. / Rừng
có mạch, vách có tai, người trong chưa tỏ người
ngoài đă hay. / Nhà giàu yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ
vào ra nịnh thần. / Của ḿnh, ḿnh giữ bo bo, của
người th́ thả cho ḅ nó ăn. / Khi vui th́ vỗ tay
vào, đến khi hoạn nạn th́ nào thấy ai. / Uổng
công xúc tép nuôi c̣, c̣ ăn mau lớn, c̣ ḍ c̣ bay. / Ngoài miệng
th́ niệm Nam Mô, trong ḷng th́ chứa một bồ dao
găm.
4. Bản Chất Đích Thực của
Con Người (Chúng Sanh) Theo Quan Niệm Nhà Phật: Nhà Phật
cho rằng đời là bể khổ v́ con người, tức
chúng sanh, đều vướng vào tam độc, tứ
tướng, bát tà, và thập ác. Những điều này làm
con người mê muội nhiên hậu không vận dụng
được trí huệ bát nhă để nh́n rơ hiện
tượng nên đă lấy cái giả làm cái chân và tạo
cho ḿnh nhiều phiền năo khổ đau.
Tam độc gồm tham, sân, và si.
Tứ tướng gồm nhân tướng (khinh người
và tranh quyề đoạt lợi), ngă tướng (chỉ
biết có ta, ta là tất cả), chúng sinh tướng (ngụp
lặn trong tham sân si và thất t́nh lục dục), và thọ
giả tướng (thích khoái lạc và hưởng thụ,
ham sống dù sống hèn sống nhục). Bát tà gồm tà kiến,
tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tiến,
tà niệm, tà định. Thập
ác gồm sát sinh, trộm cướp, tà tâm, vọng ngữ,
ư ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, tham lam, tức
giận, và ngu si.
Trong thập nhị nhân duyên của
nhà Phật, tức là 12 nguyên nhân tương thuộc đă
gây ra nghiệp luân hồi, vô minh là nguồn gốc gây ra sự
phiền năo và đau khổ của con người.
Nhà Phật c̣n cho rằng chúng sanh v́
vướng phải chấp ngă, hữu niệm, hữu
tướng, hữu thường, và hữu trụ nên
đă gặp nhiều phiền năo và khổ đau.
V́ có chấp ngă, con người mới
coi cái ta là hơn tất cả nên mới gặp phiền
năo và khổ đau. V́ vướng vào hữu niệm, con
người mới để tâm nhiễm điều bất
chánh và lẩn quẩn với các điều thiện ác vui
buồn và lo làm điều lợi riêng cho ḿnh nên mới
vướng nhiều phiền năo khổ đau. V́ cho là hữu
tướng, con người vướng mắc vào sắc
tướng bề ngoài gồm sắc, thinh, hương, vị,
xúc, và pháp nên mắc vướng vào cảnh trần tục
và bị nhiễm bụi trần nên ta mới đau khổ.
Sự thực th́ chúng sanh và các pháp, tức là vạn vật,
đều là vô tướng.
Chúng sanh đều do tứ đại
gồm đất, nước, lửa, và khí giả hợp
mà thành. Các pháp, tức là vạn vật, chỉ do nhân duyên
giả hợp mà có. V́ tin là hữu thường, con người
mới coi mọi sự trên đời là vĩnh cửu nên
mới tŕu mến, tiếc thương, và phiền năo khi
phải xa ĺa. V́ vướng vào hữu trụ, con người
mới để ư tới sự lợi ích, oán ghét
thương yêu, và tốt xấu nên cứ bị luẩn
quẩn vào đó để tự ḿnh trói buộc ḿnh và tạo
phiền năo cho ḿnh và cho tha nhân.
Chính v́ thế mà căn bản giáo
lư của nhà Phật chủ trương vô ngă, vô niệm,
vô tướng, vô thường, và vô trụ để giúp
chúng sanh chuyển mê khải ngộ để tự giác và
giác tha và tế độ chúng sinh.
Tóm lại, theo nhà Phật, bản
chất đích thực của con người là: tham lam,
nóng giận, si mê, tranh quyền đoạt lợi, tự
cao tự đại, ngụp lặn trong thất t́nh lục
dục, ưa hưởng khoái lạc, tham sinh úy tử, sát
sanh, trộm cướp, tà dâm, ác khẩu, và làm những
điều tà vạy trong hầu hết các lănh vực của
cuộc sống như có tư tưởng bậy bạ,
lời nói điên đảo lếu láo, việc làm mờ
ám hại dân hại nước, cách sống và lối
mưu sinh gian giảo, cầu tiến theo đường
tà đạo ma giáo, ư niệm đen tối, và chỉ biết
dốc tâm sức theo đuổi danh quyền lợi bất
chính để hại dân hại nước và hại cả
chính ḿnh. Thêm vào đó, con người c̣n có khuynh hướng
chấp có cái ta, để tâm nhiễm điều bất
chánh, vướng mắc vào h́nh hài diện mạo, coi mọi
việc là vĩnh cửu, và bị lẩn quẩn trong sự
lợi hại oán ghét thương yêu tốt xấu nên con người đă tạo
phiền năo và đau khổ cho ḿnh và cho tha nhân.
5. Con Người và Cuộc Đời
Theo Nhận Xét Thường T́nh: Phần đông con người
trên trái đất này đều có khuynh hướng chỉ
lo cho bản thân từ miếng cơm, manh áo, nhà cửa,
khoái lạc, cùng các tiện nghi vật chất khác. Việc
học hành của họ cũng chỉ nhằm mục
đích kiếm miếng cơm manh áo và nhà lầu xe hơi.
Họ chỉ biết lo cho ḿnh, vợ chồng, con cái, cha mẹ, và thân nhân. C̣n đối
với cộng đồng và đất nước th́ họ
có thái độ “cháy nhà hàng xóm b́nh chân như vại.” Không
những thế, nếu có thể vơ vét được
ǵ từ cộng đồng đất nước, họ
cứ vơ vét. Đa số con người đều
đuổi theo danh quyền lợi một cách bất chính
để rồi làm hại dân hại nước và làm khổ
ḿnh.
Đúng ra th́ việc lo cho gia
đ́nh, trong đó có bản thân họ, vợ hay chồng,
và con cái, là điều cần thiết, ta nên làm và phải
làm. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa phải là điều
kiện đủ v́ ngoài những người thân thuộc
ra, chúng ta c̣n có mối liên hệ với đại cộng
đồng đất nước. Nếu ta chỉ
thương yêu và lo cho gia đ́nh cùng thân nhân thôi th́ loài vật
cũng có thể làm được những điều này
mà c̣n làm hay hơn thế nữa. Hăy xem như loài ong, loài kiến,
và loài mối, ngoài việc lo cho gia đ́nh, chúng c̣n xây dựng
cả một xă hội ong, xă hội kiến, và xă hội mối
thật chu đáo.
Thế giới ngày nay sinh biến
loạn luôn luôn chỉ v́ người với người
không biết thương yêu nhau mà chỉ tự tư tự
lợi, tàn ác, lừa đảo, và gian manh, nhất là từ
khi có loài Cộng Sản trên trái đất này. Đại
đa số con người đều tham sinh úy tử,
thích ham vui hưởng lạc, ưa nhàn hạ, sợ hiểm
nguy gian khổ, ưa tâng bốc nịnh bợ, bất tín,
bất trung, và thích làm càn làm bậy. Chính v́ thế nên họ
dễ bị danh quyền lợi bất chính lôi kéo. Họ
không biết liêm sỉ là cái ǵ, không cần sĩ khí, và cũng
chẳng bận tâm về t́nh nghĩa đồng bào làm ǵ.
Kết quả là xă hội nào cũng loạn, nhất là
trong xă hội Cộng Sản. Thế giới cứ triền
miên ngụp lặn trong chiến tranh và con người cứ
tiếp tục chém giết lẫn nhau.
Khi làm những điều phạm
pháp, hầu hết con người đều biết làm
như thế là phạm pháp, nhưng họ vẫn cứ
làm. Chẳng hạn như những quân Cộng Sản Việt
Nam và Cộng nô, chúng biết là chúng lừa đảo và bịp
bợm dân chúng, bán nước, làm tay sai cho Cộng Sản
Nga Tàu, độc tài khát máu, dă man, và đem cả nước
xuống hàng chó ngựa, nhưng chúng vẫn tiếp tục
làm cốt sao đạt được đặc quyền
đặc lợi cho ḿnh cùng bè lũ và mặc kệ cho toàn dân đói khổ
cùng đất nước suy vong. Cái khốn nạn trong xă
hội Cộng Sản là sự phạm pháp được
toàn thể các cấp chính quyền chủ trương. Từ thằng tổng bí thư đảng,
bộ chính trị, chủ tịch nhà nước, thủ
tưởng, cho đến các cán bộ ủy ban hành chánh
và công an phường xă đều là những tên cướp
của giết người và làm hại dân hại nước
nên toàn dân mới “xuống hàng chó ngựa.”
Trong xă hội tự do, chúng ta cũng
thấy nhan nhản những loại người phạm
pháp dù họ biết rằng họ đă và đang phạm
pháp nhưng vẫn cứ làm. Đó là những kẻ úp tiền
hụi, những kẻ lấy tiền công quỹ ra tiêu việc
riêng, những kẻ cạo sửa điều lệ, lợi
dụng khe hở trong bản điều lệ của các
hội đoàn để kéo bè kết đảng và tổ
chức bầu cử gian lận, tiếm danh, những kẻ
gian dâm vợ người, những quân cướp của
giết người, những kẻ vi phạm luật lệ
giao thông, những kẻ gian lận tiền trợ cấp
xă hôi, những kẻ về nước mua khai sinh giả
trong chế độ Việt Cộng để khai gian tuổi
trong việc xin hưởng tiền già (OAS) sớm hơn hạn
định, những quân gian lận tiền y tế, những
quân ăn cắp vặt ở các cửa hàng, những
người đi làm ăn cắp giờ và văn pḥng phẩm,
những kẻ hối lộ và nhận hối lộ, những
kẻ trốn thuế trốn lính, những kẻ quay cóp
trong khi thi cử, những kẻ phản phúc và phản quốc
trong việc làm tay sai và làm kinh tài cho Việt Cộng, và những
kẻ mở trường bán chứng chỉ cho học
sinh để giúp họ trốn nghĩa vụ chiến
đấu chống quân xâm lăng Cộng Sản, v.v.
Những kẻ phạm pháp này, theo
kinh nghiệm cho biết, gồm đủ mọi loại
người, từ nhà tu hành, luật sư, bác sĩ,
dược sĩ, dân biểu, thủ hiến, tổng thống,
nhà văn, nhà báo, nhà giáo, các tướng tá, công an cảnh
sát, cho đến những kẻ thất phu.
Từ những người khoa bảng
học rộng tài cao đến những người vô học
đều có thể làm lợi hay hại cho đất
nước và nhân loại là do ở tấm ḷng chứ không
phải ở chỗ có tài hay không có tài. Nếu có tấm
ḷng ngay chính, con người đều có thể làm những
điều ích quốc lợi dân. Nếu không có “con tâm chân
chính” mà càng có kiến thức cao và bằng cấp cao bao
nhiêu, người ta lại càng gây ra đại họa cho
dân cho nước và cho nhân loại bấy nhiêu.
Như trên đă nói, cái đại hạnh
trong xă hội tự do là tuy vẫn có những kẻ phạm
pháp nhưng những kẻ phạm pháp này đều bị
pháp luật trừng trị một đích đáng và những
nạn nhân đều được pháp luật bảo vệ
chu đáo. Chính quyền của
các nước tự do đều đem hết khả
năng để giúp cho nước mạnh dân giàu trong khi
chính quyền các nước Cộng Sản th́ chủ
trương bóc lột, đàn áp, và
bần cùng hóa nhân dân để làm giầu cho bọn
chóp bu Cộng Sản. Chính v́ thế, dân chúng các nước
tự do càng ngày càng được hưởng tự do
dân chủ và nhân quyền cùng giàu có. Ngược lại, dân
chúng ở các nước Cộng Sản càng ngày càng “xuống
hàng chó ngựa.”
6. Trường Hợp Cụ Thể
Người Việt Chúng Ta: Trong cuốn Cao Đẳng Quốc
Dân, Phan Bội Châu đă kể ra những tệ bệnh của
quốc dân như sau: tính ỷ lại, ḷng giả dối,
thói nhút nhát, tham lợi riêng, đua đ̣i hư danh vô vị,
không thực ḷng yêu nước, không biết nghĩa hợp
quần, mê tín hủ tục, không biết đường
kinh tế, và không thương ṇi giống.
Nh́n lại thời kỳ trước
tháng Tư năm 1975 tại Việt Nam, ta thấy miền
Nam của ta trước đây có tự do dân chủ và nhân
quyền. Quân đội chúng ta hùng mạnh, thiện chiến,
và anh dũng chống lại cả tập đoàn xâm
lăng Cộng Sản quốc tế mà bọn tay sai là Cộng
Sản Việt Nam. Đă hùng mạnh như thế mà tại
sao nước Việt chúng ta lại mất vào tay quân xâm
lăng Việt Cộng, tụi Việt gian bán nước,
tay sai của Nga Tàu? Có nhiều
người cho rằng sở dĩ Miền Nam rơi vào
tay bọn Cộng Sản là do Mỹ và đồng minh, v́
thế chiến lược toàn cầu của ho,ï đă bỏ
rơi Miền Nam trong khi bè lũ Việt gian, tức là bè lũ
Cộng Sản Việt Nam, được toàn thể khối
Cộng Sản quốc tế do Nga Tàu lănh đạo yểm
trợ hết ḷng. Đây là một lư do rất đúng
nhưng cũng chỉ là lư do phụ thuộc mà thôi. Lư do
chính vẫn là tại đa số nhân dân Miền Nam không biết
“tự lập.”
Đa số những người cầm
quyền của chế độ Miền Nam hồi đó
không những có “tính ỷ lại, giả dối, nhút nhát,
tham lợi riêng, thích hư danh, không thực t́nh yêu nước,
không biết hợp quần, không thương ṇi giống”
như cụ Phan Bội Châu đă nói mà c̣n nhẹ dạ, ấu
trĩ, thờ ơ, và u tối. Đấy là chưa kể
những kẻ ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản
đă làm hại dân hại nước.
Họ không có óc tự lập tự
cường mà chỉ trông cậy vào sự trợ giúp của
đồng minh. Ngoài ra họ c̣n là bọn tham quan ô lại.
Họ bị “vô minh” che lấp “trí huệ” nên thay v́ nêu cao
chính nghĩa Quốc Gia trong khi chiến đấu và động
viên tinh thần toàn dân toàn quân chiến đấu để
bảo vệ tự do dân chủ và nhân quyền cho Miền
Nam, họ lại đi nối giáo cho giặc bằng cách
tham nhũng tạo điều kiện cho bọn Việt
gian Cộng Sản có cớ để xâm lăng miền
Nam. Họ c̣n tạo điều kiện cho dân trốn lính,
dung dưỡng và rộng lượng với tụi Việt
gian Cộng Sản, lấy gia đ́nh trị để củng
cố thế lực, không biết chiêu hiền đăi sĩ,
mua quan bán tước, ăn chặn cơm lính, và kéo bè kết
đảng để chống phá lẫn nhau.
Chính quyền không ra chính quyền và
dân chẳng ra dân th́ làm sao mà giữ được nước!
Hồi trước tháng 4 năm 1975, đa số dân chúng Miền Nam
không hiểu dă tâm của Cộng Sản nên có nhiều gia
đ́nh tại Miền Nam đă nuôi Việt cộng nằm
vùng trong nhà để đến nỗi thân bại danh liệt
khi bọn Cộng Sản chiếm trọn Miền Nam. Với
t́nh trạng như thế th́ hỏi sao không mất nước
cho được! Đó là tại chính người Việt
Miền Nam làm mất nước về tay quân xâm lăng Cộng
Sản, chứ không phải chỉ v́ bị đồng
minh phản bội mà thôi.
Ngày nay ở hải ngoại, những
người Việt tỵ nạn Cộng Sản chúng ta
đang gặp phải sự khó khăn về việc kết
hợp cộng đồng thành một lực lượng
người Việt thống nhất có đủ tư
cách pháp lư và sức mạnh để yểm trợ công cuộc
giải trừ quân xâm lăng Cộng Sản tại Việt
Nam. Sự khó khăn này do những bọn sau đây gây ra: bọn
ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản, những
kẻ vô liêm sỉ, và những quân phản bội chính cái
lương tri của chúng v́ đă bị danh quyền lợi
bất chính của Cộng Sản tung ra để dụ dỗ.
Chính v́ thế, đă có một số nhà văn nhà báo vô liêm
sỉ ở hải ngoại này ngang nhiên bẻ cong ng̣i bút
xuyên tạc chính nghĩa của cuộc chiến đấu
chống quân xâm lăng Cộng Sản và kêu gọi mọi
người xóa bỏ hận thù để về cộng
tác với bọn Việt Cộng phản quốc.
Một số khác, v́ tư lợi
và vô liêm sỉ, chúng đă ngang nhiên nhận tiền của
bọn Việt gian Cộng Sản để treo cờ cộng
sản và ảnh của tên tội đồ dân tộc Hồ
Chí Minh. C̣n có những tên phản phúc và phản quốc
đă cộng tác với bọn Cộng Sản để
đưa trọn một bộ phim do ngụy quyền Cộng
Sản dàn dựng từ trong nước ra hải ngoại
nhằm ca ngợi chế độ Cộng Sản, xuyên tạc
sự thực về cuộc chiến đấu tự vệ
của dân quân Miền Nam cốt để chà đạp
lên chính nghĩa bảo vệ tự do dân chủ và nhân quyền
của quân dân Miền Nam.
Một số khác nữa, những
kẻ đă chịu ơn của quân dân Miền Nam
được đi du học, ăn trên ngồi trốc,
và hưởng quyền cao chức trọng, nhưng v́ ham
danh quyền lợi bất chính do tụi xâm lăng Cộng
Sản hứa hẹn, đă có chủ trương hợp
lưu cùng ḥa hợp ḥa giải với quân xâm lăng Cộng
Sản và hợp tác với chính quyền ắn cướp
Cộng Sản nhằm “phát triển” chế độ Cộng
Sản ở quê nhà. Thật là nhục nhă và tủi hổ!
Đừng tưởng những
người có kiến thức rộng hay bằng cấp
cao mà họ sáng suốt đâu! Họ chỉ sáng suốt
khi họ có liêm sỉ, tư cách, và sĩ khí. Kẻ có kiến
thức rộng, có bằng cấp cao, và có chút hư danh mà
vô liêm sỉ, vô tư cách, và vô sĩ khí th́ họ lại trở
thành những kẻ gây ra đại họa cho đất
nước và nhân loại một cách tệ hại không thể
lường được. Dù con người có học rộng
tài cao mà đă vô liêm sỉ, vô tư cách, và vô sĩ khí th́ trí
óc của họ trở thành u mê tăm tối nên họ mới
bị danh quyền lợi bất chính lôi kéo để biến
ḿnh thành kẻ phản phúc và phản quốc.
Trong báo Góp Gió ở thành phố Kent,
WA, Hoa Kỳ, số 69, ngày 17-8-99, với bài “Ḿnh Lại Giật
Ḿnh,” ông Phạm Nam Sách đă viết: “H́nh như càng khoa bảng
cao người ta càng hèn v́ người ta biết sợ và
lại tính toán nhiều quá.” Cũng trong bài này, ở một
đoạn khác, ông Phạm Nam Sách c̣n viết: “Đồng
bào ḿnh không có tập quán 'nước trước nhà sau' nên
việc nhà th́ năng nỏ lo toan c̣n việc nước
th́ thờ ơ lănh đạm,” và “Người Việt ḿnh
không có Mạnh Thường Quân mà chỉ có Lê Chiêu Thống...
Hồ Chí Minh và bè lũ...làm trâu ngựa cho Cộng Sản
quốc tế...cũng là hậu quả của gịng máu Lê
Chiêu Thống.” Nhận xét của ông Phạm Nam Sách quả
là chí lư vậy.
Trong 26 năm (từ 1975 đến
2001) bỏ nước đi tỵ nạn Cộng Sản,
chúng ta đă làm được nhiều việc đáng kể
ở hải ngoại này để phơi bày tội ác của
tụi Việt gian Cộng Sản. Những tấm
gương hy sinh một cách rất anh dũng và kiêu hùng
như anh hùng Lư Tống, Trần
Hồng, và anh thư Nguyễn Thị Ngọc Hạnh
đă làm cho bọn CSVN phải kinh hồn khiếp đảm.
- Anh hùng Lư Tống đă hai lần
dùng phi cơ bay từ hải ngoại về thả truyền
đơn ở Sài G̣n để
kêu gọi dân chúng và các tổ chức chính trị trong
nước đứng lên giải thể chế độ
Cộng Sản Việt Nam mà bọn CSVN không làm ǵ được.
Anh hùng Lư Tống c̣n dùng phi cơ bay từ Mỹ sang rải truyền
đơn ở Cuba để kêu gọi dân chúng Cuba đứng
lên lật đổ chế độ Cộng Sản ở
đấy.
- Lăo tướng Trần Hồng
đă dùng xe ủi sập cổng ṭa đại sứ Việt
cộng ở Paris, treo cờ Việt Nam Tự Do ở tháp
Eiffel Tower của nước Pháp, và treo cờ Việt Nam Tự
Do trên tượng Nữ Thần Tự Do ở thành phố
Nữu Ước tại Hoa Kỳ.
- Anh thư Nguyễn Thị Ngọc
Hạnh đă hiên ngang thiêu rụi lá đại kỳ Việt
Cộng treo trước dinh Tổng Thống Pháp trong lúc tên
Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư Việt Cộng, đến
ngay trước cổng điện
Élysée. Tên Tổng Bí Thư Việt Cộng này đă bị mất
mặt một cách nhục nhă trong chuyến viếng
thăm nước Pháp kỳ này. Tại Luân Đôn bên Anh quốc,
vào chiều thứ năm 31- 8 - 2000, anh thư Nguyễn Thị
Ngọc Hạnh, trong trang phục áo T-shirt có in h́nh quốc
kỳ Việt Nam Tự Do và những ḍng chữ bằng tiếng
Anh và tiếng Pháp với nội
dung đ̣i hỏi tự do và
dân chủ cho Việt Nam, đă xâm nhập ṭa đại sứ
Việt Cộng ở đây để ném bom xăng thiêu rụi
pḥng khách của ṭa đại sứ này. Bà c̣n phóng hỏa
đốt lá đại kỳ Việt Cộng treo ngay
trước cửa ṭa đại sứ của bọn Cộng
nô. Sau đó bà ra ngoài ṭa đại sứ để căng
nhiều tấm biểu ngữ với nội dung chống
chế độ Cộng Sản Việt Nam. Tiếp đó
bà c̣n leo lên cổng ṭa đại sứ để treo lá quốc
kỳ Việt Nam Tự Do nền vàng ba sọc đỏ.
Thành thích chống cộng của
các tổ chức chính trị, cộng đồng, và tôn
giáo của người Việt hải ngoại đă khiến
cho Liên Hiệp Quốc và các nước trên thế giới
phải công nhận lá cờ
Việt Nam Tự Do cùng các nỗ lực tranh đấu cho
dân chủ, tự do, và nhân quyền của toàn dân Việt.
Họ đă làm áp lực với
bọn Cộng Sản Việt Nam và buộc chúng phải
“cởi mở” cả về kinh tế lẫn tự do. Tuy
chưa thành công, nhưng việc này đă đưa đến
kết quả là tạo cơ hội cho nhiều đảng
viên Cộng Sản Việt Nam đứng lên chống lại
chế độ Cộng Sản từ trong ḷng chế
độ của bọn chúng. Tuy nhiên, “lợi th́ có lợi
nhưng răng không c̣n” nếu chúng ta chỉ tranh đấu
cho dân chủ, tự do, và nhân quyền suông không thôi mà không
chú tâm vào việc giải thể chế độ Cộng
Sản cho bằng được như anh hùng Lư Tống
đă hô hào th́ bọn Cộng Sản Việt Nam cũng sẽ
chỉ “cởi trói” đôi chút cho người dân dễ thở
đôi chút và giầu có đôi chút để cứu văn t́nh
thế nguy ngập hiện này của bonï Cộng Sản và
giúp cho chế độ Cộng Sản tồn tại lâu
hơn.
Chúng ta phải biết rằng “miệng
b́nh” Cộng Sản và “miệng lưới” Cộng Sản
vẫn có thể đóng lại, co rút lại, và khép kín lại
bất cứ lúc nào mà không ai làm ǵ được. Điều
này dẫn đến việc chế độ Cộng Sản
sẽ măi măi ngự trị trên quê hương ta, tụi cầm
quyền Cộng Sản Việt Nam sẽ măi măi tiếp tục
vơ vét bóc lột nhân dân ta, và nhân dân ta sẽ măi măi bị
bọn Cộng Sản đầy ải trên chính quê
hương ḿnh. Sự kiện
này c̣n làm cho việc hy sinh của các anh hùng chống Cộng
và thành quả chống Cộng của người Việt
hải ngoại hóa ra “dă tràng xe cát biển Đông” chỉ
v́ mạnh tổ chức nào tổ chức đó làm và mạnh
ai người ấy làm. Đấy là chưa kể có một
số tổ chức ngoài mặt có vẻ chống Cộng
nhưng thực chất lại là tay sai của Cộng Sản.
Bọn này c̣n cố t́nh đưa người của họ
vào các tổ chức và hội đoàn chống Cộng
để dần dần lũng đoạn cộng đồng
và làm lợi cho Cộng Sản.
Nói chung, các hoạt động của
cá nhân hay hội đoàn người Việt hải ngoại
hiện nay tuy có thành công nhưng thiếu hẳn kế hoạch
chỉ huy cùng yểm trợ một cách thống nhất và
toàn diện của đại cộng đồng thống
nhất người Việt hải ngoại. Khi có một
tổ chức thống nhất với sự hiện diện
của tất cả các tổ chức đấu tranh,
chính trị, tôn giáo, và xă hội, chúng ta mới có khả
năng tranh đấu loại trừ chế độ Cộng
Sản độc tài khát máu ở quê nhà và nhiên hậu mới
thực sự đem lại tự do, dân chủ, và nhân quyền
cho toàn dân ta một cách vĩnh cửu.
Chúng ta phải coi việc giải
trừ chế độ Cộng Sản Việt Nam là chính
(điểm). C̣n về việc tranh đấu cho tự
do, dân chủ, và nhân quyền chúng ta chỉ nên coi là phụ thuộc (diện) mà
thôi v́ khi chúng ta giải thể chế độ Việt Cộng
rồi th́ toàn dân Việt dương nhiên sẽ có tự
do, dân chủ, và nhân quyền.
II. Động Lực Đích Thực
Của Cuộc Sống
Mỗi con người đều
có động lực hướng dẫn họ để
sống. Đa số đều có động lực vật
chất, thích danh quyền lợi một cách bất chính.
Ngày xưa, ở Việt Nam người ta thường có
lệ mua ngôi thứ trong làng như “bác nhiêu,” “ông
hương,” hay “ông xă” để có danh và địa vị
trong làng xóm. Ngoài ra, triều đ́nh cũng có lệ quyên tiền
bằng cách bán “phẩm hàm và chức phụ quan” để
có tiền giảm thuế cho dân, chẳng hạn như ai
nạp 200 thạch thóc th́ được “Hàm Chánh Thất
Phẩm.”
Vào thời sau này, người ta chạy
chọt để mua chức tước như quận
trưởng hay tỉnh trưởng và ngay cả các
đơn vị trưởng trong quân đội. Chính v́ thế
đất nước ta mới mất vào tay bọn Việt
gian Cộng Sản. Ngày nay, ở chính Bắc Mỹ này
người ta cũng mua bằng cấp từ cử nhân
đến tiến sĩ một cách công khai. Có những
trường chuyên môn cấp bằng theo yêu cầu của
khách hàng. Người mua bằng cấp cũng được
mượn mũ áo để chụp h́nh hầu ḷe thiên hạ.
Tuy nhiên, một thiểu số con người vẫn có những
động lực cao cả để làm lẽ sống.
Nhờ đó văn minh và văn hóa mới phát triển và
nhân loại mới tiến bộ được. Có hai loại
động lực: động lực thấp hèn (đa số)
và động lực cao quư.
1. Động Lực Thấp Hèn: Những
loại người vô liêm sỉ như bọn Cộng Nô
thường có những động lực thấp hèn
như ham sống sợ chết, ham danh quyền lợi bất
chính, và thích hưởng thụ mà lại không muốn làm việc.
- Ham Sống Sợ Chết: Loài
người nói chung đều ham sống sợ chết,
chỉ cần sao được sống dù có sống hèn sống
nhục. Chính v́ thế mà bọn Việt gian Cộng Sản
mới dùng chính sách “hộ khẩu” cùng họng súng để
bóp nghẹt bao tử và đàn áp người dân hầu bắt
họ phải làm nô lệ cho bọn chúng. Do đó, từ hạng
trí thức đến kẻ vô học trong xă hội Cộng
Sản đều trở nên hèn nhát và vô liêm sỉ để
được sống yên lành.
- Ham Danh Quyền Lợi Bất
Chính: Những hạng người ham danh quyền lợi bất
chính đă t́m mọi cách để có danh quyền lợi dù
phải làm tay sai cho giặc để bán nước buôn
dân. Chính v́ điểm này mà bọn Cộng Sản Việt
nam đă tung Đô La ra mua chuộc những kẻ vô liêm sỉ,
tung các lời hứa hẹn “bánh vẽ” để mua chuộc
những lũ ham danh quyền lợi bất chính, vô
lương tâm, ấu trĩ, và u tối từ hải ngoại
về để làm tay sai cho chúng. Muốn bảo vệ
đặc quyền đặc lợi do bọn chóp bu Cộng
Sản ban cho, những kẻ này phải chấp nhận những
ǵ “đảng” dạy mà không được thắc mắc.
Tuy nhiên, đa số những kẻ này đă sống dở
chết dở sau khi hợp tác với bọn Cộng Sản
và bị bọn này lừa gạt mà chúng vẫn chưa sáng
mắt ra trong khi những kẻ vô sỉ khác ở hải
ngoại này lại cứ muốn lao đầu vào.
Thật quả là: “Cái ṿng danh lợi
(bất chính) cong cong, kẻ ḥng ra khỏi, người mong
bước vào.” Chính v́ những hạng người ham danh
quyền lợi bất chính này mà toàn dân Việt mới bị
đầy đọa dưới ách Cộng Sản cho tới
ngày nay và không biết đến bao giờ mới chấm
dứt!
- Thích Hưởng Thụ mà Không
Thích Làm Việc: Phần đông con người khi đă
thích hưởng thụ mà lại lười biếng và
không chịu làm việc hay học hành th́ dễ sinh ra làm bậy
như ăn cắp, ăn cướp, giết người,
nghiện ngập rượu chè cờ bạc ma túy, và ngay
cả sẵn sàng làm tay sai cho giặc...
Tụi Cộng Sản đă dùng bọn
bất tài nhưng thích hưởng thụ này để
đè đầu bóp cổ nhân dân ta nên chúng đă thẳng
tay giết người, cướp của, và đàn áp toàn
dân không chút tiếc thương.
Trên thực tế, ta vẫn thấy
những kẻ có địa vị, có học và có bằng
cấp cao, quyền cao chức trọng, và giầu có mà vẫn
đi ăn cắp, cướp của, và giết người.
Những hạng người này đều thuộc loại
thiếu lương tâm, vô liêm sỉ, vô hạnh, và sâu dân mọt
nước. Họ thích hưởng mà lại không thích làm
việc. Nói tóm lại là bọn
này không có con tim chân chính. Ở đâu và ở thời nào cũng
có những loại người này. Chính v́ thế mà xă hội
mới loạn, đất nước mới suy vong. Trong
xă hội Cộng Sản, hạng người vô liêm sỉ
này rất nhiều và được chế độ Cộng
Sản dung túng để làm tay sai. Trong xă hội tự do,
những hạng người này tương đối là
ít và bị luật pháp và công lư chân chính trừng trị
đích đáng.
Xă hội tự do khác với xă hội
Cộng Sản ở chỗ xă hội tự do có công lư và
luật pháp chân chính mà xă hội Cộng Sản th́ không. Từ
những tên Cộng Sản chóp bu đến những tên Cộng
Sản địa phương đều thuộc loại
cướp của giết người và sâu dân mọt
nước. Dân chúng có bị chúng cướp của và hành
hạ cũng đành bó tay v́ nếu nhờ cái chính quyền
ăn cướp xử bọn
ăn cướp th́ chỉ có thiệt thân mà thôi. Chính v́ lư
do này mà người dân trong chế độ Cộng Sản
cũng nhiễm tính dối trá và lừa đảo của
bọn Cộng Sản. Họ cũng biết hối lộ
để mua các loại giấy tờ giả mạo
như khai sinh và hôn thú từ các cơ quan của Cộng Sản
trong nước để đem ra ngoại quốc làm việc
bất chánh như khai gian tuổi để ăn tiền
già (OAS) sớm hơn, nhận tiền thuê để bảo
lănh vợ giả hay chồng giả từ Việt Nam sang
đây.
2. Động Lực Cao Quư: Ngoài những
kẻ sống với động lực thấp hèn, c̣n có
những người sống với động lực cao
quư. Thường th́ con người có cả động lực
thấp hèn và động lực cao quư. Nếu biết nuôi
dưỡng động lực cao quí và ḱm hăm các động
lực thấp hèn, con người mới có cuộc đời
thanh cao và đầy ư nghĩa. Muốn được
như thế, họ cần phải có ḷng can đảm và
công tŕnh tu luyện mà đạo Phật gọi là “tu tâm
dưỡng tánh.”
Có những người khi sinh ra
đă sẵn có các động lực cao quí sáng ngời, nó
làm lu mờ các động lực thấp hèn. Chính v́ thế
mà đă có những người đem hết tâm hồn phục
vụ cho gia đ́nh, xă hội, đất nước, và
nhân loại. Khi gặp phải chế độ bạo tàn
Cộng Sản với những kẻ cầm quyền toàn
là đồ hèn hạ và đáng khinh bỉ, họ đă tẩy
chay và t́m cách giải trừ chúng chứ không như một
số đông kẻ sĩ hèn hạ và vô liêm sỉ ở
trong nước cũng như ở hải ngoại đă
cong lưng phục vụ cho chúng. Vào đời Chiến Quốc
người ta có câu: “Chiến Quốc chi sĩ tiện.”
Câu này có nghĩa là kẻ sĩ đời Chiến Quốc
hèn hạ và đáng khinh bỉ. Vào thời Cộng Sản
Việt Nam ngày nay, ta phải nói là “Việt Nam Cộng Sản
chi sĩ tiện” v́ những kẻ sĩ theo Cộng Sản
này đều đắm đuối về danh quyền lợi
bất chính. Họ xâu xé tranh quyền đoạt lợi lẫn
nhau, thân xác tuy c̣n mà lương tâm của họ đă chết
rồi.
Đă có những bà vợ hy sinh cho
chồng con và đại gia đ́nh hết sức ḿnh mà
không bao giờ than văn hay đ̣i hỏi ở chồng con một
điều ǵ. Dù phải trải qua muôn vàn đắng cay,
họ vẫn sống vui tươi. Động lực sống
của họ là sống sao cho xứng với lễ giáo gia
phong và thiên chức của người vợ , người
mẹ, và người con gương mẫu.
Đă có những người chồng
suốt đời lo cho vợ con, xă hội, và đất
nước một cách hết sức chu đáo. Dù có bị
trăm ngàn khổ đau, họ vẫn sống một cách
hăng say. Động lực sống của họ là làm
tṛn nghĩa vụ và bổn phận làm chồng làm cha và làm
người công dân xứng đáng.
Đă có biết bao chiến sĩ,
các nhà tu hành, các nhà khoa học, các nhà văn thơ, các nhà xă
hội, các nhà cách mạng, và các nhà giáo chân chính, v.v. từng
âm thầm hiến dâng đời ḿnh cho nhân loại mà không
bao giờ thấy hối hận. Dù có bị khổ cực
trăm phần mà họ vẫn can đảm sống cho
đến hơi thở cuối cùng. Động lực sống
của họ là làm tṛn bổn phận một kẻ sĩ
và người quân tử để cứu dân dựng
nước.
Đă có những người suốt
đời hiếu thảo với cha mẹ, làm rạng rỡ
tông môn, và làm vẻ vang cho giống ṇi. Dù có phải hy sinh tới
đâu họ vẫn vui tươi sống và làm tṛn nghĩa
vụ. Động lực sống của họ là làm tṛn
chữ hiếu v́ chữ hiếu là rường cột cho
mọi việc ở trên đời.
III.
Thăng Hoa Cuộc Sống Nhân Loại
1. Nguyên Do Sinh Ra Loạn: Qua
sự tŕnh bày trên về “bản chất và động lực
đích thực của con người,” ta đă biết tại
sao nhân loại đắm ch́m trong loạn lạc. Nói một
cách tổng quát, đó là v́ con người không biết
thương yêu nhau.
Mặc Tử đă nói đại ư
rằng loạn mà sinh ra là chỉ do cái ḷng của con
người không thương yêu nhau: con cái không yêu cha mẹ,
cha mẹ không thương yêu con cái, anh chị em không
thương yêu nhau, bày tôi không trung với vua, vua không yêu bầy
tôi, người không yêu thương người, bạn
đồng nghiệp không thương yêu nhau, và nước
này không thương yêu nước khác. Đấy là lư do mà gia đ́nh, xă
hội, và thiên hạ sinh ra đại loạn. Nếu biết
thương yêu nhau th́ c̣n ai nỡ hại ai, thiên hạ sẽ
b́nh trị, và cuộc sống nhân loại sẽ được
thăng hoa.
Bọn Cộng Sản là bọn gây
hận thù, chém giết, không biết thương yêu con
người, và lại có dă tâm đẩy con người
“xuống hàng chó ngưa.” Ngày nào mà bọn Cộng Sản
c̣n hiện diện trên cơi thế gian này th́ ngày đó nhân loại
sẽ c̣n bị đọa đầy v́ tính gian manh, độc
tài, và khát máu của họ.
Vậy muốn thăng hoa cuộc
sống nhân loại, việc tiên quyết là ta phải giải
trừ bọn Cộng Sản độc tài khát máu c̣n sót lại
trên thế gian này bằng đủ mọi cách trước
khi xây dựng tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân loại.
2. Thăng Hoa Cuộc Sống Nhân Loại:
Muốn làm thăng hoa cuộc sống nhân loại, loài
người phải thương yêu nhau bằng ḷng bác ái của
Chúa và ḷng từ bi hỷ xả của Phật. Ngoài ra, con
người phải trau giồi nếp sống bằng
cách tu tâm dưỡng tánh để tự hiểu ḿnh và yêu
ḿnh trước để đi đến hiểu người
và yêu người rồi làm cho người hiểu ḿnh và
thương yêu ḿnh như lời của các môn đệ
đức Khổng Tử đă tŕnh bày với ngài. Để
làm thăng hoa cuộc sống, con người phải trau
giồi các đức tánh:
* Nhân, Tín, Trung, và Mẫn: Nhân, tín,
trung, và mẫn giữ phần tối quan trọng trong cuộc
sống của ta. Có ḷng nhân, tức là ḷng yêu thương
người, không quên gốc, và công b́nh bác ái, ta sẽ biết
ăn ở và xử sự mọi việc đúng cách. Có
ḷng tín, tức không quên bổn phận đối với quốc
gia và có ḷng thành thực đáng tin cẩn, ta sẽ giữ được
việc. Có trung, tức là hết ḷng chân hành, không thái quá
không bất cập và không lệch về bên nào, ta sẽ làm nên được việc.
Có mẫn, tức là siêng năng gắng sức và thông minh
linh hoạt, ta sẽ làm xong
được việc.
* Tự Trọng, Thành Kính, Ơn Huệ,
và Nghĩa Lư: Ḿnh có biết tự trọng th́ người
mới trọng ta, có thành kính đối với người
th́ người mới thành thực với ta và tôn kính ta,
nhiên hậu công việc ḿnh cộng tác với người
mới thành công. Có tạo ơn huệ đối với
dân th́ ta mới chiếm được ḷng dân. Ta có nghĩa
lư trong khi cai trị dân, tức là có chính nghĩa, công lư, hợp
với lẽ phải th́ dân mới tùng phục và qui về
với ta.
Người đă biết tự trọng,
thành kính, tạo ơn huệ, và có nghĩa lư th́ nét mặt
đầm ấm, tính khí ôn ḥa, và lời nói dịu dàng. Có được như thế
th́ ta mới cảm được ḷng người và công
việc của ta chắc chắn phải thành công mỹ
măn.
* Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ: “Lễ”
là điều hợp nghĩa lư và phép tắc phải theo
khi giao thiệp và đối đăi với mọi người
mọi việc trong xă hội. “Lễ” bao gồm cả những
qui củ mà phong tục và tập quán của xă hội
đă thừa nhận. “Lễ” dùng để ngăn ngừa
các tội ác khi nó chưa xảy ra trong khi pháp luật dùng
để trừng trị các tội ác lúc đă xảy ra rồi.
“Nghĩa” là điều công chính, việc thiện, và trách vụ
phải làm. “Liêm” được dùng trong nghĩa “thanh liêm,”
“liêm chính,” “liêm khiết” và có nghĩa là không tham lam và không
ăn hối lộ. “Sỉ” là biết thẹn biết xấu
hổ.
“Lễ, nghĩa, liêm, và sỉ” là bốn
cái rường cột để dùng vào việc giữ vững
quốc gia. Nếu trong nước mà gồm toàn người
vô lễ, vô nghĩa, vô liêm, và vô sỉ như trong xă hội
Cộng Sản th́ quốc gia đó phải bị diệt
vong. Hiện nay dưới chế độ Cộng Sản
ở Việt Nam, từ bọn Cộng Sản chóp bu cầm
quyền đến bọn Cộng Sản hạ tầng
cùng bọn tay sai đều là bọn vô lễ, vô nghĩa,
và vô liêm sỉ. Điều này cho ta thấy chắc chắn
rằng chế độ Cộng Sản ở Việt Nam
thế nào cũng bị tiêu diệt trong thời gian tới
đây.
* Ḷng Yêu Thương Tất Cả
Mọi Người: Sở dĩ có chiến tranh là do con
người không biết yêu thương nhau. Muốn
thăng hoa cuộc sống của nhân loại, mọi
người phải ḥa hợp với nhau mà không vào hùa hay
kéo bè kết đảng với ai. Những người nắm
quyền cai trị dân phải gần gũi với dân và
đối xử với dân như thân nhân ḿnh và coi những
người trong cả nước và trong thiên hạ
như người một nhà.
*Tính Tự Trách Ḿnh: Cái nguyên nhân của
sự tức giận là do ta chỉ biết đổ lỗi
cho người và trách người chứ không tự biết
lỗi của ḿnh và tự trách ḿnh. Không trách người
mà trách ḿnh là cách tốt nhất để tu thân và nuôi độ
lượng. Phải tránh tức giận với người
bởi v́ “Giận lên là phát cơn điên, người khôn
hóa dại, người hiền hóa ngu.” Nếu có lỗi, ta
cần phải chân thành nhận lỗi chứ đừng
bào chữa là vô t́nh hay v́ trở ngại kỹ thuật.
Người ta ai cũng có lỗi, có lỗi mà chân thành tự
nhận lỗi và sửa lỗi mới là con người
lương thiện. Nếu v́ ḿnh có lỗi mà đi chửi
át người ta để bào chữa, ta là người
ngoan cố và bị đời coi khinh như loài súc vật.
* Tính Biết Hy Sinh Cho Đại Cuộc:
T́nh nhà nợ nước đều quan trọng. Nếu gặp
trường hợp cần phải cứu dân giúp nước,
người ta nên hy sinh bản thân và t́nh riêng để cứu
dân giúp nước v́ nước có hùng mạnh th́ thân ta và
gia đ́nh của ta mới yên vui hạnh phúc.
Kinh nghiệm cho ta thấy rằng
trước tháng 4 năm 1975, đa số dân Miền Nam chỉ
nghĩ tới bản thân và gia đ́nh, người dân không những trốn
đi lính mà c̣n che chở và nuôi quân cộng sản nằm
vùng trong khi chính quyền th́ tham nhũng kéo bè kết đảng
và lo cho bản thân cùng gia đ́nh họ hơn là lo cho quốc
gia. Chính v́ thế mà đất
nước đă mất vào tay Cộng Sản để
ngày nay toàn dân bị đầy ải “xuống hàng chó ngựa”
trong đó có ta và gia đ́nh ta.
Ngoài những điều trên, con
người cần trau giồi tinh hoa của các tôn giáo
trong việc xây dựng con người, chẳng hạn
như những khía cạnh tinh hoa của Phật giáo về
việc khuyên chúng sanh nên tu theo tam quy, c̣n gọi là là vô
tướng tam quy y hay quy y tự tánh tam bảo. Điều
này có nghĩa là ta quay về nương tựa vào ba điều
quí báu. Đó là Phật, Pháp,
và Tăng.
- Quy y
Phật, tức là quy y sự sáng suốt tṛn đầy và
hiểu thông suốt mọi lẽ, tức là sự giác ngộ
(Phật), để tránh phiền năo cho ḿnh và cho tha nhân. Phật
ở đây có nghĩa là giác.
- Quy y Pháp, tức là quy y sự
chánh đáng ngay thẳng (Pháp) để tạo một thế
giới an lành, một niết bàn ở trần gian. Pháp ở
đây có nghĩa là sự chánh đáng.
- Quy y
Tăng, tức là quy y sự trong sạch lặng lẽ
không bợn nhơ (Tăng) để tránh gây ra tai họa
cho người và cho ta, nhiên hậu tạo một thế
giới thanh b́nh thạnh trị. Tăng ở đây có nghĩa
là trong sạch lặng lẽ và không bợn nhơ.
Nhà Phật c̣n khuyên chúng sanh làm
mười điều thiện (Thập Thiện) để
thăng hoa cuộc sống cho nhân loại:
- Phóng sinh con người và vạn
vật ra khỏi lao lung đau khổ cùng giải cứu
muôn dân ra khỏi cảnh đồ thán.
- Giúp đỡ, san sẻ, che chở, cưu mang những người hoạn
nạn nghèo khó, và cộng tác thương yêu đối với
mọi người trên trái đất này.
- Tiết chế mọi ham muốn
về thị dục và dục t́nh. Nên hưởng những
thú thanh tao siêu thoát về tinh thần và đạo lư để
tạo một thế giới an vui thịnh vượng.
- Nói lời chân thật với hết
thảy mọi người.
- Duy tŕ và phát triển ḷng trung tín
đối với tha nhân.
- Dùng lời ḥa ái, dịu dàng, và
thành khẩn khi giao tiếp với tha nhân.
- Cư xử cho hợp t́nh lư, có
trước có sau, vuông tṛn, và t́m lời hợp lư để
ḥa giải, tạo thông cảm, và xây dựng ḥa khí yêu
thương cho nhân loại.
- Giữ ḷng chánh trực để
tránh tham lam và tránh tạo phiền năo cho tha nhân.
- Giữ thái độ cho ḥa nhă
để tránh nóng giận với mọi người.
- Giữ cho trí sáng suốt để
tránh si mê tăm tối hầu góp phần xây hạnh phúc cho
tha nhân.
Để góp phần làm thăng hoa
cuộc sống của nhân loại, đạo Phật c̣n
đưa ra biện pháp giúp chúng sinh xây dựng tập thể
Phật giáo, cộng đồng đất nước và
nhân loại bằng “Tứ Nhiếp Pháp và Lục Ḥa.”
- Tứ Nhiếp Pháp là bốn
phương pháp cư xử trong mọi sinh hoạt tập
thể. Chữ “nhiếp” ở đây có nghĩa là “nuôi nấng.”
Tứ Nhiếp Pháp gồm: bố thí, ái ngữ, lợi
hành, và đồng sự.
* Bố Thí: Người ta dùng hạnh
bố thí để tương trợ và cứu giúp tha nhân
về vật chất cũng như tinh thần một cách
vô vị lợi.
* Ái Ngữ: Người ta dùng hạnh
ái ngữ, tức là lời nói thương yêu, để tạo
sự chân thành ḥa ái và hợp t́nh lư trong mọi sinh hoạt
tập thể.
* Lợi Hành: Người ta dùng hạnh
lợi hành, tức là hành động lợi ích để
thâu phục và hấp dẫn tâm của chúng sinh, để
đem ích lợi cho tha nhân và xă hội.
* Đồng Sự: Người ta
dùng hạnh đồng sự, tức là tinh thần cùng phục
vụ chung, để đem hết tài khôn khéo vào việc
phục sự công ích.
- Lục Ḥa là 6 phương pháp tạo
sự hài ḥa trong cộng đồng đất nước
và nhân loại: Thân ḥa đồng trụ, khẩu ḥa vô
tranh, ư ḥa đồng duyệt, kiến ḥa đồng giải,
giới ḥa đồng tu, và lợi ḥa đồng quân.
* Thân Ḥa Đồng Trụ: Người
ta dùng phương pháp “thân ḥa đồng trụ,” tức
là cùng sinh sống thương yêu đùm bọc trong gia
đ́nh cũng như ngoài xă hội, để tạo sự
hài ḥa kính nhường và thương yêu cùng bao bọc lẫn
nhau, nhất là khi không có đủ chỗ ở mà có nhiều
người cùng chung sống.
* Khẩu Ḥa Vô Tranh: Người ta
dùng hạnh “khẩu ḥa vô tranh,” tức là dùng lời nói
khiêm cung ḥa ái hầu tránh sự tranh căi chữi mắng
nhau, để giúp gia đ́nh và xă hội có được
không khí ấm cúng thanh b́nh.
* Ư Ḥa Đồng Duyệt: Người
ta dùng hạnh “ư ḥa đồng duyệt,” tức là tâm ư phải
ḥa kính, tươi sáng, và vui vẻ, để cùng chia sớt
với nhau, an ủi nhau, và không làm mích ḷng nhau hầu đả
thông tư tưởng để cùng tinh lọc và làm cho
nhau vui vẻ và thích thú.
* Kiến Ḥa Đồng Giải:
Người ta dùng hạnh “kiến ḥa đồng giải,”
tức là trao đổi và tham khảo ư kiến hay, để
cùng nhau học hỏi hầu có được kiến thức
ḥa hợp nhau trong việc tu tâm dưỡng tánh, nhiên hậu
tránh được sự xích mích đáng tiếc.
* Giới Ḥa Đồng Tu: Người
ta dùng hạnh “giới ḥa đồng tu,” tức là cùng tôn
trọng kỷ luật chung trong lúc tu tâm dưỡng tánh
hay tu hành, để đi đến việc ḥa thuận và
kính ái nhau.
* Lợi Ḥa Đồng Quân: Người
ta dùng hạnh “lợi ḥa đồng quân,” tức là khi có lợi
th́ cùng nhau hưởng cho đều, để tránh xích
mích và mọi người sẽ thương yêu và kính trọng
nhau hơn.
Muốn thăng hoa cuộc sống
nhân loại, ta phải áp dụng “tứ nhiếp pháp và lục
ḥa” ở khắp mọi nơi, ở thiền viện,
trong gia đ́nh, ngoài xă hội, và trên khắp thế giới.
Có như thế ta mới có một thế giới thanh b́nh
thịnh trị, trong đó mọi tranh chấp và hận
thù không c̣n chỗ đứng.
IV. Kết Luận
Bản chất đích thực của
đời sống con người là thú tính. Động lực
đích thực của cuộc sống con người là
“tham sinh úy tử” và thích hưởng khoái lạc. Tuy nhiên,
nhờ có các tôn giáo, các nhà cách mạng, các triết gia, các
khoa học gia, và các nhà giáo dục chân chính đă góp phần
hết sức tích cực trong việc làm thăng hoa cuộc
sống, nhân loại mới văn minh và tiến bộ
như ngày nay dù có bị tụi Cộng Sản quốc tế
phá hoại. Giáo dục là rường cột của sự
thăng hoa. Giáo dục có thể cải hóa được
muôn loài tuy rằng cần phải có một thời gian
để chuyển hóa. Ta hăy vững tin là chính nghĩa phải
thắng gian tà và những kẻ gian ác thế nào cũng bị
đào thải v́ lịch sử đă chứng minh điều
này. Mọi người hăy cùng nhau xây dựng cho t́nh cho nghĩa
lên cao để làm thăng hoa cuộc sống của nhân
loại. Muốn là được, mong lắm thay!
ThựcTrạng Cộng Đồng
Người Việt Hải Ngoại
và Biện Pháp Xây Dựng
Muốn xây dựng cộng đồng
người Việt hải ngoại cho vững mạnh,
chúng ta nên t́m hiểu thực trạng hiện nay trong các tổ
chức cộng đồng hầu t́m biện pháp thích hợp
để cải tiến và xây dựng cộng đồng
cho hữu hiệu hơn.
I. Thực Trạng
Người đời thường
coi việc tư quan trọng hơn việc công. Ở
đâu cũng vậy, việc của cá nhân, gia đ́nh, và bạn
bè được coi rất quan trọng đến nỗi
mọi người không c̣n th́ giờ đâu để lo
cho cộng đồng đất nước. Điều
này là lẽ thường t́nh và cũng dễ hiểu v́ nó
có lợi ngay trước mắt cho cá nhân trong khi việc công ích hay việc
chính nghĩa thường không đem lại lợi ích ngay
lập tức cho cá nhân và gia đ́nh mà người làm việc
công ích c̣n phải hy sinh thời giờ, tiền của, và
đôi khi c̣n chuốc lấy sự phiền phức và bẽ
bàng nữa.
Đa số những kẻ thiển
cận và ham danh quyền lợi bất chính đều
không hiểu rằng đất nước và cộng đồng
có tiến bộ và vững mạnh th́ gia đ́nh và cá nhân mới
được hưởng tự do và hạnh phúc. Một
thí dụ điển h́nh là hiện nay đất nước
chúng ta đă rơi vào tay bọn Việt Cộng và toàn dân
ta đă phải xuống hàng chó ngựa cũng như phải
chịu thống khổ muôn vàn. Tuy nhiên, vẫn có những
người xả thân cho chính nghĩa và việc công ích,
đúng như lời của nhà văn Sơn Tùng đă xác
nhận: “Chính nghĩa không thể mất v́ c̣n có những
người sẵn sàng đứng ra bảo vệ và chấp
nhận những hy sinh thiệt tḥi.” Quả là chí lư!
Thực trạng của cộng
đồng người Việt hải ngoại là đang
bị bọn Cộng nô, lũ
vô trách nhiệm, và tụi vô liêm sỉ phá hoại. Phần
đông những người tham gia các tổ chức hội
đoàn đều có ḷng v́ nước v́ dân. Tuy nhiên, chúng ta
cũng thấy có những loại người ăn
cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản và bọn ham danh
quyền lợi bất chính đứng ra tổ chức và
tham gia các hội đoàn, xuất bản báo chí, và len lỏi vào các thành phần
trong hội đồng quản trị và ban chấp hành của
các hội đoàn. Mục đích của bọn này là làm suy
yếu và tan ră cộng đồng người Việt hải
ngoại. Ngoài những bọn Cộng nô do Cộng Sản
đưa ra hải ngoại để phá các hội
đoàn, chúng ta c̣n thấy những bọn vô liêm sỉ và lũ
vô trách nhiệm đă làm suy yếu các tổ chức hội đoàn.
1. Lũ
Cộng Nô Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản:
Lũ ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản
thường t́m đủ cách
để thao túng các hội đoàn hầu thực hiện ư đồ đen tối của
họ như lợi dụng những sinh hoạt của hội
đoàn để làm lợi cho Việt Cộng. Những kẻ
này đă bị bọn Việt Cộng mua chuộc bằng
danh quyền lợi bất chính. Chúng ăn lương toàn
thời của bọn Việt Cộng để đem hết
tâm làm việc có lợi cho Việt Cộng.
Thủ đoạn của chúng là
ngoài mặt vẫn có vẻ chống Cộng và chào cờ
Việt Nam Tự Do nhưng những hành động của
chúng toàn làm lợi cho Cộng Sản. Tuy nhiên, cũng có những
kẻ ngoài miệng th́ chửi Cộng Sản nhưng lại
không muốn chào cờ Việt Nam Tự Do mà c̣n t́m cách hạ
nhục cùng vu cáo những người chân chính chống Cộng
và làm toàn những điều có lợi cho Việt Cộng.
Khi những tên Cộng nô này viết
bài th́ phần đầu của bài viết chúng dùng khổ
nhục kế để chửi Cộng Sản bằng những
lời lẽ rất xác đáng rồi sau đó chúng lại
chửi và chụp mũ những cá nhân và các tổ chức
chân chính chống Cộng. Nhờ khổ nhục kế này
mà chúng đă đánh lừa được một số
người ấu trĩ và nhẹ dạ v́ những
người này lư luận rằng những ai đă chửi
Việt Cộng đích đáng th́ không thể là Cộng nô
được. Chính v́ thế mà bọn Cộng nô đă len
lỏi được vào các tổ chức của người
Việt Quốc Gia và các diễn đàn trên mạng lưới
toàn cầu để t́m đủ cách chia rẽ các cá nhân
chân chính chống Cộng và làm suy yếu cộng đồng
người Việt hải ngoại.
Thủ đoạn của bọn Cộng
nô c̣n có tác dụng trong việc lợi dụng
ḷng nhớ quê hương để phổ biến các cuốn
phim do Việt Cộng dàn dựng từ trong nước với
mục đích tuyên truyền cho chế độ Cộng Sản.
Chúng mời các ca sĩ đă làm tay sai cho Việt Cộng
đến hát trong các buổi tŕnh diễn văn nghệ mà
bề ngoài mang tính cách thuần tuư văn nghệ do bọn
Cộng nô tổ chức. Chúng c̣n t́m đủ cách phá hoại
sự kết hợp của các hội đoàn người
Việt chân chính chống Cộng thành một khối thống
nhất.
Tuy bị bọn Cộng nô t́m cách
phá hoại, những cá nhân và các tổ chức hội
đoàn chân chính chống Cộng của người Việt
Quốc Gia đă cảnh giác và thành công trong việc
dương cao Ngọn Cờ Dân Tộc Nền Vàng Ba Sọc
Đỏ cũng như việc củng cố và xây dựng
cộng đồng người Việt ở khắp
nơi trên thế giới.
2. Nhửng Kẻ Vô Liêm Sỉ và Vô
Trách Nhiệm: Những kẻ vô liêm sỉ đă phá hoại
cộng đồng người Việt hải ngoại về
nhiều mặt. Chúng thường t́m đủ cách để
làm chủ tịch hay tổng thư kư vô hạn định
hầu gian lận công quỹ, lợi dụng sự quen biết
để thao túng trong việc tổ chức bầu cử
gian lận bằng cách đưa những người không
phải là hội viên nhưng thuộc phe nhóm của họ
đến đóng tiền niêm liễm ngay trong ngày đại
hội để có quyền bầu cử. Bọn này c̣n lừa
đảo tiền bạc của các hội viên và thân hữu
trong việc tổ chức các bữa cơm gây quỹ bằng
cách ra thông cáo là có đăi ăn uống, nhưng sau khi
người ta đóng tiền và đến dự tiệc
th́ chúng chỉ cung cấp cho chai nước không mà thôi.
Chúng lừa đảo trắng trợn
như thế mà vẫn có những kẻ ngu muội nghe
theo. Bọn này lợi dụng mọi sinh hoạt của hội
đoàn cho mục đích riêng tư của họ. Họ
c̣n sửa đổi điều lệ nội quy trong chiều
hướng ngăn chặn những người có thực
tâm xây dựng cộng đồng không thể gia nhập hội
được hầu đưa những người thuộc
phe cánh của họ vào hội đồng quản trị
và ban chấp hành để làm vây cánh và thao túng hội.
Có những kẻ vô trách nhiệm
đến nỗi mới đọc qua tựa đề
các tài liệu của ban tổ chức gửi tới để
mời họ tham dự phiên họp cộng đồng, họ
đă tưởng là chẳng có ǵ phải để ư và cho
là đến đó (nơi hội họp) đọc cũng
vừa. Chính v́ thế mà họ không nắm vững vấn
đề và làm mất th́ giờ trong buổi họp.
Một số người khác lại
không có thói quen ghi lại những ǵ cần phải nhớ
vào sổ hẹn hay vào quyển lịch, không có thói quen
lưu trữ tài liệu một cách có thứ tự
ngăn nắp nên khi cần tới cái ǵ họ t́m không thấy.
Cón có những kẻ thích nói hơn là thích làm và thích lư thuyết
hơn thực hành nên các sinh hoạt của hội đoàn
không tiến triển được. Họ hay đề
nghị việc này việc khác để người khác
làm chứ bản thân họ làm rất ít. Có nhiều khi họ
c̣n đưa Ban Chấp Hành vào việc đă rồi và gây
khó khăn cho công việc chung. Điều này đă làm chán nản
những người từng hăng say gánh vác việc công
ích.
Có những hạng người
đă nhận công việc rồi nhưng v́ lư do này nọ lại
bỏ cuộc để gây tai hại cho việc tổ chức
chung. Họ là loại người bất tín. Thấy có lợi
và thuận tiện th́ họ làm c̣n thấy khó khăn và trở
ngại th́ họ bỏ cuộc.
Lại có hạng người trọng
việc tư hơn việc công, đă nhận làm việc
cho cộng đồng và đă định ngày tổ chức
nhưng nếu gia đ́nh họ có việc ǵ trùng vào ngày
đó là họ lại dời ngày tổ chức vào ngày khác
để làm mất ư nghĩa của công việc chung
đi. Loại người này không hiểu chữ tín là của
báu của cả nước và con người không có tín th́
không đứng vững ở đời được
(tín vi quốc chi bảo và nhân vô tín bất lập). Chính v́
những hạng người này mà một số tổ chức
cộng đồng đă bị
suy yếu để đi đến chỗ lâm nguy.
Có một số vị chủ tịch
của các hội đoàn khi hết nhiệm kỳ lại
muốn ngồi lỳ và không chịu tổ chức đại
hội để bầu ban chấp hành mới v́ sợ rằng
nếu tổ chức bầu cử họ sẽ bị
đá ra ngoài. Trong khi đó lại có một số vị chủ tịch chỉ đóng vai bù nh́n và mọi
công việc của hội đều do vị tổng
thư kư muôn năm và bè lũ thao túng.
Thường thường trong hội
đồng quản trị hay ban chấp hành của một
số hội đoàn có vài người vô trách nhiệm. Họ
chỉ thích bàn rùn nên công việc của hội đoàn không
thực hiện được. Có một số thành viên
ban chấp hành lại rất dễ chán nản, mỗi khi
có người khác chê bai chỉ chích th́ họ bỏ cuộc
ngay.
Một số người chỉ
muốn kẻ khác nghe theo ư của ḿnh mà không chịu theo ư
của đa số hội viên.
Khi người ta không nghe họ th́ họ tẩy
chay. Trong khi đó th́ lại có
một số người có tài nhưng không muốn làm, họ
sợ nếu làm không thành sẽ bị mang tiếng. Họ
đứng ở ngoài để chỉ trích một cách vô
trách nhiệm.
Một số người làm việc
hăng say nhưng không biết phương pháp làm việc,
không hiểu nguyên tắc hành chánh, không biết tương
kính và hợp tác trong tinh thần dân chủ, và không biết
đặt quyền hợi của hội đoàn ḿnh lên
trên hết. Họ không biết đâu là chính đâu là phụ
hay việc ǵ là ưu tiên việc ǵ không. Chính v́ thế mà họ
đă làm mất th́ giờ của mọi người và làm
hư mọi sinh hoạt của hội .
Một số người khác th́
khi nói và khi viết tỏ ra rất có tinh thần dân chủ,
nhưng khi làm việc lại quá độc tài. Các cộng
sự viên của họ trước sau ǵ cũng phải bỏ
họ.
Một số người khác nữa c̣n vô trách
nhiệm đến nỗi họ mượn cơ hội
đi họp để đi du hí và lo việc cá nhân. Chính
v́ thế mà trong một số buổi hội họp, lúc
ghi danh và khai mạc th́ các phái đoàn có mặt đông đủ,
nhưng sau phần lễ khai mạc, họ bỏ đi
chơi và đi thăm bạn bè nên buổi họp chính thức
chỉ c̣n lơ thơ mấy người. Thật là mất
mặt với ban tổ chức và đại diện của
chính quyền địa phương!
Có những người làm việc
v́ quen biết cá nhân chứ không phải có chủ tâm làm việc
cho tổ chức cộng đồng. Khi cá nhân đó v́ lư
do ǵ mà thôi làm việc th́ họ cũng không làm việc cho cộng
đồng nữa.
Cũng có loại người có
tài, làm đưọc việc, và chịu khó, nhưng lại
là loại vô liêm sỉ. Họ lợi dụng việc công
để gian lận công quỹ, gian lận tiền thuế
và tiền trợ cấp của chính phủ. Họ lợi
dụng sự quen biết trong khi làm việc hội
đoàn để mời các hội viên chơi hụi rồi
lừa đảo tiền hụi của các cụ sống
bằng tiền trợ cấp xă hội. Mặc dầu
đă có vợ con, họ c̣n lợi dụng sự quen biết
để ve văn và quyến rũ vợ của người
cùng làm trong ban chấp hành và các bà độc thân hay ở
góa. Các hội viên đều biết những hành vi bỉ ổi
này, nhưng v́ không có ai chịu ra gánh vác công việc cho hội,
ngại lôi thôi với pháp luật, ngại sinh sự, và lại muốn duy tŕ hội,
nên họ đă để cho loại vô liêm sỉ này có
đất dung thân.
Chính v́ thế mà một số
đông hội viên không muốn nh́n thấy cảnh vô liêm sỉ
này đă rút ra khỏi hội trong khi một số ít hội
viên vẫn tiếp tục tham dự sinh hoạt của hội. Chỉ v́ nhu cầu bạn bè và bị
bọn bỉ ổi và vô sỉ
này đă khéo xin lỗi, năn nỉ, và ngay cả
đe dọa nên đám thiểu số các hội viên này vẫn
nhắm mắt tiếp tục sinh hoạt trong hội. Thật
là đau ḷng cho những người có tâm huyết xây dựng
cộng đồng!
II. Biện Pháp
Muốn t́m một biện pháp xây dựng
cộng đồng cho hữu hiệu, ta phải có một
nhận định chung và rơ ràng về những điều
trên. Tất cả những điều nói ở trên đều
là thường t́nh của con người. Ở bất cứ một xă hội nào
hay tổ chức nào cũng có những kẻ vô liêm sỉ,
vô trách nhiệm, bất tín, phản phúc, và phản quốc. Chỉ khác ở chỗ là ít hay
nhiều mà thôi và chúng ta có biết đề pḥng hay không.
Muốn được việc và
muốn thành công, ta phải biết tiên đoán sự việc
và biết ngăn ngừa những điều bất lợi
có thể xảy ra. Trong mọi hoàn cảnh ta phải vững
tâm theo đuổi những ǵ ta đă cho là phải là
đúng và phải thực hiện cho bằng được
những điều ích quốc lợi dân. Không v́ phe nhóm mà
làm hỏng việc công ích. Tuy nhiên, ta phải tôn trọng ư
kiến cá nhân và quyết định của đa số và
làm việc theo tinh thần dân chủ, tức là tập thể
quyết định cá nhân thi hành.
Điều quan trọng nữa là một
con én không thể làm được mùa xuân. Nếu chỉ
có một vài người trong tổ chức cố gắng
hết ḿnh để làm việc
trong khi số đông vẫn thờ ơ với công
việc chung th́ mọi sinh hoạt của hội đoàn chắc
chắn phải tŕ trệ. Muốn
mọi sinh hoạt của các tổ chức hội đoàn
thành công, tất cả mọi thành viên ban chấp hành và các
hội viên phải cùng nhau hạ quyết tâm phục vụ
công ích tới cùng.
Cố gắng đem hết tâm huyết
làm việc không cũng chưa đủ, trong khi làm việc công ích, ta phải
thẳng tay tố cáo những kẻ có hành động phạm
pháp và những bọn làm tay sai cho Việt Cộng. Tổ
chức hội đoàn cũng giống như một cơ
thể con người.
Nếu cơ thể có vi trùng xâm nhập
và có kư sinh trùng phá hoại th́ cơ thể sẽ yếu
đi và bị bệnh rồi chết. Muốn cơ thể
khỏe mạnh, ta phải diệt vi trùng và kư sinh trùng
đang phá hoại cơ thể. Cũng tương tự,
nếu trong tổ chức các hội đoàn có những tên
phá hoại và Việt Cộng nằm vùng, ta phải loại
trừ chúng trước khi xây dựng tổ chức.
Ta phải mạnh dạn và thẳng
thắn loại trừ những quân phản phúc và bọn Cộng
nô phản quốc ra khỏi các tổ chức hội
đoàn và tố cáo bọn này trước dư luận quần
chúng để tránh cho đồng bào và những hội
đoàn khác khỏi bị chúng lừa đảo.
Trong một cộng đồng, ta
có nhiều tổ chức hội đoàn. Nếu thấy tổ
chức nào thân Cộng hay làm lợi cho Việt Cộng, ta
phải tố cáo tổ chức này với toàn thể đồng
bào để họ cảnh giác. Việc tố cáo này không
phải là việc chửi nhau hay đánh phá và bôi bẩn lẫn
nhau như một số Cộng nô thường biện luận
và bào chữa để chúng có cơ hội tiếp tục
phá hoại. Việc tố cáo bọn Cộng nô và lũ phá
hoại với đồng bào là một việc cần thiết
và phải làm nếu chúng ta là người có liêm sỉ và muốn
giải thể chế độ Cộng Sản ở quê nhà.
Sống trong một xă hội mà quyền
tự do dân chủ và nhân quyền được bảo
đảm, ta không phải sợ ai. Những kẻ đe dọa
người khác sẽ phị pháp luật trừng trị
đích đáng. Nếu ḿnh là nạn nhân, ḿnh phải thẳng
thắn tŕnh bày trước buổi họp những điều
vi phạm luật pháp của kẻ phá hoại. Ḿnh có tố
cáo, hội mới có biện pháp kỷ luật đối
với những hội viên có hành động phạm pháp
này.
Sau đây là một số biện
pháp đề nghị để xây dựng tổ chức
hội đoàn:
1. Chúng Ta Phải T́nh Nguyện Làm Vật
Xúc Tác Để Xây Dựng Hội Đoàn: Chính chúng ta phải
làm vật xúc tác và t́m những người cùng chí hướng
với ta để làm vật xúc tác trong việc xây dựng
các tổ chức người Việt Quốc Gia một
cách chân chính với mục đích nhằm giải thể
chế độ Việt Cộng nơi quê nhà. Vật xúc
tác sẽ biến mất khi phản ứng thành tựu. Cũng
như vậy, khi đă xây dựng được tổ chức
hay khi việc đă thành, chúng ta phải đặt tổ
chức hay công việc chung dưới sự điều
khiển của một cơ cấu tổ chức dân cử
c̣n chúng ta chỉ là những thành viên của tổ chức
mà thôi. Phải tránh cảnh hô hào người ta bầy cỗ
để ḿnh ngồi trên. Lại càng phải thận trọng
đề pḥng cảnh Cộng Sản cướp công cách mạng
của các đoàn thể Quốc Gia vào năm l945 trước
đây.
2.
Phân Công Phân Nhiệm Rơ Ràng: Các thành viên ban chấp hành nên làm
việc theo với nhiệm vụ đă ấn định.
Nếu chưa có bản phân công về nhiệm vụ của
các thành viên trong ban chấp hành, chúng ta phải cùng nhau soạn
thảo một bản cho rơ ràng. Muốn mọi sinh hoạt
của hội thành công, chủ tịch phải làm tṛn nhiệm
vụ của chủ tịch, tổng thư kư phải làm
tṛn nhiệm vụ của tổng thư kư, thủ quỹ
phải làm tṛn bổn phận của thủ quỹ, và hai
vị phó chủ tịch phải phụ giúp vị chủ
tịch trong mọi công tác khi cần đến.
Muốn làm việc ǵ, ta cần phải
chuẩn bị cho kỹ, phải có dự án công việc, lịch
tŕnh thực hiện công tác cùng các buổi họp định
kỳ để theo dơi công việc. Ngoài ra, chúng ta c̣n phải
phân công phần vụ cho các cộng sự viên một cách cụ
thể sao cho có thể kiểm chứng và khả dĩ có
thể thi hành được. Phải có hệ thống báo
cáo, theo dơi, nhắc nhở công việc, và dự trù các
trường hợp thất bại cùng các phương cách
đối phó.
3. Mọi Văn Thư Phải
Được Soạn Thảo và Lấy Ư Kiến Chung
Trước Khi Gửi Đi: Mọi văn kiện liên lạc
đều phải được dự thảo trước.
Trước khi thảo văn kiện, ta phải lấy ư
kiến chung của các thành viên ban chấp hành. Khi văn
thư được soạn xong, ta phải nhờ một
thành viên khác trong ban chấp hành hay hội đồng quản
trị để sửa chữa và kiểm soát kỹ hầu
tránh mọi sơ sót đáng tiếc. Trước khi gửi văn
thư đi, tối thiểu phải có hai thành viên ban chấp
hành gồm người kư văn thư và một thành viên
khác của ban chấp hành đọc lại lân chót trước
khi gửi.
Chỉ vị chủ tịch mới
có quyền kư văn thư liên lạc với các tổ chức,
các cơ quan bạn, và chính quyền địa
phương. Phó chủ tịch hay tổng thư kư cũng
có thể liên lạc trong trường hợp được
vị chủ tịch ủy quyền. Tổng thư kư giữ
nhiệm vụ liên lạc trong nội bộ hội
đoàn của ḿnh mà thôi. Tuy nhiên, khi muốn liên lạc với
các hội viên về bất cứ vấn đề ǵ, vị
tổng thư kư cũng phải hội ư với vị chủ
tịch trước, trừ khi đă được phân
công trong các buổi họp..
Thư kêu gọi, thư mời, hay
thư tham khảo ư kiến phải được viết
ngắn gọn và rơ ràng. Nếu có thể, ta nên đánh số
thứ tự và có tiêu đề cho từng đoạn một
cách rơ ràng. Ngày, giờ, và địa điểm họp phải
được gạch dưới hay in bằng chữ
đậm để lôi kéo sự chú ư của người
đọc. Nếu gửi thư cho người có gia
đ́nh, ta phải đề rơ là “Kính gửi Ông Bà...” v́
đây là nguyên tắc giao thiệp thể hiện phép lịch
sự và lễ độ cần phải làm. Thư mời
tham dự các buổi sinh hoạt nên được viết
cô đọng và đánh máy cho rơ ràng, dài tối đa một
trang giấy, và càng ngắn càng tốt. Thư kêu gọi hay
tham khảo ư kiến nên được viết dài tối
đa độ hai trang giấy, nếu có thể, ta nên viết
vào một trang th́ tốt nhất. Để giúp người
đọc dễ hiểu nội dung lá thư, ta nên dùng các
từ ngữ b́nh dân, viết các câu ngắn gọn, dùng chữ
đậm nét cho những câu quan trọng, và phân đoạn
lá thư cho rơ ràng.
Nếu cần độc giả và
hội viên trả lời, ta phải soạn phiếu trả
lời sẵn, có ô để đánh dấu câu trả lời
theo ư chọn lựa của độc giả để
tránh cho họ khỏi phải viết. Tuy nhiên, ta cũng
nên chừa chỗ cho ai muốn có ư kiến đề nghị
để họ viết, và nhất là đừng quên kèm
theo phong b́ có dán tem và đề sẵn địa chỉ
để cho các người ở ngoài hội tiện việc
hồi âm. Ta cần ấn định hạn chót cho họ
trả lời.
Mọi thư từ đều phải
đánh máy trên giấy có tiêu đề của tổ chức
hay cơ quan, có địa chỉ và số điện thoại,
có số công văn gửi đi, và nhớ đề ngày rơ
ràng. Cuối thư phải có người kư tên cùng với
tên họ và chức vụ của người kư văn
thư.
Đă có nhiều trường hợp,
trong một lá thư mời, không có đề ngày khi viết
lá thư và không có tên cùng chữ
kư của người viết mà chỉ có tên và số
điện thoại của người liên lạc viên mà
thôi. Đây là một việc làm vô lễ và vô trách nhiệm,
tức là không có người trực tiếp mời và chịu
trách nhiệm về mặt pháp lư của lá thư.
Khi gửi thư đi rồi, ta cũng
cần phân công nhau để nhắc nhở những
người được mời, nhất là trước
ngày họp, để biết chắc chắn có ai nhận
lời hay không, và đồng thời cũng để nhắc
nhở họ để họ khỏi quên. Có như thế
ta mới hy vọng có đủ túc số cho buổi họp
và tiện cho việc chuẩn bị tiếp tân cũng
như tránh được các điều sơ sót khác.
Về những tài liệu đă
gưỉ cho hội viên đọc trước, ta cần
dự trữ cho mỗi người một bộ để
pḥng khi họ quên không mang theo đến buổi họp. Có
như thế, ta mới có sẵn tài liệu để phát
cho những người vô trách nhiệm này hầu giúp họ
có tài liệu theo dơi tại phiên họp.
4. Ngăn Ngừa Những Kẻ
Thao Túng Hội Đoàn: Để
tránh các trường hợp có những kẻ thành tinh trong
các tổ chức, ta cần tu chính bản điều lệ
của tổ chức để sao cho không ai đưọc
tái đắc cử giữ
cùng một nhiệm vụ trong ban chấp hành quá 2 nhiệm
kỳ. Mỗi thành viên chỉ được luân phiên đảm
nhận mỗi chức vụ (chủ tịch, phó chủ tịch,
tổng thư kư, và thủ quỹ) tối đa là 4 năm
mà thôi. Lư do là nếu cứ giữ
một chức vụ trong nhiều nhiệm kỳ, người
ta có thể gian lận và bao che những sự phạm pháp.
Khi có người khác thay thế, việc
bàn giao sẽ giúp cho người kế vị t́m thấy những
điều thiếu sót hay phạm pháp mà người tiền
nhiệm đă làm. Có như thế hội đoàn mới tiến
bộ và phát triển được. Tuy nhiên, trong trường
hợp những thành viên của ban chấp hành
đương nhiệm của một tổ chức hội
đoàn có khả năng, có
đức độ, có tư cách, và biết cách làm việc
trong tinh thần dân chủ, khoa học, và tương kính mà được
toàn thể hội viên tín nhiệm th́ việc được
lưu nhiệm hay tái đắc cử trong nhiều nhiệm
kỳ của các thành viên này lại là một điều
đại hạnh cho tổ chức đó.
5. Kiểm Thảo và Đúc Kết
Mọi Sinh Hoạt Mỗi Khi Công Việc Hoàn Tất: Có kiểm
thảo và đúc kết mọi sinh hoạt khi hoàn tất,
ta mới rút ra những ưu điểm để noi theo và những khuyết điểm
để tránh. Sau mỗi một nhiệm kỳ của Ban
Chấp Hành, các hội viên cũng cần phải tổ chức
buổi kiểm thảo để rút ưu khuyết điểm.
Có hai cách kiểm thảo: kiểm thảo bằng cách hội
thảo và kiểm thảo bằng thư. Nếu kiểm
thảo bằng thư, chúng ta phải thành lập một
tiểu ban để nhận thư và đúc kết mọi
ư kiến trước khi đệ tŕnh đại hội.
6. Thành Lập Các Tiểu Ban Chuyên
Môn Để Lo Công Việc Của Hội Đoàn: Để
giúp Ban Chấp Hành làm việc một cách hữu hiệu,
chúng ta phải thành lập các tiểu ban chuyên môn như:
a. Tiểu Ban Gây Quỹ: Tiểu Ban
Gây Quỹ phải đặt kế hoạch phát triển
tài chánh cho chu đáo. Tài chánh là phương tiện ṇng cốt
để phát triển hội v́ “vô kim ngân bất nhóc nhách.”
b. Tiểu Ban Phát Triển Hội
Viên: Hội có được phát triển hay không là do sự
đóng góp tích cực của các hội viện có tài
năng và đức độ. Chính v́ thế, chúng ta cần phải có một tiểu
ban lo việc tuyển chọn thêm các hội viên xứng
đáng trước khi tŕnh Ban
Chấp Hành hay Hội Đồng Quản Trị xét
đơn chấp thuận.
c.Tiểu Ban Tổ Chức
Sinh Hoạt: Tiểu Ban Tổ Chức Sinh Hoạt phụ
trách việc nghi lễ, tổ chức đại hội, hội
thảo, các buổi sinh hoạt thường lệ, và các
buổi họp mặt thân hữu, diễn hành, và biểu
t́nh. Tiểu ban này phải lo đặt kế hoạch tổ
chức các buổi sinh hoạt cho chu đáo.
d. Tiểu Ban Báo Chí và Ấn Loát: Tiểu
Ban Báo Chí và Ấn Loát lo việc phát hành bản tin hay báo chí
và phụ trách việc ấn loát các tài liệu hay văn
thư của hội. Các hội viên có theo dơi và đóng góp
vào các sinh hoạt của hội hay không và có thắt chặt
được t́nh thân hữu giữa các hội viên hay
không là nhờ ở bản tin và báo chí của hội.
đ. Tiểu Ban Quan Hôn Tang Tế:
Tiểu Ban Quan Hôn Tang Tế phụ trách về việc
tương thân tương trợ giữa các hội viên
trong vấn đề quan hôn tang tế. Có lo việc
tương thân tương trợ cho chu đáo th́ hội
đoàn mới phát triển và vững mạnh được.
Trên đây là một số tiểu
ban tối thiểu mà mỗi hội đoàn cần phải
có. Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu sinh hoạt của mỗi hội
đoàn, ta có thể thành lập thêm nhiều tiểu ban
để hỗ trợ cho các sinh hoạt.
7. Chấp Nhận Mọi Khó
Khăn Và Thực Tế Phũ Phàng Trong Khi Làm Việc Cộng
Đồng: Đă làm việc cộng đồng và công ích
là ta phải chuẩn bị chấp nhận mọi khó
khăn và thực tế phũ phàng cũng như chấp
nhận có những kẻ phá hoại công việc làm của
ta và chê bai cùng chửi bới ta.
Đừng có sợ những kẻ
dèm pha hay xuyên tạc công việc làm của ta v́ cây ngay không
sợ chết đứng và hữu xạ tự nhiên
hương. Thấy việc phải và chánh nghĩa, ta phải
làm cho bằng được và khuyến khích mọi
người cùng làm.
Thấy việc sai trái và phi nghĩa,
ta phải tránh, khuyên mọi người cùng tránh, và t́m cách
phơi bày cho mọi người biết để tránh. Ta
nên nhớ rằng, nếu làm việc với nhiệt tâm
thiện chí để phục vụ công ích, với tinh thần
dân chủ và vô tư, cùng với
tinh thần khoa học và tương kính, thế nào ta cũng
thành công trong việc phục vụ cộng đồng và
đất nước dù là có gặp khó khăn lúc ban đầu.
Có như thế chúng ta mới hy vọng góp công giải thể
chế độ Cộng Sản nơi quê nhà hầu
đem lại tự do, dân chủ, và nhân quyền cho toàn dân
mà họ đang chờ ta từng giây từng phút.
Phải Tiến Tới Việc Thành
Lập Hội Đồng Phục Quốc
để Dứt Khoát Giải Trừ
Chế Độ Cộng Sản VN
Trước Khi Xây Dựng Tự
Do, Dân Chủ, và Nhân Quyền
Nhờ những diễn biến của
các nước Cộng Sản đă tan ră trước
đây, chúng ta thấy rằng không thể nào cải tiến
một chế độ Cộng Sản hiện hữu sang
chế độ tự do được. Nếu bọn Cộng
Sản không tự giải thể chế độ Cộng
Sản của chúng, những người chân chính chống
Cộng phải giải thể chế độ Cộng Sản
này trước khi xây dựng tự do dân chủ và nhân quyền.
Muốn thế, ta phải nhất chí đoàn kết và quy tụ
lực lượng để phất cờ khởi nghĩa.
Làm khác đi tức là ta nuôi dưỡng con kư sinh trùng Việt
Cộng để làm hại dân hại nước.
I. Phất Cờ Đại Nghĩa!
Muốn dấy binh khởi nghĩa,
ta phải dương cao ngọn cờ chính nghĩa để
chiêu hiền đăi sĩ cùng qui tụ quần chúng và chiêu tập
binh mă. Muốn giải thể chế độ Cộng Sản,
một chế độ độc tài khát máu và phi nhân,
chúng ta luôn luôn phải dương cao ngọn cờ chính nghĩa
Nền Vàng Ba Sọc Đỏ. Lá cờ này được
kéo lên ở nơi nào th́ nơi đó là đất của
ta, người ở nơi đó là dân quân của ta và là bạn
của ta. Nó là tín bài để ta nhận diện giữa bạn
và thù. Trong khi chiến đấu với kẻ địch,
lá cờ của ta là linh hồn của cuộc chiến
đấu. Chúng tôi đă tŕnh bày nhiều lần về lịch
sử và ư nghĩa của lá cờ Việt Nam Tự Do Nền
Vàng Ba Sọc Đỏ. Nay xin nhắc lại vài chi tiết
căn bản:
- Lá Cờ Việt Nam Tự Do Nền
Vàng Ba Sọc Đỏ bắt nguồn từ đời
Hai Bà Trưng, năm 40 Tây lịch, khi Hai Bà “Đầu voi
phất Ngọn Cờ Vàng” đuổi quân Tô Định
để lập quốc xưng vương.
- Vào thời Vua Gia Long (1802-1820), lá Cờ
Vàng được dùng làm biểu tượng của
nước Việt ta.
- Đến đời Vua Khải
Định (1916-1925), hai sọc đỏ được
thêm vào lá Cờ Vàng. Lá Cờ Vàng với hai sọc đỏ
này có tên là cờ Long Tinh (Cờ Rồng) và được
dùng làm lá cờ chính thức của nước ta vào thời
đó.
- Vào năm 1945, chính phủ Trần
Trọng Kim cho thêm một vạch đỏ đứt giữa
vào giữa hai vạch đỏ đă có sẵn để
tạo thành lá cờ Quẻ Ly. Quẻ Ly là một quẻ
trong Bát Quái tượng trưng cho mặt trời, ánh sáng,
và văn minh.
- Vào năm 1948, khi về nước
làm Quốc Trưởng, Quốc Trưởng Bảo Đại
cho đổi vạch đỏ
đứt chính giữa thành một vạch liền
để tạo thành lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, một
biểu hiệu của Quẻ Kiền. Quẻ Kiền
tượng trưng cho Trời Nam, tức là nước Việt
Nam ta.
- Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
đă gắn liền với vận mệnh của dân Việt
trong suốt gần hai ngàn năm lịch sử. Nó đă
được hun đúc bằng khí thiêng sông núi Việt,
tượng trưng cho tinh thần quật cường bất
khuất của dân tộc ta, và là biểu tượng cho tự
do, dân chủ, nhân quyền, cùng ư chí kiêu hùng của ṇi giống
Việt.
Tất cả những ai đă
được lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ che chở
và bảo vệ để có thể tồn tại đến
ngày nay hầu hưởng tự do dân chủ và nhân quyền
th́ phải đoàn kết chiến đấu dưới
lá cờ chính nghĩa này trong việc giải thể chế
độ Cộng Sản ở quê nhà để đem lại
tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt. Làm khác
thế, chẳng hạn như không treo lá Cờ Việt Nam
Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ tại trụ sở
các hội đoàn hay không chào lá cờ này trong các buổi lễ
hay sinh hoạt cộng đồng, đều là hành động
làm lợi cho Cộng Sản và làm mất chính nghĩa của
công cuộc chiến đấu tiêu diệt chế độ
Cộng Sản Việt Nam, một chế độ độc
tài, khát máu, vô luân, và dă man nhất của lịch sử nhân
loại.
Bè lũ Cộng Sản Việt Nam
hiện là các siêu vi khuẩn và kư sinh trùng đang phá nát đất
nước và con người Việt Nam. Muốn hoàn thành
công việc cách mạng giải thể chế độ Cộng
Sản Việt Nam, chúng ta phải hiểu thật rơ ai là kẻ
đă làm tay sai cho Cộng Sản quốc tế để
gây ra cảnh nồi da nấu thịt và tang tóc cho dân Việt
suốt hơn nửa thế kỷ nay. Có như thế ta
mới quyết tâm t́m cách giải thể chế độ
Cộng Sản tại Việt Nam cho bằng được.
Có những kẻ ăn cơm Quốc
Gia thờ ma Cộng Sản chỉ nguyền rủa chiến
tranh một cách khơi khơi cốt để cho người
Việt Quốc Gia chán ghét chiến tranh hầu dễ bề
cho bọn Việt Cộng thôn tính Miền Nam. Trong đám
này có tên phản quốc Trịnh Công Sơn làm đại
diện. Bổn phận của chúng ta là phải làm sáng tỏ
chính nghĩa trong việc chống quân xâm lăng Cộng Sản
mà Việt Cộng là bọn đánh thuê. Có được
như thế th́ toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới
mới nguyền rủa và chống lại những kẻ
đă gây ra chiến tranh với mục đích tối hậu
là chiếm trọn nước Việt của chúng ta để
dâng cho bọn Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản,
một bọn cướp của giết người và bần
cùng hóa nhân dân.
Hồ tặc và tập đoàn Cộng
Sản Việt
Tất cả những ai đă sống
và làm việc cho chế độ Miền Nam Tự Do
trước đây mà lên án cả Quốc lẫn Cộng
hay chống cả Cộng Sản và tư bản đều
là những kẻ ngụy biện và làm lợi cho chế
độ Cộng Sản hiện hữu tại Việt
Nam. Những người này nếu không v́ danh quyền lợi
bất chính th́ cũng đă bị tập đoàn Cộng Sản
mua chuộc để làm suy yếu chính nghĩa của người
Việt Tự Do.
II. Tội Ác Của Hồ Tặc
và Tập Đoàn Cộng Sản Việt Nam
Chúng ta phải nói rơ cho toàn dân Việt,
nhất là các thanh niên, và nhân dân thế giới biết là Hồ
tặc và tập đoàn Cộng Sản đă và đang là
thủ phạm giết chết hàng chục triệu người
dân Việt vô tội, làm cho tan cửa nát nhà của hàng triệu
gia đ́nh suốt từ bắc tới nam, và hiện
đang đầy ải 80 triệu dân Việt xuống
hàng chó ngựa. Toàn dân Việt đều là những nhân chứng
hùng hồn nhất cho việc này.
Ngoài ra, tội của Hồ tặc
và đảng Cộng Sản Việt Nam cùng bè lũ tay sai
đă được nêu rơ trong những bài thơ của
Nguyễn Chí Thiện, một nhà thơ sống trong chế
độ Cộng Sản từ khi chế độ này mới
được khai sinh cho tới sau ngày Miền Nam bị
rơi vào nanh vuốt Cộng Sản.
Hơn thế nữa, biết bao
sách báo đă phơi bày sự gian manh đểu cáng cùng tội
trạng kinh thiên động địa, trời không dung,
và đất không tha của tên Hồ tặc cùng Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Thật đúng là “Từ khi có
đất có trời,/ Không ǵ độc ác bằng loài Cộng
nô.”
1. Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện Kể
Tội Ác của Hồ Tặc và Đảng Cộng Sản
Việt Nam
Trong tác phẩm Hoa Địa Ngục
(Hoa Kỳ, 1996), nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đă kể
đầy đủ về tội ác của Hồ tặc
và đảng Cộng Sản Việt Nam.
a. Tội Ác của Hồ tặc: Không có ǵ quư hơn độc lập
tự do./ Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó./ Tôi biết
nó, đồng bào miền Bắc này biết nó./ Việc nó
làm, tội nó phạm ra sao.../Nó là tên trùm đao phủ
năm nào.../Lúc rụi vào Tàu, lúc rúc vào Nga./ Nó gọi Tàu Nga
là cha anh nó./ Và t́nh nguyện làm con chó nhỏ.../Học lối
hung tàn của cha anh nó./Cuộc chiến tranh chết vội
hết thanh niên đương diễn ra triền miên ghê gớm
đó./ Cũng là do Nga giật Tàu co tiếp nhiên liệu gây
mồi cho nó.../Ôi, Độc lập, Tự do! /Xưa cũng
chỉ v́ quư hai chữ đó./ Đất Bắc này mất
vào tay nó./ Nhưng nay mà vẫn c̣n có người mơ hồ
nghe nó./ Nó mới vạn lần cần nguyền rủa thực
to! (Không Có Ǵ Quí Hơn Độc Lập Tự Do).
Chế độ này đă mở mắt
cho tôi./ Tôi sợ bác Hồ vạn lần hơn bác Hổ./
Đời trên đất Bác Hồ buồn hơn trong nấm
mộ. (Những Ghi Chép Vụn Vặt)