b. Tội Ác của Đảng Cộng Sản Việt Nam: Đảng tới là tan tất cả.../Chế độ này trâu ngựa sống không an./ Sài lang đă dựng xong nền thống trị.../Miền Nam ơi từ buổi tiêu tan./ Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn! (V́ Ấu Trĩ). V́ cộng sản đê hèn hung ác chủ tâm./ Dùng thời gian tiêu diệt chúng ta,/ bắt chúng ta suốt đời phải làm trâu ngựa. (V́ Nhân Loại). Đảng đă nắm là dân hết cựa,/ trí thức, ngu hèn, trâu ngựa như nhau./ Cộng Sản là quân bất nhân tàn ngược, thắt cổ dân đen đủ các loại tṛng (Những Ghi Chép Vụn Vặt). Đảng d́u dắt thiếu nhi thành trộm cướp./ Giải phóng đàn bà thành đĩ thành trâu.../Và cải tiến dân sinh thành xác mướp./ Đảng thực chất chỉ là Đảng cướp.../Nhờ súng đạn Tàu Nga, bắt bớ./ Đảng tắt thở cuộc đời mới thở./ Đảng c̣n kia bát phở hóa thành mơ! (Đảng)

c. Nguyễn Chí Thiện hy vọng: Sẽ có một ngày con người hôm nay./ Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng (Sẽ Có Một Ngày)

2. Sử Sách Đă Ghi Tội Ác của Hồ Tặc và Bè Lũ Tay Sai

a. Nguyễn Sinh Cung: Nguyễn Sinh Cung là cái tên trong khai sinh của Hồ tặc khi hắn mới được sinh ra, c̣n các tên sau này của Hồ tặc như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, và Hồ Chí Minh đều là tên giả hiệu và tên tiếm đoạt. Ông bố của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hội trượt nên mới đổi tên là Nguyễn Sinh Huy để che cái dốt của ḿnh và đồng thời cũng đổi tên của các con. Chính v́ thế mà Nguyễn Sinh Cung có tên mới là Nguyễn Tất Thành.

Hồ tặc có ḷng dạ bất chính do ông bố truyền cho nên suốt cuộc đời hắn đều làm chuyện gian manh: làm tay sai cho giặc, lừa thầy phản bạn, lừa nhân dân, ăn cắp bút hiệu và bí danh của các nhà cách mạng danh tiếng, cướp vợ người, cưỡng hiếp gái tơ, giết người bịt miệng, ăn cắp thơ văn để làm của riêng cho ḿnh, có con không nhậïn, giả dối, bất nhân, và bất nghĩa.

b. Nguyễn Tất Thành: Nguyễn Tất Thành là tên thứ hai của Nguyễn Sinh Cung. Sau này hắn ta ăn cắp bút hiệu (bí danh) Nguyễn Ái Quốc của cụ Nguyễn Thế Truyền (Nguyễn Le Patriot) và cụ Nguyễn An Ninh (Nguyễn Ái Quốc).

Vào đầu thế kỷ 20, năm 1911, cụ Phan Chu Trinh và Bùi Quang Chiêu sang Pháp t́m đường cứu nước. Cụ Chiêu là một nhà trí thức trong Nam hồi đó. Hai cụ cùng với luật sư Phan Văn Trường, cụ Nguyễn An Ninh, và cụ Nguyễn Thế Truyền lập ra Hội Người Việt Nam Yêu Nước.

Vào ngày 3-12-1917, Nguyễn Tất Thành được phép vào Pháp sinh sống. Nhờ có sự gửi gấm của bố là Nguyễn Sinh Huy, một bạn tù của cụ Phan Chu Trinh ở Côn Đảo trước đó, nên Nguyễn Tất Thành được thu nạp để hoạt động trong nhóm báo chí của cụ Phan.

Vào tháng Giêng năm 1919, Nguyễn Tất Thành được nhóm cụ Phan cử mang “Bản Yêu Sách 8 Điểm” của nhân dân Việt Nam đến dự buổi họp của các nước đồng minh tại Versailles ở Pháp. Bản Yêu Sách này do nhóm cụ Phan soạn thảo và được kư dưới bút hiệu Nguyễn Ái Quốc. Kể từ đó, Nguyễn Tất Thành chiếm luôn cái tên Nguyễn Ái Quốc cốt để lấy danh tiếng và uy tín của các cụ Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh khoác lên ḿnh. Quả đúng là cáo mượn oai hổ.

c. Nguyễn Ái Quốc Giả, Tay Sai của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản: Nguyễn Ái Quốc là tên mới của Nguyễn Tất Thành do hắn ta ăn cắp bút hiệu Nguyễn Ái Quốc của cụ Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền như đă nói ở  trên.

Vào tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc giả với bí danh là Lư Thụy đi theo quan thầy Liên Xô là Borodine đến Quảng Châu, Trung Quốc, để t́m cách xâm nhập tổ chức Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên.

Sau khi Tưởng Giới Thạch nắm quyền điều hành Trung Hoa Quốc Dân Đảng, ông ta truy lùng Borodine và đồng bọn, trong đó có Nguyễn Ái Quốc giả. Bọn chúng phải trốn về Liên Sô vào khoảng tháng 4 năm 1927.

Tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc giả đă được Nga tuyển làm thành viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Hắn cùng bè lũ nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong thời gian này, Trần Phú được cử làm Tổng Bí Thư. Vào tháng 10, 1930, Nguyễn Ái Quốc giả nhận lệnh của Đảng Cộng Sản Nga đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương. Sau khi Trần Phú chết, Lê Hồng Phong lên thay thế làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dưong. Tháng 4 năm 1931, Đảng Cộng Sản Đông Dương được chính thức công nhận là một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế và Nguyễn Ái Quốc giả được Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản cho phụ trách Vụ Phương Nam thuộc Bộ Đông Phương Quốc Tế Cộng Sản.

Chủ ư của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản là dùng Đảng Cộng Sản Đông Dương với quân đánh thuê là lũ Cộng Sản Việt Nam để xâm lăng và Cộng Sản hóa toàn cơi Đông Dương.

Những việc Hồ tặc và bè lũ đă và đang làm từ trước tới nay khiến chúng lộ nguyên h́nh là những tên tay sai của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản.

d. Nguyễn Ái Quốc Giả, Một Tên Gian Manh: Nguyễn Ái Quốc giả đă mắc tội giết chồng cướp vợ, cưỡng hiếp và thủ tiêu cô Nguyễn Thị Xuân, và có con không nhận. Hắn ta quả là loại gian ác, bạc t́nh, bất nhân, và bất nghĩa. Khi có đủ thế lực, Nguyễn Ái Quốc giả đă giết Lê Hồng Phong để cướp vợ của y là Nguyễn Thị Minh Khai. Quả thật Nguyễn Ái Quốc giả là tên bất nhân bất nghĩa và lừa thầy phản bạn.

Trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, học giả Hoàng Văn Chí cho biết Nguyễn Ái Quốc lừa cụ Phan Bội Châu vào tô giới của Pháp ở Thượng Hải để bán cho Pháp lấy 10 vạn (100 ngàn) đồng. Hồ tặc quả thực là tên lừa thầy phản bạn đến chỗ cùng cực của sự bỉ ổi! Vào ngày 19-5-1941, khi thấy Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của cụ Hồ Học Lăm và cụ Nguyễn Hải Thần, thành lập vào năm 1937, có uy tín đối với người Việt trong cũng như ngoài nước và ngay cả đối với người Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc giả cùng bè lũ đă gian manh thành lập một tổ chức có tên tương tự là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Cái gian manh ở chỗ bọn này chỉ đổi hai chữ Cách Mạng trong tên hội của của cụ Nguyễn Hải Thần và Hồ Ngọc Lăm thành hai chữ Độc Lập, phần c̣n lại tụi này giữ y nguyên như thế. Quả thật chúng là bọn ma giáo!

Khi thấy cụ Hồ Ngọc Lăm có bí danh là Hồ Chí Minh (thật) đă qua đời, Nguyễn Ái Quốc giả muốn mượn uy tín cùng uy danh của cụ Hồ Ngọc Lăm để làm uy tín và uy danh của ḿnh. Để đạt được mục đích này, Nguyễn Ái Quốc giả lại đổi tên là Hồ Chí Minh để hoạt động kể từ tháng 8 năm 1942.

Con người gian manh th́ từ nhỏ đă gian manh và làm ǵ cũng gian manh xảo quyệt. Nguyễn Sinh Cung là một thí dụ điển h́nh trong trường hợp này. Những tế bào ở tim óc của Nguyễn Sinh Cung đều là tế bào gian manh, phản phúc, và phản quốc nên hắn ta mới gian manh, phản phúc, và phản quốc đến như vậy!

Ngay cả khi bị giam trong khám lớn Victoria ở Hồng Kông (1932-1933), Nguyễn Ái Quốc giả cũng ăn cắp những bài thơ của ông già người Hoa họ Lư để sau này tập đoàn Cộng Sản Việt Nam cho in và phổ biến thành tập thơ của Hồ tặc. Đó là tập thơ Ngục Trung Nhật Kư mà giáo sư Lê Hữu Mục đă viết cả cuốn sách với nhan đề Hồ Chí Minh Không Phải Là Tác Giả Ngục Trung Nhật Kư để phơi bày tính gian manh của Hồ tặc và bè lũ tay sai.

Tính gian manh của Hồ tặc và của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam đă đưọc cựu Thủ Tướng Trần Trọng Kim nói rơ trong cuốn Một Cơn Gió Bụi như sau: “Cộng Sản chuyên dùng những thủ đoạn quỉ quyệt nên tuy có thắng lợi mà những người trí thức ít người theo. Cũng v́ vậy mà họ bài trừ trí thức và chỉ ưa dùng đàn bà, trẻ con, và những người lao động là hạng người dễ khuyến dụ, dễ lừa dối.”

Cựu Thủ Tướng Trần Trọng Kim c̣n cho biết về thủ đoạn mà Cộng Sản thường áp dụng như: “Nói dối, đánh lừa, cướp bóc, giết hại, và tàn phá không kiêng nể ǵ cả miễn là làm cho người ta mắc lừa hay sợ mà theo ḿnh là được hoặc để cho được việc trong một lúc nào đó.”

đ. Hồ Chí Minh Giả Hiệu, Một Tên Dâm Đăng, Vô Trách Nhiệm, Bất Nhân, Bất Nghĩa, Gian Manh, và Độc Ác: Đối với Hồ tặc th́ bất cứ cái ǵ có lợi cho hắn và cho Đảng Cộng Sản, bất kể liêm sỉ, đều là tốt cả. Câu chuyện dâm đăng, vô liêm sỉ, vô trách nhiệm, bất nhân bất nghĩa, và gian manh độc ác của Hồ tặc được nhà văn Trường Xuân Triệu Quyết Thắng kể lại trong truyện ngắn “Tự Gây Nhiều Oan Trái” (phần IV, V, VI trang 123-135) của tác phẩm Cười Chóp Bu Đảng. Đại ư của phần này như sau:

Vào buổi tối đầu xuân Tân Mùi (1955), sau khi thất bại trong việc quyến rũ cô y tá người Thượng mới ngoài 20 tuổi, Nguyễn Thị Xuân, do bộ hạ của Hồ tặc đưa vào để “săn sóc sức khỏe” cho hắn, Hồ tặc   mới sai bộ hạ cho cô ta uống thuốc mê để dễ bề cưỡng hiếp. Cưỡng hiếp cô Xuân xong, Hồ tặc thu xếp cho cô ta đến ở số nhà 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội. Hàng ngày, suốt trong nhiều tháng trời, có một chiếc xe com-măng-ca chở cô ta vào Bắc Phủ để Bác giải quyết sinh lư rồi lại đưa cô ta về. Đến cuối năm 1956, cô ta có thai và sinh ra đứa con trai.

Việc này làm cho Hồ tặc và đồng bọn lo lắng v́ nếu để lộ ra ngoài th́ chiếc áo giấy mà họ đang khoác sẽ bị rách nát. Sau một buổi họp khẩn cấp, đồng bọn của Hồ tặc có nhận xét: “Bác là h́nh ảnh cha già, là thánh mà dân tộc cả ngàn đời nay mới có, và là mẫu mực của Đảng Tiên Phong. Nếu mà lại có vợ con th́ e không tiện cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam thân yêu!”

Tên Hoàn, Bộ Tưởng Công An của Hồ tặc, đă được mật lệnh thủ tiêu cô Xuân. Trước khi thủ tiêu cô Xuân, tên Hoàn đă lợi dụng cơ hội để cưỡng hiếp cô ta trong mấy tháng trời dù cô ta có kháng cự tới đâu cũng không thoát được tay hắn. Đúng là chủ nào tớ nấy. Thấy đă có vẻ lộ chuyện, vào đêm 11 tháng 2 năm 1957, tên Bộ Trưởng Công An này đă sai thủ hạ dùng chày cao su đánh vào đỉnh đầu cô Xuân cho chết rồi vứt xác cô ra vệ đường cho ô tô cán thêm. Sau đó, công an giao thông đă lập biên bản cho rằng cô Xuân chết là do xe đụng, xe gây tai nạn bỏ chạy có bảng số SS thuộc xe biên chế trong Bắc Phủ...

Sau khi cô Xuân bị giết, người con trai mà cô ta có với “Bác” được cho đi làm con nuôi thiên hạ, hết Nguyễn Lương Bằng rồi đến tướng Chu Văn Tấn chia nhau nuôi. Cứ như thế cho đến năm 1969, khi Hồ tặc chết th́ cậu bé cha không nhận mẹ bị giết này lại được tên thư kư Vũ Kỳ nuôi dưỡng và đặt tên cho cậu bé là Vũ Tất Trung. Hiện cậu ta vẫn c̣n sống ở Hà Nội và đă đổi họ từ Vũ sang Nguyễn, Nguyễn Tất Trung.

Hồ tặc và bọn thủ hạ c̣n dùng thủ đoạn độc ác giết chết hai người em gái của cô Xuân là cô Vàng và cô Nguyệt cùng khoảng hơn mười người bạn của họ chỉ v́ những người này biết rơ chuyện dan díu của cô Xuân với lăo Hồ tặc.

Trong tác phẩm Án Tích Cộng Sản Việt Nam, tác giả Trần Gia Phụng đă kể rơ là: “Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có  bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông.” Sau đây là những cô vợ và nhân t́nh của Hồ tặc có tên tuổi hẳn hoi: Cô Bourdon (người Pháp), Tăng Tuyết Minh (người Trung Hoa), Lư Huệ Khanh (người Trung Hoa), Li Sam (người Trung Hoa), Nguyễn Thị Minh Khai (người Việt, vợ của Lê Hồng Phong, một “đồng chí” của Hồ tặc), Đỗ Thị Lạc, tức Thuần (người Việt ở Cao Bằng), Nông Thị Xuân hay Nguyễn Thị Xuân (người Việt ở Cao Bằng), và Nguyễn Thị Phương Mai (người Việt ở Thanh Hóa). Ngoài ra tên Hồ tặc c̣n có thêm vợ người Nga, nhân t́nh người Tàu, người vợ Tàu ở Quảng Đông.

Tên Hồ tặc gian dâm như thế mà hắn ta cùng với đảng Cộng Sản đều che dấu việc kết hôn để lừa bịp trắng trợn mọi người. Điều tệ hại hơn nữa là tên Hồ tặc rất tàn bạo và dă man với những người đă ăn nằm với hắn ta.  Hồ tặc c̣n chủ trương giết các người vợ và nhân t́nh của hắn ta cũng như những người biết chuyện gian dâm của hắn ta để bịt miệng họ

Giết người bịt miệng là chính sách của Hồ tặc và bè lũ cộng sản Việt Nam. Hồ tặc xuất thân đă là kẻ làm tôi tớ cho Tây, Nga, và Tàu. Bản chất của Hồ tặc là kẻ lưu manh, tên ăn cắp (đạo danh, đạo văn, đạo uy tín), dâm đăng, vô trách nhiệm (có con không nhận), và lừa thầy phản bạn. Hồ tặc quả đúng là một tên ngụy, cái tên mà hắn ta gán cho người Miền Nam chúng ta.

Trường hợp của bà Nguyễn Thị Hiệp, người Canada gốc Việt, bị tụi Việt cộng giết cũng ở trong trường hợp Cộng Sản giết người bịt miệng. Chính tụi Cộng Sản Việt Nam chủ trương buôn thuốc phiện lậu để làm kinh tài và đầu độc nhân dân cho mê muội hầu làm tê liệt ư chí chống Cộng của quần chúng. Bà Nguyễn Thị Hiệp đă bị chúng lừa để đưa thuốc phiện lậu ra ngoại quốc làm kinh tài cho chúng. Khi thấy công việc có thể bị bại lộ th́ bọn cướp biến thành quan ṭa và gái đĩ bàn chuyện chính chuyên cho nên bà Hiệp mới bị chúng biến thành vật tế thần.

e. Hồ Tặc và Bè Lũ đă Ăn Cướp Thành Quả Cách Mạng của Chính Phủ Quốc Gia Trần Trọng Kim và Các Đảng Phái Cách Mạng Quốc Gia vào Năm 1945: Thể theo lời kêu gọi của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, vào ngày 19-8-1945, Tổng Hội Công Chức và các đảng phái quốc gia đă tổ chức một cuộc biểu t́nh khổng lồ ở công trường Nhà Hát Lớn Hà Nội với khoảng 15 vạn (150 ngàn) người tham dự để ủng hộ Chính Phủ Lâm Thời Trần Trọng Kim, chúc mừng độc lập, chống việc Pháp quay trở lại, và ủng hộ một bức thông điệp của vua Bảo Đại gửi cho chính phủ các nước lớn trên thế giới.

Lợi dụng khí thế sôi nổi của cuộc biểu t́nh và ḷng yêu nước mănh liệt của toàn dân đang bừng bừng phát khởi sau 80 năm bị Pháp đô hộ, một số cán bộ Cộng Sản do Xứ Uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo đă bất thần cằm cờ Việt Minh chiếm diễn đàn của cuộc biểu t́nh. Tụi chúng báo tin quân Phát Xít Nhật đă đầu hàng Đồng Minh, vu cáo chính phủ Trần Trọng Kim làm tay sai cho Nhật, yêu cầu chính phủ Bảo Hộ Pháp nhường quyền, và kêu gọi toàn dân ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Chúng c̣n bịa ra là Việt Nam đă được Đồng Minh giúp đỡ và sẽ độc lập hoàn toàn. Tụi Cộng Sản c̣n tung tin để lừa gạt dân chúng là Việt Minh lên cầm quyền, dân chúng không phải đóng thuế nữa và được sống hoàn toàn tự do hạnh phúc. Quả thật là mánh khóe lừa đảo rất hấp dẫn!

Lúc bấy giờ, Hoàng Đế Bảo Đại, Thủ Tướng Trần Trọng Kim, các đảng phái quốc gia, cùng toàn dân không hiểu tí ǵ về tính gian manh và phản quốc của Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản Việt Nam. Tụi này c̣n tệ hơn quân thực dân Pháp và bọn Phát Xít Nhật. Chính nhờ sự gian manh này mà Việt Minh mới lừa đảo được mọi người để cướp chính quyền. Kết quả là Chính Phủ Trần Trọng Kim và Hoàng Đế Bảo Đại đă cộng tác với Việt Minh. Ngoài ra, các đảng phái quốc gia cũng cử người tham gia vào Chính Phủ Lâm Thời rồi Chính Phủ Liên Hiệp của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Hồ tặc và bè lũ c̣n thâm độc hơn nữa khi chúng giả vờ tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương vào ngày 11-11-1945 để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Lê. Thực chất th́ chúng vẫn là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản và buôn dân bán nước cho Nga Tàu.

Chính sự ngây thơ yếu kém này của các đảng phái quốc gia đă giúp Hồ tặc thực hiện mục tiêu của chúng là ḥa để tiến và lùi một bước để tiến ba bước. Và cũng nhân cơ hội này, trong khi các đảng phái quốc gia không pḥng thủ, Hồ tặc và bè lũ đă t́m cách bắt cóc thủ tiêu các lănh tụ cách mạng và cán bộ của các đảng phái quốc gia để làm tiêu tan các lực lượng của họ.

Nhà cách mạng Nguyễn Tường Bách đă nói rơ tính chất cuộc Cách Mạng Tháng 8 trong tác phẩm Việt Nam Một Thế Kỷ Qua, Hồi Kư Cuốn Một 1916-1946 như sau: “Cái gọi là cách mạng tháng 8 bất quá chỉ là một cuộc đảo chính, và cuộc đảo chính này đă đưa đến một chế độ chuyên chế tai nạn cho dân tộc, một thời kỳ bi đát hàng nửa thế kỷ tới nay chưa kết thúc. Đó không phải là một cuộc cách mạng dành độc lập v́ lúc đó Pháp đă bỏ chạy, Nhật đă đầu hàng, chính phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim là cơ cấu quản trị đất nước, dân tộc Việt Nam đă độc lập thực sự... Việc đảng CSVN ngụy biện là đă đánh đuổi được hai đế quốc Pháp-Nhật, giải phóng cho dân tộc lúc ấy, chỉ là một thứ tuyên truyền vô căn cứ để mê hoặc dân chúng...Thực ra lúc này Pháp đă bị Nhật tước quyền rồi mà Nhật lại đă đầu hàng (Đồng Minh).

g. Ngay Từ Buổi Đầu, Hồ Tặc Đă Rước Quân Pháp Trở Lại Cai Trị Việt Nam: V́ thế yếu, chính Hồ tặc đă chủ trương thỏa hiệp với Pháp qua Hiệp Định Sơ Bộ Pháp Việt 6-3-1946 để tránh cho Đảng Cộng Sản khỏi tan ră. Ngoài mặt th́ Hồ tặc cùng bè lũ rêu rao có công đuổi Pháp cứu nước, nhưng sự thực th́ chúng đă rước quân Pháp trở lại Việt Nam để mượn tay Pháp sát hại vô số các nhà cách mạng quốc gia hầu giúp cho Hồ tặc và bè lũ tồn tại để làm quân đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Đây là nguyên nhân tại sao Hồ tặc đă vội vă chấp nhận những điều kiện do đại diện của Pháp là Sainteny đưa ra và đă kư Hiệp Định Sơ Bộ với Pháp vào ngày 6-3-1946. Sau đó quân Pháp đă đổ bộ lên Hải Pḥng và Việt Minh lợi dụng quân Pháp để tiêu diệt các nhà cách mạng Quốc Gia cùng đảng phái của họ. Tuy nhiên, khi biết được thủ đoạn đê hèn của Việt Minh, quân Pháp không chịu giúp Việt Minh để thanh toán những người Quốc Gia. Do đó Hồ tặc lại trở mặt và kêu gọi Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp và cuộc chiến tranh đă thực sự bùng nổ trong đêm 19-12-1946 giữa Pháp và Việt Minh.

h. Vơ Nguyên Giáp Chỉ Là Tên Tay Sai Của Tướng Trung Cộng Vương Thừa Vũ: Tại mặt trận Điện Biên Phủ, Tướng Trung Cộng Vương Thừa Vũ đă trực tiếp chỉ huy mặt trận này để đánh nhau với Pháp nhằm mục đích nhuộm đỏ Việt Nam và toàn cơi Đông Dương. Trong trận Điện Biên Phủ, thanh niên Việt được huy động thành biển người để hy sinh đánh thuê cho Trung Cộng. Tướng Trung Cộng Vương Thừa Vũ đă là tướng chỉ huy mặt Trận Điện Biên Phủ.

Tất cả vũ khí tối tân và lương thực đều do Trung Cộng va Liên Xô cung cấp. Vơ Nguyên Giáp chỉ là bù nh́n và tay sai cho Tướng Vương Thừa Vũ. Chính Vơ Nguyên Giáp cũng đă tiết lộ việc này trong dịp kỷ niệm 35 năm trận Điện Biên Phủ khi hắn viết bài “Quyết Định Khó Khăn Nhất.” Trong bài này hắn xác nhận là có sự bất đồng ư kiến giữa hắn và đoàn cố vấn Trung Quốc. Mặt khác những tài liệu chính thức ấn hành ở Trung Quốc cũng đă xác nhận về việc này. Thế mà Hồ tặc và bè lũ vẫn rêu rao chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của Vơ Nguyên Giáp. Thật là nhục nhă!

i. Những Tội Ác Cụ Thể của Hồ Tặc và Tập Đoàn Cộng Sản Việt Nam đă Gây Ra: Theo tác phẩm Án Tích Cộng Sản Việt Nam (Toronto, 2001) của nhà văn Trần Gia Phụng th́ nạn đói năm 1945 tại Việt Nam không những  là do  bọn xâm lăng Pháp và Nhật gây ra mà c̣n do bọn Việt Cộng làm cho nạn đói này trầm trọng hơn.  Bọn Việt Minh Cộng Sản lúc bấy giờ  "khai thác nạn đói, thừa nước đục thả câu, vừa để tuyên truyền.  vừa tổ chức ăn cướp lúa gạo để đem vào mật khu nuôi cán bộ Cộng Sản.” Qua tác phẩm này, nhà văn Trần Gia Phụng đă phơi bày đầy đủ tội ác của bọn Quỷ Đỏ Cộng Sản Việt Nam đối với đất nước và toàn dân. 

Bọn Việt Cộng chủ trương độc tài đảng trị. Chúng phá hủy toàn bộ cấu trúc xă hội của Việt Nam về các mặt văn hóa chính trị và kinh tế để thiết lập xă hội “xuống hàng chó ngựa” hầu giúp chúng có toàn quyền đàn áp nhân dân. Chúng c̣n chủ trương làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng để xâm lăng Việt Nam. Chúng là loại Việt gian và lũ vong bản. Chính v́ thế chúng đă chủ trương chiến tranh ư thức hệ, nhường đất cho ngoại bang, chia rẽ dân chúng, dùng chính sách bần cùng hóa nhân dân, ngu dân, chận đứng tài năng, và làm đất nước chậm tiến để dễ bề thao túng.

Tác giả Trần Gia Phụng kết luận rằng “Đảng Cộng Sản phản dân nên dân phải cương quyết chống lại đảng để sinh tồn. Tinh thần Quốc Gia Dân Tộc bất di bất dịch là chân lư sáng chói ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại...chắc chắn một ngày không xa, quê hương sẽ được giải thoát khỏi chế độ độc tài Cộng Sản, chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc sẽ được phục hồi, và nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phú, và phú cường

Vào năm1954, khi kư hiệp định Geneva, Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản Miền Bắc đă chuẩn bị thôn tính Miền Nam với ư đồ nhuộm Đỏ Việt Nam và Đông Dương. Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản Hà Nội là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh giết hại hàng chục triệu người Việt Nam vô tội. Chúng kư Hiệp Định Geneva 1954 rồi lật lọng, chúng kư Hiệp Ước Hoà B́nh Ba Lê 1973 cũng để lật lọng và đem thêm quân vào cưỡng chiếm Miền Nam.

Đă có người định nghĩa thế nào là Cộng Sản bằng những từ ngữ như sau: Cộng sản là đạo tặc, lếu láo, khoác lác, bịp bợm, giả nhân, giả nghĩa, vô liêm sỉ, vô gia đ́nh, vô tổ quốc, vô tôn giáo, bàn tay sắt bọc nhung, vắt chanh bỏ vỏ, đao búa, gian manh, đểu cáng, tàn bạo, khát máu, bóc lột, vô nhân đạo, bần cùng hóa nhân dân, phản bội, lật lọng, dối trá, độc tài, phát xít, sát hại đồng bào, diệt chủng, dốt nát, háo danh, háo thắng, dụ dỗ, dọa nạt, cưỡng hiếp, hối lộ, tù đầy, buôn lậu, bắt mọi người v́ ḿnh, bán nước, buôn dân, bóp méo lịch sử, phá hoại phong tục và truyền thống, cướp của, giết người bịt miệng, ám sát, thủ tiêu, ăn cắp, lừa lọc, mua chuộc, đổi trắng thay đen, bưng bít, cấm đoán, vô trách nhiệm, vong ân, bội nghĩa, bạc t́nh, thủ đoạn, mánh lới, bất tín, bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu, vô ngh́, vô lễ, điêu ngoa, vong bản, phi nhân, độc ác, gian tà, táng tận lương tâm, mặt người dạ thú, lưu manh, luồn cúi, năn nỉ, trở mặt, và phản phúc...

Sau khi chiếm được Miền Bắc vào năm 1954, Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản Việt Nam đă tiến hành “cuộc cải cách ruộng đất” để tiêu diệt hàng  trăm ngàn địa chủ, phú nông, và trung nông. Những người này trước đây đă từng nghe lời dụ dỗ đường mật của Hồ tặc và bè lũ để cống hiến tài sản và yểm trợ “cách mạng” cho đến ngày thành công. Thêm vào đó, Hồ tặc và bè lũ c̣n thủ tiêu rất nhiều đảng viên của chúng cùng tất cả những ai có ư chống lại vụ “cải cách ruộng đất này.” Trong cuốn Án Tích Cộng Sản Việt Nam, theo tác giả Trần Gia Phụng, số người bi liên lụy và bị hại trong cuộc cải cách ruộng đất do bọn Việt Cộng gây ra có thể lên tới khoảng một triệu người.

Mục đích của Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản Việt nam trong vụ “cải cách ruộng đất” là tạo lư do để giết sạch những điền chủ có ảnh hưởng và quyền uy đối với nhân dân để chúng thiết lập chuyên chính vô sản và trao quyền thống trị nông thôn cho bần cố nông, thành phần đa số trong xă hội Việt Nam, để chúng dễ lừa bịp tập thể nông dân chất phác, ngây thơ, và hiền hậu này.

Vào năm 1956, Hồ tặc và bè lũ lập kế để đàn áp và triệt hạ không biết bao nhiêu là văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do, dân chủ, và nhân quyền trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy nhiên, thật là đau buồn khi thấy chính một số văn nghệ sĩ trong nhóm này đă phản lại chính cái lương tri của họ để ca tụng “Bác” và “Đảng.” Nguyễn Chí Thiện đă dẫn chứng trong bài tham luận đọc tại Đại Hội Y Sĩ ở Paris 2000 như sau: “Đau buồn nhất là cả các kiện tướng trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm suốt ba thập niên bị trói chặt, ngậm đắng nuốt cay trong cũi sắt, cũng ùa ra để ca ngợi “đảng,” “bác,” và chế độ, chẳng hạn như Lê Đạt với tập Trường Ca Bác, Hoàng Cầm với bài thơ dài 'Nhớ Về Làng Sen,' và Trần Dần với tập thơ Cổng Tỉnh.” Những văn nghệ sĩ này quả là một lũ hèn và vô liêm sỉ.

Tội bán nước của tập đoàn Cộng Sản Hà Nội đă được chứng minh bằng giấy tờ. Vào năm 1974, Phạm Văn Đồng kư văn kiện công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng. Vào năm 1980, tập đoàn Cộng Sản Việt Nam kư hiệp ước với Liên Sô trong đó có khoản Việt Cộng nhường quyền sử dụng hải cảng Cam Ranh cho Liên Sô.

Ngày 30-1-1968, Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản đă lợi dụng dịp Tết Mậu Thân để tấn công toàn cơi Miễn Nam. Trong vụ này, chúng đă giết và chôn sống không biết bao nhiêu đồng bào vô tội. Đặc biệt là ở Huế và Quảng Trị, Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản đă giết và chôn sống cả trăm ngàn người dân trong thời gian chúng chiếm đóng ở đây trước khi bị quân lực VNCH đánh cho không c̣n manh giáp.

Trong thời kỳ xâm nhập Miền Nam, Hồ tặc và bè lũ đă ra lệnh thẳng tay pháo kích bừa băi vào các đô thị và làng mạc đông người kể cả nhà thương, chợ búa, và trường học. Chúng giật ḿn những chuyến xe đ̣ đông khách, những chuyến xe lửa đầy ắp nhân dân để giết hại không biết bao nhiêu người dân vô tội. Đặc biệt nhất là chúng pháo kích trường tiểu học Cai Lậy trong giờ học làm chết hàng trăm học sinh ngây thơ vô tội.

Khi chiếm được Miền Nam, tập đoàn Cộng Sản đă gian manh biến cả nước thành nhà tù để chúng ăn cướp của cải và nhà cửa của nhân dân. Chúng bắt toàn thể quân cán chính của chế độ Miền Nam đi tù mút mùa mà chúng nói là “học tập cải tạo” chỉ trong 10 ngày hay 30 ngày. Thật là đồ gian manh lừa đảo một cách khốn nạn cùng cực chưa từng có trên thế gian này kể từ khi khai thiên lập địa đến nay.

Cách chúng đổi tiền nhiều lần là h́nh thức cướp của tới tận xương tủy của nhân dân. Cách chúng đánh tư sản cũng là h́nh thức ăn cướp giữa ban ngày. Chúng đầy ải và bóc lột toàn dân Miền Nam bằng cách bắt họ đi “công trường” làm việc không công để chúng cướp nhà cướp của mà chúng gọi là đi kinh tế mới. Ngoài ra chúng c̣n dùng chính sách hộ khẩu để bóc lột và kềm cặp toàn dân.

Trong lá thư viết tại cái thành phố gọi là Hồ Chí Minh ngày 11-6-1995 với nhan đề “Tuyên Bố Về Một Giải Pháp Hoà Giải và Ḥa Hợp Dân Tộc,” ông Nguyễn Hộ tố cáo thành tích trong cuộc “Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước” của bọn Cộng Sản Việt Nam là đă làm cho 8 triệu dân Việt vô tội phải hy sinh. Tổng số người Việt chết trong các cuộc chiến suốt từ 1930 tới 1991 do Cộng Sản Việt Nam gây ra vào khoảng 12 triệu sinh mạng.

Vào năm 1993, trrong bài “Quan Điểm Và Cuộc Sống,” Nguyễn Hộ đă thú nhận rằng: “...chúng tôi đă chọn sai lư tưởng: Cộng Sản chủ nghĩa. Bởi v́ suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng Cộng Sản ấy, nhân dân Việt Nam đă chịu hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được cái ǵ, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục!”

Vào ngày 26-6-2000, Câu Lạc Bộ Sinh Viên Việt Nam trong nước đă phổ biến trên internet “Bản Điều Trần Tám Tội Ác mà Bộ Chính Trị và Đảng Cộng Sản Việt Nam Phải Trả Lời Trước Dư Luận”   như sau:

Một. Tội bán đứng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và vùng biên giới phía Bắc Việt cho Trung Quốc mà không thông qua ư kiến quốc dân.

Hai. Tội bao che cho các hành vi tham nhũng và hối lộ của các thành viên cao cấp nhất trong Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ba. Tội lợi dụng quyền lực của Đảng và mưu cầu lợi ích cá nhân để đem sinh mạng thanh niên Việt Nam hy sinh vô nghĩa cho các cuộc chiến tranh xâm lăng tại Cambodia và Laos.

Bốn. Tội bao che cho các hành động buôn bán ma tuư, buôn lậu, băng đảng cướp giật, cùng tội lộng hành quyền lực của lực lượng cảnh sát và quân đội trong nước.

Năm. Tội đàn áp và thảm sát đồng bào vô tội trong các chiến dịch thanh trừng những người bất đồng chính kiến trong cũng như ngoài nước.

Sáu. Tội bắt bớ, bỏ tù vô cớ, ngụy tạo tang chứng và vật chứng nhằm mục đích đàn áp phong trào tranh đấu cho Nhân Quyền trong nước.

Bảy. Tội bế quan tỏa cảng cùng thực thi chính sách thực dân Cộng Sản và ngu dân để dễ bề cai trị độc quyền.

Tám. Tội lộng hành quyền lực và kết bè cánh đảng viên đảng Cộng Sản để trục lợi ăn chia quyền lợi và tài nguyên đất nước.

Tại sao tập đoàn Cộng Sản Hà Nội dám dốc toàn lực để vào xâm chiếm Miền Nam, đưa quân đi đánh thuê cho Khmer Đỏ, Cộng Sản Lào, và vùng Đông Bắc Thái Lan? Trong bài tham luận đọc tại Đại Hội Y Sĩ ở Paris đă đề cập ở trên, Nguyễn Chí Thiện cho biết là trong thời gian chiến tranh, ngoài Bắc đă có 300 ngàn quân Trung Quốc sang trấn đóng. Tất cả đều đă được Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản tiến hành với tham vọng nhuộm Đỏ toàn cơi Đông Dương. Cộng Sản Việt Nam nhận lệnh thi hành để lập công đầu với Cộng Sản quốc tế.

k. Chiến Thuật Nước Mắt Cá Sấu của Hồ Tặc và Tập Đoàn Cộng Sản: Hồ tặc đă khôn khéo đóng kịch khi khóc lóc nhận sai lầm và hứa sửa sai trong vụ “cải cách ruộng đất” mà thực sự chúng chẳng sửa sai ǵ cả. Hồ tặc đă khôn khéo dùng nguyên tắc đạo đức để thực hiện ư đồ gian manh, chẳng hạn như chúng luôn luôn dùng tấm b́nh phong phê b́nh, kiểm thảo, tự phê, sửa sai, v.v. để che mắt nhân dân mỗi lần chúng bị nhân dân phản đối. Việc này đă xảy ra thường xuyên dưới chế độ Cộng Sản v́ chúng thường xuyên làm như thế để phù hợp với chủ trương của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản.

Thủ đoạn của Cộng Sản Việt Nam là như vậy. Phê b́nh và tự phê b́nh của Cộng Sản là giải pháp giúp tập đoàn Cộng Sản lách khỏi hiểm nguy để rồi vẫn tiếp tục chính sách bóc lột và đầy ải nhân dân xuống hàng chó ngựa. Chúng lợi dụng ḷng yêu nước của dân để thu phục rồi lại đàn áp nhân dân, hăm hại người có ḷng yêu nước chân chính, cùng đầy ải những người có sĩ khí và liêm sỉ. Chúng làm toàn chuyện hại dân hại nước để rồi dùng chiêu bài “khóc lóc, tự phê, sửa sai, hay rút kinh nghiệm” hầu trốn tránh trách nhiệm để sau đó lại tiếp tục chủ trương hại nước hại dân.

l. Tại Sao Hồ Tặc và Tập Đoàng Cộng Sản Gian Manh Như Thế mà Vẫn Tồn Tại Cho Đến Ngày Nay? Trong bài tham luận đă đề cập ở trên, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng đă trả lời rất rơ ràng là đại đa số trí thức sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam, già cũng như trẻ, đều hèn và dân trí chúng ta c̣n thấp! Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đă giải thích lư do tại sao đa số trí thức sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam đều hèn như sau: “Qua nhiều năm sống dưới sự khủng bố thường trực của 'Đảng,' họ đă mất hết sĩ khí; nỗi lo sợ và tâm lư an phận thủ thường đă chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn họ. Lối sống đầu hàng, khuất phục, nuốt nhục, nuốt khổ, nịnh bợ, luồn lọt đă thấm vào tới tận xương tủy của họ.”

C̣n về mặt dân trí dưới chế độ Cộng Sản c̣n thấp, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện giải thích như sau: “Ư thức về tự do và dân chủ c̣n mơ hồ nên chưa thấm thía sâu sắc nỗi nhục phải sống dưới ách độc tài, mất hết quyền làm người, nỗi sợ hăi vẫn c̣n đè nặng lên tim óc, do đó không bật dậy được và phản ứng quá yếu ớt... V́ trí tuệ thấp kém nên sự phân hóa bất phục tuy có nhưng chưa đủ mạnh để phá vỡ Đảng...mà chỉ làm tŕ trệ rệu ră guồng máy của Đảng mà thôi. Trong Đảng cũng như trong nhân dân, sự phản kháng mang tính chất thụ động...Tóm lại, chế độ toàn trị Việt Nam đă thoát hiểm v́ hai yếu tố chủ chốt: sự đớn hèn của tầng lớp trí thức và t́ng trạng thấp kém của dân trí Việt Nam.”

3. Dân Gian Kết Án Bọn Việt Cộng

Ư dân là ư trời. Toàn dân đă ghê tởm chế độ Việt Cộng và đă kết án bọn Việt Cộng bằng  dưới h́nh thức ca dao, vạch trần bản chất của các cán bộ và bộ độ của bọn Việt Cộng và cái gọi là Xă Hội Chủ Nghĩa:

a. Ca Dao Dưới Ách Cộng Sản: Từ khi có đất có trời, không ǵ độc ác bằng loài Cộng nô. / Đôi dép râu dẫm nt hồn son trẻ, chiếc mũ tai bèo che khuất nẻo tương lai./ Thi đua làm việc bằng hai, Để cho cán bộ mua “đài” mua xe./ Thi đua làm việc bằng ba,/ Để cho cán bộ  xây nhà xây sân. /Ai sinh thằng Cáo thằng Hồ, để em đói rách tô hô không quân. Ai sinh thằng Duẩn thành Duân, em đă không quần nay áo cũng không, Ai sinh thằng Sắt thằng Đồng, em đă mất chồng nay mất thằng cu. Ai sinh thằng Khủ thằng Khu, tố chết thằng bác bỏ tù thằng cha. / Nhân phẩm toàn dân mất sách rồi, chỉ c̣n lương thực giá cao thôi. Lương tâm giá rẻ hơn lương thực, chân lư chân gị cũng thế thôi. / Đả đảo Thiệu Kỳ, mua cái ǵ cũng có. Hoan hô Hồ Chí Minh, mua cây đinh cũng phải đăng kư.

b. Người Dân Định Nghĩa “Xă Hội Chủ Nghĩa” Như Sau: Xài Hổng Cho Nghỉ, Xe Hết Chỗ Ngồi, Xếp Hàng Cả Ngày, Xóa Hết Chữ Nghĩa, Xuống Hố Cả Nước, Xiết Họng Công Nhân, Xạo Hết Chỗ Nói, Xuống Hàng Chó Ngựa, và Xấu Hết Chỗ Nói.

c. Người Dân Đổi Lời của Bài Quốc Ca Cộng Sản Như Sau: Đoàn quân Cộng nô đi sao mà gớm thế!/ Bước chân tàn hung trên đường rập ŕnh ta,/ Liều thân chết chiến đấu, tha hồ vét,/ Súng Tàu Nga mang giết dân làng ta,/ Đường vô Nam ăn cướp không ngừng,/ Lũ lưu manh phường lừa gạt cút mau!

d. Sau Khi Cộng Sản Chiềm Miền Nam, Những Cán Bộ Miền Nam Tập Kết Ra Bắc Trở Về Than Rằng: “Tước tôi chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ, bây giờ tôi chống gậy (ăn mày) kiếm ăn!”

đ. Người Dân Đổi Khẩu Hiệu của Cộng Sản (Người người thi đua, ngành ngành thi đua/ Ta nhất định thắng, địch nhất định thua) Thành: Người người tham ô, ngành ngành tham ô/ Đảng nhất định chết, nhà nước nhất định thua!

e. Người Dân Chửi Bộ Đội và Cán Bộ Cộng Sản: Định nghĩa chữ “bộ đội”: Bộ đội là đi bộ từ Bắc vào Nam và đội đồ từ Nam ra Bắc. Sở thích của bộ đội và cán bộ Cộng Sản khi vào Miền Nam: đạp, đồng, đài, và đĩ (xe đạp, đồng hồ đeo tay, radio, và gái đĩ) Hành động của bộ đội và cán bộ Cộng Sản khi chúng chiếm được Miền Nam: vào, vơ vét, về, vui vẻ.

III. Người Quốc Gia và Các Chính Phủ Quốc Gia Chống Cộng Từ Trước Tới Nay Hoàn Toàn Có Chính Nghĩa

Cuộc chiến giữa ta với tập đoàn tay sai Cộng Sản quốc tế, tức là bọn Việt Cộng, trước năm 1975 và ngay cả bây giờ tại Việt Nam cũng như ở hải ngoại không phải là một cuộc nội chiến. Đây là cuộc chiến giữa tự do dân chủ và độc tài chuyên chế, giữa chủ quyền dân tộc Việt Nam và sự xâm lăng của quân Cộng Sản. Cuộc chiến đấu và vận động của người Việt hải ngoại để giải trừ chế độ cộng sản trong nước hiện nay hoàn toàn có chính nghĩa.

Phần I và phần II đă được tŕnh bày ở trên chứng tỏ tập đoàn Cộng Sản Việt Nam, tuy thân xác là người Việt, đă biến thành loài Quỉ Đỏ từ trong tâm khảm, hành động, và tư tưởng. Chúng là quỉ sứ ma vương với đầy đủ ư nghĩa của chữ Cộng Sản đă được giải thích ở phần trên chứ không c̣n là người Việt Nam nữa. Chính phủ Miền Nam Việt Nam đă dùng chính sách chiêu hồi để đưa bọn chúng trở về nẻo chánh mà không được.

Cuộc chiến tranh ở Việt nam là do bọn Quỉ Đỏ gây ra v́ chúng quyết tâm dùng biện pháp quân sự để nhuộm đỏ Miền Nam. Dân quân Miền Nam chiến đấu là cốt bảo vệ đất nước để khỏi rơi vào chế độ bạo tàn Cộng Sản, nhiên hậu bảo vệ tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân. Đây hoàn toàn không phải là cuộc nội chiến.

Chúng ta phải cảnh tỉnh đề pḥng những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc sau:

- Có những kẻ ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản cho rằng người dân Việt Nam chỉ là nạn nhân của một hành vi bạo động quốc tế, chính quyền ở hai miền Bắc Nam chỉ là công cụ tay sai của hai thế lực Cộng Sản và tư bản. Nói như thế có khác nào làm tăng giá trị của kẻ thù tức là quân xâm lăng Cộng Sản và làm tiêu tan chính nghĩa của người Việt Quốc Gia trong việc chống lại quân xâm lăng. Nói như thế có khác nào bảo gái đĩ cũng giống như gái chính chuyên và quân ăn cướp giống như người bị ăn cướp.

Sự thực th́ chỉ có bọn Cộng Sản Việt Nam làm tay sai cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế để xâm lăng Việt Nam. Chúng là bọn cơng rắn cắn gà nhà và là thủ phạm gây chiến. Lực lượng Mỹ và đồng minh đến giúp Miền Nam là để bảo vệ Miền Nam khỏi rơi vào ṿng nô lệ của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế cũng giống như Mỹ đă bảo vệ Nam Hàn và Đài Loan.

- Có kẻ chỉ khuyên ta hỗ trợ phong trào dân chủ trong nước, vận động giới trẻ, đồng bào hải ngoại, và chính phủ các nước hỗ trợ phong trào dân chủ trong nước. Họ c̣n khuyên chúng ta chuẩn bị về tiếp thu Việt Nam khi chính phủ Cộng Sản trong nước tự giải thể. Mới nghe thấy điều này, có người cho là hữu lư. Tuy nhiên, đây là một thủ đoạn để giúp Cộng Sản tồn tại lâu hơn. Nó có tác dụng làm tiêu tan tinh thần chiến đấu của chúng ta trong việc giải trừ chế độ Cộng Sản ở quê nhà v́ theo tinh thần lời khuyên này, chúng ta giữ vai tṛ thụ động chỉ để ủng hộ, kêu gọi ủng hộ, và ngồi chờ sung rụng mà thôi. Đây cả là một thủ đoạn gian manh để làm tiêu tan tinh thành chủ động chiến đấu tiêu diệt kẻ thù của chúng ta và làm cho chế độ Cộng Sản ở Việt Nam có thời gian củng cố để tồn tại.

- Có kẻ c̣n cho là thế hệ trẻ Việt Nam phải đi lên để dân tộc Việt Nam cùng đi lên, bỏ lại quá khứ, bỏ lại sau lưng cái thế hệ già quá nhiều thù hận chất chồng của cả phía quốc gia lẫn phía Cộng Sản. Đây cả là một thủ đoạn chủ trương huề cả làng để làm lợi cho Cộng Sản. Quân xâm lăng Cộng Sản chính là kẻ tạo hận thù chia rẽ để chiếm đoạt Miền Nam trong khi toàn dân Miền Nam lại là nạn nhân của hận thù chia rẽ do Việt Cộng gây ra.

Chính tụi Cộng Sản đă làm cho hàng chục triệu người Việt vô tội phải bỏ mạng, gần ba triệu người phải bỏ nước sống lưu vong, tám chục triệu người mất nhân quyền, mất tự do dân chủ, và đang chịu cảnh đói khổ, đầy ải cả về tinh thần lẫn vật chất do Cộng Sản gây ra ở quê nhà. Bọn Cộng Sản Việt Nam đâu có ǵ để hận thù ta, nếu có chăng là chúng hận ta trong việc ta vạch trần cái dă tâm làm tay sai cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế để xâm lăng Miền Nam và bóc lột chúng ta.

Như thế, nếu nói là bỏ lại quá khứ th́ có phải là họ bao che cho bọn xâm lăng Việt Cộng và kêu gọi ta tha thứ cho bọn Cộng Sản để về hợp tác với chúng  và giúp chúng tồn tại lâu hơn không? Thật là một hành động gian manh, phản phúc, và phản quốc!

- Có kẻ kêu gọi cả Quốc Cộng đều phải phản tỉnh. Mới nghe người ta cảm thấy có lư v́ phản tỉnh là điều cần thiết để tiến bộ. Tuy nhiên, khi nghe nói cả người Quốc Gia và người Cộng Sản đều phản tỉnh th́ người ta hiểu là cả người Cộng Sản và người Quốc Gia đều là quân tệ hại xấu xa như nhau nên cần phải phản tỉnh. Đây lại là lối nói gian manh cho gái chính chuyên và gái đĩ giống nhau, cho người bị cướp và bị giết giống như quân cướp của giết người. Lối nói này đă làm tăng giá trị của bọn Cộng Sản và làm giảm chính nghĩa của người Quốc Gia với mục đích là để giúp bọn Cộng Sản Việt Nam tiếp tục đầy ải nhân dân ta lâu hơn. Thật là đồ u mê tăm tối, gian manh, phản phúc, và phản quốc!

- Có kẻ chỉ trích những lỗi lầm cá nhân của các cấp lănh đạo trong khi điều hành chế độ Việt Nam Cộng Hoà để xuyên tạc chính nghĩa quốc gia. Bất cứ chính thể nào hay các người cầm quyền trong chính phủ ở bất cứ nơi đâu cũng đều có những khuyết điểm. Những khuyết điểm của các nhà lănh đạo Việt Nam Cộng Ḥa chỉ là hạt cát so với các tội ác tày đ́nh của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam. 

Tội tày đ́nh của bọn Việt Cộng là  tội bán nước và làm tay say cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế để xâm lăng Việt Nam. Thêm vào đó, chúng c̣n có các tội tầy trời khác đối với dân tộc Việt nam như tội tàn sát hàng chục triệu dân Việt, tội hủy hoại văn hóa và truyền thống dân tộc, tội bóp méo lịch sử, tội đưa dân đi làm nô lệ cho các nước, tội phá hoại di tích lịch sử, tội phá hoại môi sinh,và tội bần cùng hóa nhân dân, v.v.

Không lên án tập đoàn Cộng Sản Việt Nam mà lại chỉ đi bêu xấu người Việt Quốc Gia trong khi chúng ta đang chiến đấu giải trừ bọn Việt Cộng, những kẻ này quả đă có chủ ư làm lợi cho bọn Cộng Sản và làm mất chính nghĩa của người Việt Quốc Gia.

Miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản không phải v́ các chính phủ Miền Nam yếu kém. Sau khi Mỹ và đồng minh bỏ rơi Miền Nam, Miền Nam Việt Nam của chúng đă phải chiến đấu đơn độc với toàn thể khối Cộng Sản quốc tế, trong đó có Nga Cộng và Tàu Cộng làm chủ nên mới bị thua. Giả dụ như các chính phủ của Miền Nam Việt Nam trước đây đều giỏi và có quân đội hùng mạnh mà không có sự trợ giúp của các nước đồng minh do Mỹ đứng đầu th́ cũng đă bị thua từ lâu rồi. Miền Nam của chúng ta thua không phải thua tụi Cộng Sản Bắc Việt mà là thua toàn khối Cộng Sản quốc tế cũng như Pháp thua trận Điện Biên Phủ không phải thua Vơ Nguyên Giáp và bè lũ Việt Cộng mà là thua Trung Cộng và Liên Sô. Đối với Nam Triều Tiên và Đài Loan, nhờ có Mỹ mà Nam Triều Tiên và Đài Loan mới tồn tại.

Sở dĩ Mỹ bỏ Việt Nam là v́ họ thay đổi chiến lược toàn cầu của họ. Trước khi bỏ Việt Nam, họ đă nắm được Trung Quốc và biết chắc sẽ nắm được cả Liên Bang Sô Viết và bọn Việt Nam Cộng Sản ngày nay. Như thế tội ǵ mà họ phải chiến đấu thêm để tổn thất nhân mạng một cách vô ích.

Việc Mỹ bỏ Việt Nam đă giúp toàn dân Việt Nam sáng mắt ra và hiểu rơ bọn Cộng Sản Việt Nam đểu cáng như thế nào để sau này khi có cơ hội người dân sẽ loại trừ tập đoàn Việt Cộng một cách vĩnh viễn hầu xây dựng Việt Nam thành một nước hùng cường. Thực tế ngày nay đă chứng minh điều này. Hiện nay, Nga, Tàu, và Cộng Sản Việt Nam đều nằm trong bàn tay phù thủy của Mỹ. Trước sau ǵ chế độ Cộng Sản Trung Cộng và Việt Cộng cũng bị nhân dân giải thể và Việt Nam sẽ được hưởng tự do, dân chủ, và nhân quyền.

- Có những kẻ nói là ta cứ làm việc của ta và đừng có bới móc lỗi lầm người khác. Điều này mới nghe ta thấy có vẻ chí lư v́ đối với những người cùng tổ chức và cùng chiến tuyến, ta nên xây dựng cho nhau chứ không nên bới móc nhau để làm mất hoà khí và gây chia rẽ. Nhưng xét cho cùng lư th́ trong phạm vi chính nghĩa quốc gia và hạnh phúc của toàn dân, đây là thái độ cầu an và làm hại tập thể.

Đối với những đoàn thể và những cá nhân chỉ v́ danh quyền lợi bất chính mà âm mưu trở cờ theo Cộng Sản làm hại cho chính nghĩa quốc gia và hạnh phúc của toàn dân, nếu có đủ bằng cớ, ta phải vạch mặt chỉ tên bọn này để mọi người khỏi mắc lừa chúng hầu tránh hại cho nhân dân và cho đại nghĩa. V́ đại nghĩa của dân tộc và v́ hạnh phúc của toàn dân, chúng ta không thể nhân nhượng với những kẻ vô liêm sỉ làm tay sai cho Việt Cộng được. Vạch mặt chỉ tên bọn này là một việc làm đầy tính cách xây dựng và chính nghĩa, ta cần phải làm và phải làm cho bằng được.

- Trung tâm William Joiner Center của trường Đ.H. University of Massachusetts Boston, Hoa Kỳ, đă thuê một số giáo sư người Mỹ và ba tên Việt Cộng để tiến hành cuộc nghiên cứu về  những hệ quả của chiến tranh và xă hội (Study of War and Social Consequances) với đề tài (Re) Constructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora (Tái tạo bản chất và vị thế trong cộng đồng người Việt tản mát kháp nơi trên thế giới).

Ba tên Việt Cộng này gồm Nguyễn Bá Chung  (một “giáo sư” hoạt động cho Việt cộng tại đại học Massachusetts), Hoàng Ngọc Hiến (tên “giám đốc” trường sáng tác văn học Hà Nội và là một cán bộ lư luận dạy về chủ thuyết Mác Lê tại Việt Nam), và   Nguyễn Huệ Chi (trưởng ban lư luận và phê b́nh văn học của Viện Văn Học Hà Nội).

Nh́n vào thành phần của nhóm nghiên cứu trên đây, ta thấy rằng dự án nghiên cứu này được tiến hành theo sự chỉ đạo của bọn Cộng Sản Việt Nam. Đây là một điều hết sức tai hại cho chính nghĩa Quốc Gia và thể diện người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Cộng Sản Việt Nam sẽ dùng dự án nghiên cứu này để bóp méo và xuyên tạc lịch sử, làm mất chính nghĩa chống Cộng của người Việt Quốc Gia, bôi nhọ cộng đồng người Việt hải ngoại, và giúp cho chế độ Cộng Sản Việt Nam tồn tại lâu dài hơn.

Chúng ta không thể coi thường việc này mà phải có thái độ quyết liệt đối với trung tâm William Joiner Center để ngăn chặn việc họ thuê cán bộ cao cấp của Việt Cộng đảm trách công việc nghiên cứu này và những cuộc nghiên cứu trong tương lai.

IV. Kết Luận

Trong tác phẩm Thế Kỷ, Luật Sư Nguyễn Văn Chức đă nhắc lại lời của Bùi Tín viết trong quyển Mặt Thật như sau: “CSVN đă phạm quá nhiều tội ác đối với dân tộc VN. CSVN đă cắt cánh mọi mơ ước, vùi dập trí tuệ, tự do, sức sáng tạo của toàn xă hội.”  Ngoài ra, ông c̣n nói là: “Quyển Mặt Thật đă phanh phui tất cả những hèn hạ, vô liêm sỉ và tởm tang của bọn lănh tụ Việt Cộng, từ Hồ Chí Minh đến Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, và Đỗ Mười, v.v. Bùi Tín xác nhận một sự thật mà người Quốc Gia đă biết từ lâu. Sự thật đó là: hèn hạ, vô liêm sỉ, và tởm tang là bản chất của CSVN, từ Hồ Chí Minh đến cán bộ phường khóm.”

Cộng Sản Việt Nam là kẻ thù không đội trời chung của cả dân tộc VN. V́ hạnh phúc, tự do, dân chủ nhân quyền, và sự sống c̣n của toàn dân, chế độ Cộng Sản Việt Nam phải bị loại trừ hay bị tiêu diệt vĩnh viễn. Đây là chân lư. Không thể nào “ḥa hợp ḥa giải” với chúng được. Lịch sử cho thấy rằng những cuộc hợp tác Quốc Cộng đều đưa đến việc phía người Quốc Gia bị Cộng Sản lừa và sát hại. Việt Cộng chủ trương chuyên chính vô sản th́ không bao giờ chúng chia quyền với ai.

Cộng Sản là chuyên viên lật lọng, chúng kư không biết bao là hiệp ước nhưng rồi lại xé hiệp ước như không. Hăy nhớ lại những thỏa hiệp chúng đă kư trước đây, không có một thỏa hiệp nào mà chúng tôn trọng. Chúng chỉ thỏa hiệp khi chúng lép vế. Khi đủ sức th́ chúng lại t́m cách giết sạch những người Quốc Gia dám tỏ thái độ chống lại chúng.

Có một điều hết sức rơ ràng là quân ăn cướp và kẻ gian manh phạm pháp không bao giờ trở thành con người tử tế được. Các khảo cứu về những tội phạm đă chứng minh điều này. Gái đĩ th́ ngựa quen đường cũ. Kẻ gian manh cướp của giết người th́ chứng nào tật ấy. Không bao giờ có sự hoà giải chân chính với tụi Cộng Sản được dù khi chúng ở vào đường cùng thế bí. Việc giải trừ chế độ Cộng Sản Việt Nam là mục đích và là chính nghĩa của người Quốc Gia từ trước tới nay.

Vậy muốn xây dựng tự do, dân chủ, và nhân quyền cho toàn dân Việt, ta phải dứt khoát giải thể chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cho bằng được. Muốn giúp vào việc giải thể chế độ Cộng Sản ở quê nhà, ta phải tập hợp lực lượng của tất cả các đoàn thể chính trị và cộng đồng chân chính chống Cộng thành một khối dưới h́nh thức của một Hội Đồng Phục Quốc Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại.

Việc tổ chức hội đồng này phải dựa theo phương trâm “quí hồ tinh chứ không phải quí hồ đa.” Ta chỉ tập hợp những tổ chức chân chính chống Cộng mà thôi. Trong thực tế ta đă thấy có những hội đoàn ngoài mặt cũng chào cờ Việt Nam Tự Do và nói chuyện chống Cộng mà làm toàn những chuyện có lợi cho Cộng Sản. Phải nh́n vào hành động, quá khứ, hiện tại, và bản chất chứ không nên nh́n vào bề ngoài để xét người xét việc.

Muốn thực hiện việc tổ chức Hội Đồng Phục Quốc này ta phải có nhiều cuộc hội thảo với sự góp ư kiến của những cá nhân và đại diện của các hội đoàn.  Muốn gây dựng đại nghĩa để giúp vào việc giải trừ chế độ Cộng Sản ở quê nhà ta dứt khoát phải có lực lượng thống nhất đại diện cho hết mọi tầng lớp người Việt chân chính chống Cộng ở hải ngoại này càng sớm càng tốt.

 

D-a^y la` pha^`n 3  va` cuo^'i cuo^'n Kie^'n va(n

Từ Cách Mạng Bản Thân đến Cách Mạng Cứu Dân Dựng Nước

 

I. Dẫn Nhập

Cách mạng có nghĩa thông thường là thay đổi toàn diện cơ cấu điều hành của một quốc gia về các mặt chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, quốc pḥng, pháp chế, và xă hội, v.v. từ xấu sang tốt. Trong cuộc tiến hóa, cứ đến một thời kỳ nào đó lại xảy ra cuộc cách mạng. Khi sự sống con người gặp trở lực, người ta phải dẹp bỏ trở lực đó để sinh tồn. Việc dẹp bỏ trở lực đó tức là làm cách mạng. Hiện nay toàn dân Việt ở trong nước đang bị quân xâm lăng Cộng Sản đầy ải xuống hàng chó ngựa.

Chính v́ thế, vào một thời điểm nào đó toàn dân tất phải cùng nhau nổi dậy để giải trừ bọn chúng ngơ hầu đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân. Đó là cuộc cách mạng cứu dân dựng nước. Cuộc cách mạng này thế nào cũng xảy ra, chỉ sớm hay muộn mà thôi. Đây là điều tất yếu!

Cuộc cách mạng bản thân có nghĩa là con người phải tự sửa đổi các tính xấu, rèn luyện những nết tốt, và thực hành những điều học hỏi được để trở thành người hữu ích cho nhà cho nước và cho nhân loại.  Nước Việt ta từ ngàn xưa vốn đă có biết bao anh hùng hào kiệt. Đó là nhờ ở chỗ tiền nhân ta biết làm cách mạng bản thân. Tuy nhiên, khoảng một thế kỷ nay, anh hùng hào kiệt của Việt Nam như lá mùa thu và như sao buổi sớm chỉ v́ đa số người Việt đă quên đi việc làm cách mạng bản thân mà chỉ đắm ch́m vào danh quyền lợi của cá nhân và gia đ́nh.

V́ không những không biết làm cách mạng bản thân mà lại c̣n càng ngày càng đắm ch́m vào việc ham danh quyền lợi bất chính và ngu si mê muội, mấy tên Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh giả), Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, và Trường Chinh, v.v. đă đi làm tay sai cho Nga Tàu để phản lại dân tộc. Bọn đầu sỏ này và bè lũ Cộng Sản Việt Nam, tức là bọn Việt gian bán nước, đă  biến nước Việt để thành chư hầu của lũ Cộng Sản Đệ Tâm Quốc Tế.

Chính Phạm Văn Đồng đă kư công hàm ngày 14-9-58 gửi Chu Ân Lai xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và sau này, tên Phan Văn Khải đă kư với một công ty nước ngoài để nhượng quyền cho họ khai thác viễn thông tại Việt Nam trong thời hạn 99 năm. Bằng chứng bán nước bằng giấy tờ đă rành rành ra đó, đấy là chưa kể việc Hồ Chí Minh làm tay sai cho Cộng Sản quốc tế để xâm chiếm Việt Nam. 

Ngày nay bọn Cộng Sản quốc tế đă tan ră, bọn Cộng Sản tay sai này lại hiện nguyên h́nh là quân ăn cướp ngày. Quân ăn cướp này lại có chính quyền ở trong tay th́ thật là một tai họa khủng khiếp cho dân tộc Việt Nam.

C̣n về phía Quốc Gia, trong số những người đă ra nắm chính quyền của Miền Nam Việt Nam trước đây, rất ít người biết làm cách mạng bản thân, họ thiếu cả tài lẫn đức. Chính v́ thế mà dân ta mới phải chịu trăm ngàn cảnh đọa đầy, khổ đau, tủi hổ, và đắng cay không biết sao mà tả hết được.

Giờ này, việc giúp dân cứu nước chỉ c̣n trông chờ vào bàn tay thế hệ trẻ và các bậc cha anh có tư cách, trung tín, vuông tṛn, thành ư, chánh tâm, từ bi hỷ xả, trí huệ bát nhă, và tinh thần tự lập. Giới trẻ Việt Nam ta ngày nay ở hải ngoại rất  tài giỏi. Họ có mặt ở khắp năm châu, cố chí học hỏi, và góp nhặt tinh hoa của bốn phương để chờ ngày về giải trừ quân xâm lăng Cộng Sản hầu mang lại tự do, dân chủ, hạnh phúc, và nhân quyền cho toàn thể dân Việt nơi quê nhà. Giới trẻ và các bậc cha anh có tư cách, tinh thần tự lập, và ḷng yêu chuộng tự do, ở hải ngoại cũng như ở trong nước, đă từng làm vẻ vang dân Việt. Họ sẽ cùng nhau đứng lên cứu nước thoát khỏi ách thống trị của quân xâm lăng Cộng Sản trong một tương lai gần đây.

Chúng tôi viết bài này với mục đích là giúp các bạn trẻ trau giồi thêm phương pháp cách mạng bản thân trước khi làm cách mạng giúp dân cứu nước.

Về tài, ai cũng có thể học được. Cần thời gian, kiên tâm bền chí, và chuyên cần tập luyện, ta sẽ có được kiến thức rộng, kỹ thuật cao, và tài khéo léo. Tuy nhiên, có tài chưa chắc đă có đức. Chúng tôi đă từng thấy nhiều người có kiến thức rộng và bằng cấp cao mà hành động cùng tư cách của họ, th́ chao ôi, cả là một sự thất vọng năo nề! Đấy là chưa kể những kẻ không có thực tài mà làm ra vẻ có tài và không có bằng cấp mà nói là có. Tài của họ là tài buôn dân bán nước, tài bẻ cong ng̣i bút, tài xuyên tạc, tài phản phúc, và tài chà đạp lên danh dự cùng chính nghĩa bảo vệ tự do của bao chiến sĩ đă từng chiến đấu phục vụ quốc gia dân tộc.

Một số Cộng nô đă khoe bằng cấp và chức vụ của chúng trước đây với mục đích để đánh lừa quần chúng hầu len lỏi vào trong các tổ chức cộng đồng để t́m cách phá hoại. Bằng cấp của họ là bằng cấp ma và chức vụ của họ là chức vụ bịa đặt. Chính v́ vậy, họ không dám nói rơ là học trường nào, ở đâu, đỗ năm nào, và học ngành nào. V́ khoe chức vụ bịa đặt, họ cũng không dám nói rơ là làm việc hay dạy học ở đâu vào năm nào, khoa nào, hay dạy môn ǵ. Nếu có các chi tiết rơ ràng như trên, người ta sẽ kiểm chứng được ngay, nhất là ở Bắc Mỹ này. Chỉ cần gọi điện thoại đến một trường đại học là ta kiểm chứng được họ đă đỗ bằng ǵ, đỗ năm nào, và có bằng về môn học nào. Chính v́ điểm này, những kẻ gian manh chỉ khoe bằng cấp hay chức vụ mà không dám nói rơ các chi tiết như đă đỗ năm nào, ngành nào, và học ở trường nào, hay làm ở đâu, từ năm nào đến năm nào, v,v,.

Những bọn gian manh này thuộc loại phản phúc và làm tay sai cho Việt Cộng để đánh phá cộng đồng người Việt hải ngoại. Những kẻ này không viết nổi một câu văn mà lại khoe là có đến cả chục tác phẩm. Tác phẩm của họ là loại tác phẩm dơ bẩn dùng để xuyên tạc, nhục mạ, và chia rẽ người Việt Quốc Gia chân chính. Khi t́m hiểu ra, người ta mới biết là có một tổ chức phản quốc đă thuê người khác viết các tác phẩm đó cho họ.

Từ cổ chí kim, người ta chưa thấy kẻ nào có hành vi bất chính hay phản phúc mà họ yêu nước thương dân được. Người ta cũng chưa từng thấy những kẻ ham danh quyền lợi bất chính mà làm việc nghĩa thành công được. Chính v́ thế, những người muốn ra gánh vác đại sự cho quốc gia dân tộc cần phải làm cách mạng bản thân và tu tâm dưỡng tánh trước là vậy. Vừa có thực tài vừa biết làm cách mạng bản thân và tu tâm dưỡng tánh, ta mới trở thành người hữu ích và mới có hy vọng giúp dân cứu nước được.

II. Cách Mạng Bản Thân và Tu Thân Theo Tinh Thần Nho Giáo 

Theo Nho Giáo, người quân tử phải sửa sang cái đức tính của ḿnh cho hay cho tốt. Lấy sự chí thiện làm cứu cánh cho mọi sinh hoạt ở đời, ta mới mong giúp dân cứu nước được. Muốn được như thế, người quân tử trước nhất phải sửa ḿnh cho hay, tức là tu thân, rồi mới lo chỉnh đốn việc gia đ́nh, tức là tề gia, cai trị đất nước, tức là trị quốc, và cuối cùng làm cho cho cả thiên hạ được yên vui, thái ḥa, và thịnh trị, tức là b́nh thiên hạ.

Theo Nho Giáo, muốn làm cách mạng bản thân và tu thân, ta phải hiểu mọi lẽ của sự vật một cách thấu đáo (cách vật), biết cho đến nơi đến chốn (trí tri), phải giữ cho ư nghĩ thành thực (thành ư), và cuối cùng là phải giữ ḷng ḿnh cho ngay thẳng (chánh tâm).

III, Cách Mạng Bản Thân Bằng Phương Pháp Vuông Tṛn  

Theo truyền thống Việt Nam ta, việc tu thân đặt nền tảng trên vuông tṛn. Có ăn ở vuông tṛn th́ mới tề gia, trị quốc, và b́nh thiên hạ được. Tiền nhân chúng ta đă dùng phương pháp “ba vuông và bảy tṛn” để  cách mạng bản thân trong ư: “Ba vuông sánh với bảy tṛn, đời cha vinh hiển đời con sang giầu.”

Theo ư của tiền nhân, ba vuông là một nguyên lư tất yếu trong quá tŕnh tiến hóa của vạn vật. Tất cả sự vật đều trải qua ba tiến tŕnh là thực thể, phát triển, và cải tiến mới gọi là toàn vẹn. Con người ta là một thí dụ điển h́nh. Thân xác là một thực thể, lớn lên là phát triển, và muốn tồn tại lâu dài, ta phải cải tiến về đủ mọi mặt trong nếp sống của chúng ta. Đây là định luật của sinh tồn, nó hỗ tương và gắn bó với nhau thành một khối bất khả phân. Phải có thực thể để phát triển và cải tiến. Phải có phát triển mới có dịp cải tiến và thực thể mới trường tồn. Phải có cải tiến th́ việc phát triển mới tốt đẹp và thực thể mới thăng hoa. Bảy tṛn là tiến tŕnh giúp ta làm việc thành công. Khi làm bất cứ việc ǵ, dù lớn hay nhỏ, theo nguyên tắc bảy tṛn, ta chắc chắn phải thành công.  Tiến tŕnh bảy tṛn gồm: hiểu tường tận vấn đề, chuyên cần làm việc, thận trọng trong khi làm việc, làm việc theo tinh thần khoa học, tinh thần cộng tác, tinh thần dân chủ, và cuối cùng là sau khi hoàn tất công việc ta phải rút ưu khuyết điểm.

1. Hiểu tường tận về công việc ta phải làm và nhận rơ động lực nào cùng lư do tại sao ta quyết tâm làm công việc đó th́ công việc mới  thành công.

2. Có hết sức chuyên cần th́ ta mới hoàn tất công việc đúng kỳ hạn. 

3. Có thận trọng về đủ mọi mặt trong khi làm việc, ta mới cần tiên đoán các trở ngại và pḥng ngừa các bất trắc có thể xảy ra hầu dự trù cách đối phó để công việc khỏi bê trễ.

4. Có tinh thần khoa học trong khi làm việc, ta mới nghĩ ra các kế hoạch và chương tŕnh để thực hiện công việc cho chu đáo gồm chương tŕnh ngắn hạn, chương tŕnh dài hạn, kế hoạch đoản kỳ, và kế hoạch trường kỳ.

5. Chân thành cộng tác với nhau trong lúc làm việc là điều quyết định đưa đến thành công. Mọi việc có thành công hay không là do sự cộng tác thương yêu gắn bó giữa các thành viên trong tổ chức. Thiếu sự cộng tác chân thành th́ công việc không thể nào thành công được.

6. Cộng tác thương yêu gắn bó phải dựa trên tinh thần dân chủ, tức là ư kiến của mọi người phải được tôn trọng. Đă cùng nhau cộng tác, chúng ta không được phép loại một ư kiến nào của các cộng sự viên. Mọi ư kiến đều phải được ghi nhận, tôn trọng, đưa ra thảo luận, và lấy biểu quyết. Nếu đa số chấp thuận ư kiến của cộng sự viên th́ ta phải theo.

7. Đă làm việc, ta không tránh được khuyết điểm. Có ưu điểm th́ cũng có khuyết điểm. Trong khi làm việc hay khi đă hoàn tất công việc, chúng ta cần rút ưu khuyết điểm để lấy đó làm kinh nghiệm cho những việc sắp tới. Cần phải “bớt tự ái thêm chút chân thành” trong lúc rút ưu khuyết điểm. Có như thế việc rút ưu khuyết điểm mới có kết quả.

Trong nghĩa thông thường, vuông tṛn c̣n có nghĩa là ăn ở với nhau có trước có sau, có t́nh có lư, và có tín có trung. Vuông tượng trưng cho phép tắc luật lệ và tṛn tượng trưng cho ḷng nhân. Nếu ăn ở với nhau có nhân và phù hợp với luật lệ của xă hội, chúng sẽ được vinh hiển và con cháu chúng ta sẽ được sang giàu. Điều này có nghĩa ta là người tốt, gia đ́nh ta ḥa thuận,  đất nước ta yên vui, và nhân loại thái b́nh an lạc.

IV. Phương Thức Cách Mạng Bản Thân của Những Người Giữ Vai Tṛ Lănh Đạo    

Một tổ chức có thành công hay không là do những người cầm đầu tổ chức có những đức tính của người lănh đạo hay không. Theo nguyên tắc dân chủ ngày nay, mỗi tổ chức thường do một hội đồng quản trị (Board of Directors) hay một ban chấp hành (Executive Committee) điều khiển.

Theo nghĩa thông thường, lănh tụ là người cằm đầu một phong trào hay đứng đầu một đảng phái. Ngày nay, theo tinh thần dân chủ, người cằm đầu một phong trào hay đứng đầu một đảng phái chỉ có quyền đại diện mà thôi. Mọi đường lối hoạt động đều do tập thể quyết định. Những người trong ban chấp hành hay hội đồng quản trị đều là lănh tụ cả.

Muốn tổ chức thành công, mỗi một người trong ban chấp hành hay trong hội đồng quản trị phải trau giồi các đức tính sau:

1. Trung Tín Với Đường Lối Chung và Trung Tín Với Anh Em Trong Tổ Chức.

Trong mọi sinh hoạt của tổ chức và việc giao dịch giữa các cộng sự viên, trung tín là điều cốt yếu để đi đến thành công. Người trung tín th́ thường có liêm sỉ, biết tự trọng, và có lễ. Có trung tín th́ khi gặp khó khăn ta vẫn gắn bó với nhau để lo đại sự.  Kẻ tiểu nhân chỉ v́ danh quyền lợi bất chính mà cộng tác với nhau.

Khi gặp khó khăn họ chống lại nhau. V́ thế, ca dao ta mới có câu: “Thuận buồm xuôi gió chén chú chén anh, lên thác xuống ghềnh mày tao chi tớ.” Họ sẵn sàng phản bội bạn bè, ân nhân, và tổ quốc khi có sự va chạm đến danh quyền lợi của họ. Họ sẵn sàng bẻ cong ng̣i bút và sẵn sàng bán nước cầu vinh cũng chỉ v́ danh quyền lợi bất chính.

Khổng Tử có nói: “Nhân vô tín bất lập.” Câu này có nghĩa là người không có tín th́ không đứng được ở đời. Tấn Văn Công cũng nói: “Tín vi quốc chi bảo” (tín là vật quí báu của cả nước). Chính v́ thế mà kẻ thiếu trung tín th́ không thể nào làm được việc nghĩa. Con người đă không có chữ tín th́ không thể nào giúp ích cho ai được mà c̣n làm hại dân hại nước nữa. “Một sự bất tín vạn sự không tin” là vậy.

2. Kiên Tŕ, Nhẫn Nại, và Quyết Tâm

Phàm làm bất cứ việc ǵ ta cũng đều gặp khó khăn lúc ban đầu. “Vạn sự khởi đầu nan” là vậy. Muốn thành công, ta phải có ḷng kiên tŕ, nhẫn nại, và quyết tâm. Có kiên tŕ, nhẫn nại, và quyết tâm, ta mới tính được thời tạo được thế và t́m ra sách lược, chiến lược, cùng chiến thuật khả thi để giúp cho tổ chức được thành công. Kiên tŕ và nhẫn nại không có nghĩa là cứ ngồi đó để chờ thời đợi thế mà phải biết tính toán kế hoạch và củng cố tổ chức th́ mới đúng với nghĩa của nó.

3. Giữ Bí Mật Mọi Hoạt Động Của Tổ Chức

Mọi dự định chiến lược và chiến thuật của tổ chức không được phép tiết lộ ra ngoài. Ngay cả đối với vợ con hay người thân cũng không được tiết lộ những kế hoạch dự định hay đang được tiến hành của tổ chức ḿnh. Những điều thảo luận trong các cuộc họp nội bộ phải được giữ bí mật, không v́ lư do ǵ mà đem tiết lộ ra ngoài, nhất là không được phép phổ biến trên mặt báo.

Đă có những trường hợp, thành viên của một tổ chức nọ không những đă đem chuyện nội bộ của tổ chức phơi bày trên mặt báo mà c̣n trắng trợn xuyên tạc nữa. Những kẻ làm chuyện như thế đều là loại phản phúc. Kinh nghiệm cho biết rằng những kẻ phản phúc th́ dễ dàng đi làm tay sai cho giặc để hại dân hại nước. Họ là những kẻ phản quốc.

Bảo mật cho tổ chức là điều tối cần thiết đối với các thành viên v́ có bảo mật ta mới tránh được sự phá hoại của địch.

4. Đa Mưu Túc Trí, Sáng Tạo, Mẫn Tiệp, và Phản Ứng Nhanh Lẹ

Khi hoạt động xă hội, văn hóa, và nhất là hoạt động chính trị, ta phải tránh tính nhẹ dạ cả tin th́ mới mong thành công được. Có óc sáng tạo, mẫn tiệp, và đa mưu túc trí ta mới giúp ích cho tổ chức và mới hy vọng đi tới thành công. Trong các trận chiến, những điều như mưu trí, sáng tạo, và phản ứng mau lẹ là những yếu tố quyết định sự chiến thắng. Trong mặt trận chính trị th́ mưu trí, sáng tạo, và phản ứng mau lẹ lại giữ phần quan trọng hơn nữa.

5. Can Đảm

Những người can đảm đều có tinh thần vô úy. Họ   là những người theo đuổi công cuộc cách mạng để đem lại hạnh phúc cho toàn dân. Họ là những bậc quân tử có óc vô cầu, thắng không kiêu, bại không nản, và không bao giờ chùn chân trước thực tế phũ phàng. Thấy việc phải, họ làm cho bằng được. Họ dám nói dám làm và sẵn sàng gánh chịu trách nhiệm cũng như không sợ cường quyền hay áp lực nào. Đó mới đúng là “uy vũ bất năng khuất.” Họ làm cách mạng là v́ lương tâm thôi thúc chứ không phải v́ danh quyền lợi hay bị khích động mà làm.

Tính can đảm giúp ta xem thường thành bại và thẳng tay loại ra ngoài tổ chức những kẻ vô liêm sỉ, phản quốc, và phản bội lại tổ chức và đồng bào. Dung dưỡng những kẻ này, sớm muộn ǵ ta cũng bị hại. Những kẻ phản bội thường hay ham danh tham quyền chuộng lợi một cách bất chính. Kinh nghiệm cho thấy rằng nếu để những kẻ phản bội nằm trong hàng ngũ ta th́ trước sau ǵ họ cũng bị Cộng Sản mua chuộc. Lúc bấy giờ dù ta có hối cũng không kịp.

Ngoài ra, ta c̣n phải can đảm nhận diện bọn tài hèn mà chí lớn, tài cao nhưng chí thiển, thiếu tài kém đức, có thành tích phản bội, và tài hèn chí thấp. Kẻ tài hèn chí lớn th́ hay bất măn và tạo phản. Loại người tài cao chí thiển chỉ hay tính chuyện nhỏ nhen làm hại anh em và tổ chức. Những kẻ thiếu tài kém đức mà đứng đầu tổ chức chỉ làm lụn bại tổ chức mà thôi. Những kẻ đă có thành tích phản bội trước đây thường hay quay đầu phản anh em. Những kẻ tài hèn chí thấp thường th́ “nhập chủ xuất nô,” tức là nếu v́ lư do ǵ được người ta đưa lên giữ địa vị chủ chốt th́ họ cũng hiện nguyên h́nh là loại gia nô làm tay sai cho người và tự biến ḿnh thành một thứ bù nh́n không hơn không kém.

Những đức tính cần thiết của nhà cách mạng khó mấy ai có đầy đủ. Tuy nhiên, đă dấn thân cho đại cuộc, ta vẫn có thể học hỏi trau giồi từ từ. Ở Bắc Mỹ này người ta đều có những khóa đào tạo các nhà lănh đạo. Lănh đạo là một nghệ thuật phải học hỏi mới biết được và phải tập dần dần mới thành. Ngay cả khoa ăn nói cũng phải học mới có được sự hùng biện để thuyết phục người theo ḿnh.

Tiếng trái nghĩa của can đảm là hèn nhát. Con người đă hèn nhát th́ sợ đủ thứ. Họ cam tâm muối mặt làm đủ mọi chuyện đê hèn dù phải sống hèn sống nhục chỉ v́ ham sống sợ chết. Những loại người hèn nhát không bao giờ có thể làm việc ích quốc lợi dân được.

V. Cách Mạng Bản Thân Quốc Dân Bằng Phương Pháp Tự Lập   

Trong sách Cao Đẳng Quốc Dân, cụ Phan Bội Châu có phân biệt “quốc dân” với ”gia nô” rất rơ. Quốc dân là ông chủ của một nước, gia nô là người ở của một nhà. Cụ nói rằng: ”Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay... chỉ thấy gia nô mà không thấy quốc dân thật... Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm gia nô đó không biết tự bao giờ để lại cho chúng ta, bắt ta phải gông đầu khóa miệng, xiềng tay xích chân, mà chịu gánh gia nô cho già đời măn kiếp! Đau đớn thật! Thảm hại thật! Anh em ôi! 'Dân vi quư' là câu nói của ông Mạnh Đại Hiền... có phải nói lừa ta đâu? Ta ngu, ta ngẩn, ta hèn hạ quá chừng!”

Lời nói của cụ Phan Bội Châu quả không có ngoa. Ngay cả từ trước đến giờ, quân Cộng Sản Việt Nam vẫn t́nh nguyện làm gia nô cho Tàu, Nga, và hiện nay chúng lại đi ăn mày Mỹ. Thế mà một số người Việt hải ngoại vẫn c̣n cái quan niệm cho là chỉ khi nào có người Mỹ giúp, ta mới có thể giải trừ quân xâm lăng Cộng Sản ở Việt Nam được. Quả thật đau đớn cho cái thói gia nô của họ.

Theo cụ Phan Bội Châu, các bệnh của quốc dân gồm có 10 tệ bệnh như sau: tính ỷ lại, ḷng giả dối, tính nhút nhát, tham lợi riêng, đua đuổi hư danh, ái quốc giả, không biết hợp quần, mê tín hủ tục, không biết đường kinh tế, và không biết thương ṇi giống.

Sau khi kể những tệ bệnh của quốc dân, cụ Phan Bội Châu có đưa ra những vị thuốc để trị các bệnh này hầu giúp cho quốc dân có được tính tự lập.

Muốn được tự lập, cụ Phan Bội Châu đă đưa ra vị thuốc “khí tự cường” để chữa bệnh “ỷ lại,” vị thuốc “ḷng thành thực” trị bệnh “ḷng giả dối,” vị thuốc “gan cả quyết” trị bệnh “tính nhút nhát,” vị thuốc “ḷng công ích” trị bệnh “tham lợi riêng,” vị thuốc “thực nghiệp” trị bệnh “đua đuổi hư danh,” vị thuốc “bụng nhiệt thành” trị bệnh “ái quốc giả,” vị thuốc “đồng tâm” trị bệnh “không biết hợp quần,” vị thuốc “trí thức mới” trị bệnh “mê tín hủ tục,” vị thuốc “nội hóa” trị bệnh “không biết đường kinh tế,” và vị thuốc “hạt giống nhân ái” trị bệnh “không biết thương ṇi giống.”

Muốn làm cách mạng bản thân quốc dân, toàn dân  phải trau giồi làm sao cho có được tính “tự lập.” Có như thế chúng ta mới hy vọng đạt được thành quả cách mạng cứu dân dựng nước.

VI. Cách Mạng Bản Thân Bằng Cách Tu Tâm Dưỡng Tánh 

Trong tác phẩm Tu Tâm Dưỡng Tánh, Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa đă nói rơ về tu tâm dưỡng tánh như sau: “Người ta sửa cái xấu mà nuôi cái tốt. Sửa là trừ mà nuôi là cộng. Tu có tánh cách tiêu cực, dưỡng có tánh cách tích cực. Một bên trừ cái xấu, một bên bồi bổ cái tốt... Mọi sự vật trong đời tương đối nầy đều có phần xấu và phần tốt. Đối với cái xấu ta phải tu, đối với cái tốt ta phải dưỡng... bài trừ những ảnh hưởng xấu ở chung quanh gọi là tu, bồi bổ cho cái mầm quí báu của cây bồ đề mỗi ngày mỗi lớn mạnh gọi là dưỡng.” 

1. Tu Tâm

Sửa tâm ô trược tham lam, tà kiến, và si mê, v.v. cho thành tốt đẹp gọi là tu tâm. Tâm có hai phần: chân tâm và vọng tâm.  Chân tâm có nghĩa là ḷng chân thật, trong sạch, không nhiễm dơ bẩn bởi cảnh xấu hay tư tưởng xấu. Chân tâm, vốn sẵn có ở nơi ta, giúp ta thoát khỏi sự phiền muộn và nỗi khổ ải của cuộc đời. Muốn có chân tâm ta chỉ cần hiểu biết và dẹp trừ được cái vọng tâm, tức là dẹp bỏ phiền năo, th́ chân tâm tự nhiên hiện ra.Vọng tâm c̣n gọi là vọng tưởng, tức là ḷng toan tính những điều bậy quấy, chẳng phải lẽ, hay nghĩ những điều chẳng hợp đạo lư và trái với chánh pháp. Vọng tâm gây ra phiền năo. Phiền năo là giặc làm hại chúng sanh.

a. Phiền Năo: Phiền năo do vọng tâm gây ra. Phiền năo là các sự mê dục, lầm lạc, và xao xuyến. Phiền năo làm cho tâm ta sinh ra lo buồn, vọng động, thân tâm xao xuyến, và bất an. Phiền năo khiến cho thân, khẩu, và ư của  người ta sinh ra những hành động, lời nói, và tư tưởng bậy bạ nhiên hậu gây ra tội lỗi để phải chịu đau khổ về sau.

Phiền năo gồm có căn bản phiền năo, tức là các thứ phiền năo chính, và tùy phiền năo, tức là các thứ phiền năo phụ.

* Căn Bản Phiền Năo (phiền năo chính) gồm 10 thứ: tham dục: tham lam, sân nhuế: nóng nảy, si: ngu si hay vô minh, ngă mạn: tức tính khinh lờn người khác và cho ḿnh là hơn người, nghi: không tin, thân kiến hay ngă kiến: ư kiến chấp có thân ḿnh hay của ḿnh  nên chỉ thấy có ḿnh mà thôi nhiên hậu sinh khổ năo; biên kến: ư kiến thiên một bên và cho rằng chết là hết hay cho rằng thân tâm là thường trụ bất diệt để từ đó sinh ra khổ năo, tà kiến: ư kiến không chân chánh, kiến thủ kiến: khư khư giữ lấy ư kiến sai lầm của ḿnh nên lúc nào cũng bảo thủ cho ḿnh là giỏi là đúng hơn và ai nói cũng không nghe, và giới thủ kiến: theo giới cấm của ngoại đạo một cách vô lư làm hại người hại ḿnh.

* Tùy Phiền Năo (những phiền năo tùy thuộc) gồm có 20 thứ: phẫn: tức giận; hận: hờn giận hay hờn mát và hờn thiệt; năo: hay buồn rầu bứt rứt; phú: che dấu tội lỗi của ḿnh để làm tội lỗi càng nặng thêm; tật: ganh ghét người có tài có danh hơn ḿnh; xan: hà tiện bủn xỉn; cuống: dối gạt người; kiêu: kiêu căng; siểm: a dua bợ đỡ người; hại: làm tổn hại người; vô tâm: không có tâm thức, chơn tâm không c̣n, và không cảm xúc; vô quí: không biết thẹn và không biết xấu hổ; điệu cử: tâm tánh không trầm tĩnh, hay nói hay cười, và lao chao bất định; hôn trầm: không tập trung tư tưởng, dễ mệt mỏi, và tâm trí mờ mịt; tán loạn: tâm hồn rối loạn, tản mát, và bất định; phóng dật: không biết tự kiềm chế ḿnh; bất tín: không tin điều hay lẽ phải, ưa thích điều ô nhiễm, và tâm tánh đen tối; giải đăi: biếng nhác không muốn làm việc; thất niệm: không chăm chú để ư đến công việc ḿnh làm; và bất chánh tri: hiểu biết không chính đáng, hiểu lầm, và làm sai.

b. Dùng Thiện Tâm Sở Để Giải Trừ Phiền Năo: Đời là bể khổ bởi v́ có giặc phiền năo hoành hành. Muốn giải trừ phiền năo ta phải dùng những điều sở hữu tốt của tâm, tức là những t́nh ư tốt trong tâm để trừ phiền năo. Những điều sở hữu tốt của tâm gọi là thiện tâm sở.

Thiện Tâm Sở gồm có 11 thứ: tín: sự hiểu biết thấu đáo tạo ra ḷng tin mang tính chất khoa học; tinh tấn: siêng năng chăm chỉ làm việc; tàm: tự ḿnh biết xấu hổ; quí: khi có lỗi biết thẹn; vô tham: không tham lam; vô sân: không nóng nảy; vô si: không si mê và lúc nào cũng có trí tuệ sáng suốt; khinh an: thân tâm thơ thới và khoan khoái yên vui; bất phóng dật: biết tự kiềm thúc ḿnh; hành xả: không cố chấp, gặp cảnh buồn hay đau khổ th́ xả bỏ ngay, nhiên hậu ta thấy ḷng nhẹ nhàng vui vẻ; và bất hại: không làm tổn hại cho người và vật.

Tu tâm là vấn đề khó. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người làm được. Vấn đề chính là có chí th́ nên và có công mài sắt có ngày nên kim. Người xưa có nói: “Thế thượng vô nan sự, do lai tâm bất chuyên,” tức là trên đời không có việc ǵ gọi là khó, chỉ tại tâm ḿnh không chuyên mà thôi.

Muốn tu tâm, ta phải nhận diện được các phiền năo. Sau đó, ta dùng thiện tâm sở như đă tŕnh bày ở trên để khắc phục phiền năo. Mỗi ngày cố gắng một chút. Dần dần ta sẽ đạt được mục đích. Ngày nào c̣n phiền năo, ta phải tu tâm ngày đó.

2. Dưỡng Tánh

Tánh đây là tánh Phật hay Phật tánh, c̣n gọi là chân tánh, hay chân như. Trong kinh phật có câu: “Nhất thế chúng sanh giai hữu Phật tánh,” nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Làm sáng Phật tánh là thành Phật. Chúng sanh v́ c̣n có nhiều phiền năo nên Phật tánh không sáng ra được. Đức Phật đă giải trừ hết phiền năo nên ngài thành Phật. Chính v́ thế mà Đức Phật có dạy rằng: “Ta là Phật đă thành, các người là Phật sẽ thành.” Mỗi chúng sanh đều có sẵn Phật tánh. Chỉ cần dưỡng Phật tánh th́ phiền năo sẽ biến dần để đi đến triệt tiêu, lúc đó ta sẽ thấy niết bàn ngay tại thế gian này. Những Phật tánh căn bản ta cần phải nuôi dưỡng gồm có:

- Từ Bi: Từ là thương tưởng, dốc tâm đem lợi ích và an lạc cho chúng sanh. Bi là biết đau xót trước những cảnh khổ năo, hoạn nạn, và sầu khổ của chúng sanh để cứu vớt họ và làm cho đời họ hết phiền năo. Tánh từ bi đă có sẵn trong tâm ta. Ta phải gỡ các lớp chướng ngại để mầm từ bi nẩy nở. Việc đầu tiên cần làm để dưỡng tánh từ bi là ta phải tiếp xúc với những cảnh khổ đau để thông cảm nỗi đau khổ của tha nhân và do đó ta mới có ḷng thương xót những người gặp cảnh khổ đau.

Có thương xót ta mới dốc tâm trí cứu vớt họ. Đất sống của từ bi là cảnh khổ đau. Cảnh khổ đau nuôi dưỡng ḷng từ bi. Tuy nhiên, có những cảnh đau khổ giả tạo, ta cần phải có trí huệ soi sáng bản chất các cảnh khổ sở và hoạn nạn để khỏi bị lợi dụng hầu phát khởi ḷng từ bi cho đúng chỗ. Chính v́ thế, từ bi do trí huệ mà có. Từ bi không do trí huệ phát sinh không phải là từ bi bởi v́ trí huệ là tính sáng suốt thông hiểu mọi lẽ nên mới giúp cho ḷng từ bi được cao cả, trong sáng, và ngay chính.

- Trí Huệ: Trí huệ c̣n gọi là trí huệ bát nhă, tức là tánh sáng suốt tṛn đầy và cùng khắp cả mà không bị cái ǵ ngăn trở. Trí huệ tiếng Phạn là Prajnâ (bát nhă) và có nghĩa là thông minh, linh hoạt, sáng suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Trí huệ là trí thức của nhà thành đạo và bậc học đạo chân chánh. Trí huệ giống như ánh sáng, phiền năo giống như bóng tối. Hễ có ánh sáng th́ bóng tối phải tiêu tan.

Mầm trí huệ đă có sẵn trong ta. Muốn nuôi dưỡng trí huệ, ta đừng để cho dục vọng và ích kỷ chi phối cái thấy cái nghe của ta. Phải chấp nhận sự thật dù sự thật đó làm ta đau ḷng. Không những phải sáng suốt quan sát sự vật mà c̣n phải dùng trí để suy nghiệm thấu đáo tất cả mọi khía cạnh của sự vật để thấy cái lơi cốt của nó. Biết tường tận cũng chưa đủ mà c̣n phải thực hành cái biết ấy th́ ta mới đạt tới bậc trí huệ.

Thực hành những điều đă biết bằng phương pháp giới, định, và huệ. Giới để ngăn tà niệm và phiền năo. Định để giúp thân tâm định tĩnh, tức là phép tham thiền nhập định. Định để giữ cho tâm hồn b́nh thản giống như mặt nước yên tĩnh phản chiếu rơ ràng cảnh trời mây hoa lá. Huệ dùng để soi sáng giúp cho trí ta thấy được rơ ràng chân tướng của vạn vật, hiểu được nguồn gốc đau khổ, và biết được con đường giải thoát. Chính v́ thế mà nhà Phật cho trí huệ bát nhă do từ bi mà sanh. Trí huệ không phải trí huệ của ḷng từ bi phát sinh th́ chưa phải là trí huệ bát nhă. Đó là trí huệ thường của tâm sai biệt bởi v́ trí huệ bát nhă gồm cả tâm lẫn trí.

Trí huệ c̣n có nghĩa là Phật. Phật là trí huệ, c̣n gọi là giác, tức là sự hiểu biết tṛn đầy, chứ không phải tượng Phật thờ ở chùa. Phật tử qui y Phật tức là tự tâm ḿnh qui y giác (trí huệ) để có sự hiểu biết thấu đáo th́ những điều tà vạy không có đất nảy sanh và tránh được tính tham của cải và sắc dục. Trí huệ c̣n là độ thứ sáu trong phép tu Lục Độ của nhà Phật. Đó là bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí huệ. Ta dưỡng được tánh trí huệ th́ mọi phiền năo đều tiêu tan.

- B́nh Đẳng: B́nh đẳng là tính bằng nhau, ngang nhau, và như nhau. Người có tính b́nh đẳng sẽ không phân biệt cao hạ, thâm thiển, quí tiện, bần phú, nam nữ, và lăo ấu. Họ thương mọi người như nhau chứ không phân biệt quen lạ hay oán thân. Nhà Phật chủ trương thường hành b́nh đẳng và phá trừ nhăn kiến nhị nguyên, tức là không c̣n phân biệt tâm vật, hữu vô, nội ngoại, bỉ ngă, tâm trí, thiện ác, và sinh tử, v.v. để đi đến kiến tánh thành Phật.

Muốn dưỡng tính b́nh đẳng vốn đă sẵn có trong ta v́ đây là một Phật tánh, ta phải thương yêu tất cả mọi người, đừng phân biệt thân sơ hay cao hạ, đừng thấy người giàu có cúng dường nhiều tiền cho nhà chùa mà trọng vọng, đừng thấy kẻ nghèo hèn mà khinh, và cũng đừng trên đội dưới đạp. Không nên coi ḿnh quan trọng hơn người mà phải ḥa cái ta của ta với cái ta của mọi người v́ mọi người dù ở địa v́ nào cũng đều là người cả, đều có nhân phẩm như nhau, và đều đáng được coi trọng.

Đây là điều hết sức tiến bộ trong đạo Phật. Đạo Phật đă chủ trương b́nh đẳng cách đây 2545 năm. Thế giới mới có b́nh đẳng trong h́nh thức cách đây 53 năm, tức là từ ngày 10 tháng 12 năm 1948, khi bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” dược Liên Hiệp Quốc ban hành.

Lơi cốt của toàn bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” là đ̣i hỏi mọi chính quyền của các nước hội viên Liên Hiệp Quốc phải công nhận và thực thi nhân quyền, tức là quyền của con người, chủ yếu là quyền b́nh đẳng. Thế mà trên thực tế, nhiều nơi trên thế giới vẫn không có tí nhân quyền nào, nhất là ở nước “Xuống Hàng Chó Ngựa.”

Tại nước Cộng Sản Việt Nam, một nước hội viên của Liên Hiệp Quốc, dưới sự thống trị của quân xâm lăng Cộng Sản, người dân không hề biết nhân quyền là cái ǵ. Đau đớn và tủi hổ thay! Liên Hiệp Quốc và các nước hội viên đă vi phạm bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” khi họ chấp nhận cho Việt Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc trong lúc nước Cộng Sản này vừa cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Ḥa xong và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền của toàn dân Việt cho tới hiện nay.

- Lợi Tha: Lợi tha là làm lợi ích cho những người khác bằng cách giúp của cải, sức lực, th́ giờ, và đôi khi bằng cả tính mạng của ḿnh. Không những thế, ta c̣n biết đem lời hay lẽ phải cùng giáo pháp để giúp người. Giúp người một cách can đảm, tức là không sợ bị hại đến tính mạng của ḿnh, để che chở cho tha nhân thoát khỏi cảnh sợ hăi và áp chế. Giúp người một cách vô vị lợi, tức là không cần họ trả ơn và cũng không cần khoe khoang cho ai biết ḿnh đă giúp người. Đó là phép tu vô úy thí của nhà Phật.

Muốn dưỡng tánh lợi tha, ta đừng bao giờ từ chối một việc lợi ích nào cho tha nhân mà không làm. Từ việc nói lời hợp lư chân thành ḥa ái, thương yêu đùm bọc, tâm ư tươi sáng vui vẻ, trao đổi kiến thức, giúp nhau tôn trọng kỷ luật, có lợi cùng hưởng và hoạn nạn cùng chia, cho đến việc cộng tác với mọi người để làm việc công ích xây dựng xă hội, nhất nhất phải thực hành cho được. Muốn được như thế, ta phải “tự giác để giác tha và tự độ để độ tha.”

- Nhẫn Nhục: Nhẫn nhục là nhịn nhục hay chịu nhục, tức là chịu sự đau khổ tủi nhục mà không nghĩ đến trả thù. Đây là Độ thứ ba trong Lục Độ của nhà Phật đă nói ở phần trên. Người đă có tính nhẫn nhục th́ không bao giờ nóng giận và thù oán. Nhẫn nhục trong nghĩa của nhà Phật không có nghĩa là sợ sệt trước áp lực của cường quyền mà phải nhẫn nhục, không phải v́ muốn danh quyền lợi mà phải nhẫn nhục, và cũng không phải là không biết nhục hay thiếu nhân cách mà nhẫn nhục. Nếu nhẫn nhục như thế th́ cái nhẫn nhục đó là loại nhẫn nhục đê hèn và không đem lại điều tốt mà kẻ nhẫn nhục đó c̣n tự hạ phẩm giá của minh để làm nô lệ cho dục vọng, tham lam, hèn nhát, và ích kỷ, v.v.

Nếu ta nhẫn nhục chỉ v́ mục đích cao quí giống như sự nhẫn nhục của các nhân vật trong lịch sử Trung Quốc như Hàn Tín, Phù Sai, và Câu Tiễn  đă làm để cứu nước và mưu đồ đại sự cho quê hương của họ th́ đó là thứ nhẫn nhục cao cả rất đáng được vinh danh.

Muốn dưỡng tính nhẫn nhục cao quí này ta phải luôn luôn giữ b́nh tĩnh và ḥa nhă trong cử chỉ, hành động, và lời nói. Có như thế ta mới sáng suốt phân biệt lư do tại sao người ta gây phiền hà bực tức cho ḿnh v́ có hiểu được lư do, ta mới dễ dàng tha thứ. Theo lẽ thường t́nh th́ những hạng tiểu nhân không ưa người quân tử và kẻ thất bại ghét người thành công. 

Người đời thường có tính tham lam và tự kiêu tự đại. Nếu có ai làm điều ǵ thiệt đến quyền lợi của ta th́ ta dễ sinh ra tức giận và nếu có người phạm đến ḷng tự cao tự đại của ta th́ ta dễ nổi nóng. Chính v́ thế mà ta phải đề pḥng những tính nóng giận này v́  cổ nhân đă nói: “Giận mất khôn,  một điều nhịn bằng chín điều lành, và giận lên là phát cơn điên, kẻ khôn hóa dại người hiền hóa ngu.”  Nếu ta nhịn được th́ tai họa sẽ tiêu tan và nhịn được th́ đại sự mới thành công.

- Hỷ Xả:  Hỷ có nghĩa là vui mừng khi thấy người ta thành công. Xả là bỏ đi, buông thả để giữ ḿnh cho ngay chính và giúp cho tha nhân được thoải mái. Hỷ xả là hai hạnh trong tứ vô lượng của nhà Phật: từ, bi, hỷ, và xả. Người ta hay nói hai hạnh hỷ và xả chung với nhau v́ chúng có tương quan mật thiết với nhau. Muốn được vui (hỷ), ta phải bỏ đi (xả) những điều không tốt do người khác đă làm cho ta. Nếu ta không bỏ đi những điều ngang trái th́ ta không thể nào làm cho người và cho chính ḿnh vui được.

Muốn dưỡng tánh hỷ xả, ta cần phải khoan dung, độ lượng, và tha thứ những lỗi lầm của tha nhân. Nếu có ai nói điều vu khống cho ta và rắp tâm muốn hại ta, ta cũng nên tha thứ và tự nhủ là họ đáng thương hơn đáng trách v́ họ kém hiểu biết, thiếu giáo dục, và không có hoàn cảnh học hỏi để hiểu những điều hay lẽ phải nên họ u mê tăm tối. Họ là người đáng tội nghiệp.

Hỷ xả không những giúp được người mà c̣n giúp cho chính ta được thoải mái tinh thần lẫn thể xác. Ta sẽ ngủ ngon, an vui, và dồn th́ giờ vào viêc tu tâm dưỡng tánh ngơ hầu giúp dân cứu nước đắc lực hơn. Đấy là nói về “hỷ xả” với bạn bè, những người cùng trong một tổ chức và cùng một chế độ với ta, tức là những người không phải là kẻ xâm lăng và kẻ thù của ta. Điều này có nghĩa là ta không thể “hỷ xả” đối với phường hại dân hại nước, phản phúc, và phản quốc  như bonï Việt Cộng và lũ Cộng nô được v́ “hỷ xả” với tụi này tức là ta đồng lơa với những kẻ tội phạm để làm hại dân, hại nước, và hại cả nhân loại.

Theo tinh thần nhà Phật, làm lợi cho một nhóm người mà hại cho cả nước và hại cho cả nhân loại là điều đại ác vậy. Hại cho một nhóm người mà cứu được toàn thể chúng sinh là một điều đại thiện. Nếu bất đắc dĩ ta phải trừ khử một kẻ ngoan cố và không phục thiện để cứu toàn dân th́ đó là hành động của vị Bồ Tát vậy.

- Thanh Tịnh: Thanh tịnh có nghĩa là trong trẻo, sạch sẽ, và yên ổn. Trái nghĩa với thanh tịnh là bợn nhơ, ô uế, và vọng động. Theo nghĩa của nhà Phật, thanh tịnh có nghĩa là giữ trong sạch cả về thân, ư, và lời nói. Ngoài ra, muốn đạt tới thanh tịnh một cách viên măn, ta phải giữ giới hạnh làm sao cho lục căn, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, đều trở nên thanh tịnh. Tóm lại, thanh tịnh của nhà Phật là sạch từ bên ngoài tới bên trong, từ thể chất đến tinh thần, và từ lời nói, cử chỉ, đến việc làm.

Muốn dưỡng tánh thanh tịnh, ta cần giữ cho ư nghĩ trong sáng, xua đuổi các ư nghĩ xấu xa đen tối, làm việc theo lẽ công chính, ăn nói cho ḥa nhă, dẹp bỏ mọi tị hiềm và tính bè phái, hành động theo tinh thần bác ái vị tha, cũng như sống cuộc đời giản dị, vệ sinh, điều độ, và ngăn nắp. Chính v́ thế mà thanh tịnh c̣n có nghĩa là an lạc, thanh khiết, thành tựu, và viên măn.

Trong trường hợp bị đắm ch́m trong lục dục và khó thoát ra được, tức là ta bị sáu cái ham muốn làm cho điên đảo do lục căn, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, hợp với lục trần, tức là màu sắc h́nh dáng, âm thanh, mùi hương, mùi vị, cảm giác, và nhận thức, mà sanh ra, ta phải cố công luyện tập theo phép nhị không của nhà Phật để đạt tới thanh tịnh. Nhị không là hai lẽ không: ngă không và pháp không.

* Ngă không là không có thực ḿnh, tức là thân ḿnh chỉ là do tứ đại giả hợp mà thành. Thân tâm ta là do ngũ uẩn hiệp lại mà thành. Ngũ uẩn là năm cái nguyên tố hiệp lại làm thành thân thể và tâm thần người ta: sắc uẩn là vật chất hay xác thịt, thụ uẩn là cảm giác hay cảm xúc, tưởng uẩn là tư tưởng, hành uẩn là hành vi, và thức uẩn là ư thức.

* Pháp không là không có sự vật. Vạn vật chỉ do nhân duyên hợp lại mà thành và nhân duyên ly tán là hết. Nếu ta quán triệt được như thế th́ thân, ư, và khẩu của ta sẽ trở nên thanh tịnh một cách viên măn.

- Tinh Tấn: Tinh tấn là bền chí và cương quyết tiến tới để tu tập các điều tốt và đoạn tuyệt các tật xấu. Tinh là chuyên cần và tấn là tiến tới. Ta cần tinh tấn để tránh phiền năo khi nó chưa xảy ra, lướt qua phiền năo khi nó đă phát khởi, khai mở các việc thiện mà ḿnh chưa có, cũng như duy tŕ và phát triển các tính tốt việc tốt mà ḿnh đă có.

Muốn dưỡng tánh tinh tấn, ta phải đề pḥng tính hấp tấp nóng nảy và tính háo thắng trong khi làm việc giúp dân cứu nước. Chỉ v́ nóng nảy, hấp tấp, và háo thắng, ta có thể thất bại trong công việc. Nếu nóng nảy, hấp tấp, và háo thắng, ta sẽ chóng nản và bỏ cuộc khi gặp các khó khăn trở ngại. Làm việc ta phải tuần tự nhi tiến, chuyên cần cũng như quyết chí tiến tới, và cố gắng thêm măi đến khi ta đạt được mục đích mới thôi.

- Kiên Chí: Kiên chí là giữ cho ư chí vững vàng, bền bỉ, dẻo dai, và quyết tâm làm việc cho tới thành công mới thôi. Có kiên chí ta mới làm được việc lớn. Tinh tấn chủ về nỗ lực tiến tới và cố gắng làm việc không chùn bước. C̣n kiên chí là thường xuyên và liên tục cố gắng không có ǵ làm cho ḿnh ngă ḷng. Muốn dưỡng tánh kiên chí, ta cần hiểu rằng “đường đi khó không khó v́ ngăn sông cách núi mà do ḷng người ngại núi e sông.” Đă có mục đích đi tới, ta cần nhẫn nại kiên tŕ không đổi ư, từ từ mà làm, và tuần tự mà tiến th́ thế nào ta cũng thành công.

Nếu có bị người chê bai hay có người t́m cách phá hoại công việc của ta đang theo đuổi, ta lại càng phải thận trọng, cố gắng hơn nữa, và chịu đựng bền bỉ hơn nữa để trả lời họ bằng cách hoàn thành công việc cho mỹ măn. Nếu đă chọn đúng mục đích ta theo đuổi, bằng bất cứ giá nào ta cũng phải hoàn thành mục đích đó và tâm niệm rằng “dù ai nói ngả nói nghiêng th́ ta cũng vững như kiềng ba chân, dù ai nói đông nói tây th́ ta cũng vững như cây giữa rừng.” Đó mới đích thực là kiên chí.

VII. Kết Luận 

Cách mạng bản thân thật là khó. Chính v́ thế mà có nhiều phương pháp để ta học hỏi giúp cho việc cách mạng bản thân.

Việc tu thân của Nho Giáo chủ ở sự hiểu biết tường tận cùng tính thành ư và chánh tâm. Nó rất ích lợi cho những ai theo đuổi công cuộc cách mạng giúp dân cứu nước.

Truyền thống vuông tṛn của tổ tiên ta lại c̣n siêu việt hơn. Nó thật là thực tế và khoa học trong việc giúp ta điều khiển guồng máy xă hội một cách hữu hiệu.

Những đức tích căn bản của người lănh đạo các tổ chức chánh trị như trung tín, kiên tŕ, cẩn mật, thông minh tháo vát, và can đảm là những bí quyết để lănh đạo tổ chức đi đến thành công.

Chủ trương “tự lập quốc dân” của cụ Phan Bội Châu chính là kim chỉ nam cho toàn dân Việt và nhất là cho những ai muốn làm cách mạng giúp dân cứu nước để noi theo. Thật là tủi hổ cho quân Cộng Sản Việt Nam khi chúng rước quân Tàu quân Nga về giầy xéo quê hương để tàn sát đồng bào và đưa toàn dân “xuống hàng chó ngưa” mà miệng chúng vẫn gian manh nói là có độc lập, tự do, và hạnh phúc.

Tự lập không có nghĩa là không cần nhờ vả ai. Tuy nhiên, ai cũng cần “tả phù hữu bật.”  V́ thế, tự lập ở đây có nghĩa là lấy sức ḿnh làm chính và trông cậy vào phương tiện của ḿnh làm căn bản trước khi khởi sự làm việc ǵ. Sự trợ giúp của ngoại nhân chỉ là phụ, có càng tốt mà không có cũng không sao. Nếu trước khi khởi sự mà chỉ ḥng trông vào việc giúp đỡ của ngoại nhân là chính, ta sẽ vĩnh viễn làm nô lệ cho ngoại nhân mà thôi.

Việc tu tâm dưỡng tánh của nhà Phật thật là cao quí và bổ ích cho chúng sinh, nhất là đối với những vị tu hành để độ ḿnh độ người. Tuy nhiên, việc “tu tâm chúng sanh” và “dưỡng tánh Phật” này nặng tính cách giáo dục tôn giáo hơn là giáo dục con người thế tục.

Việc đời phức tạp hơn việc đạo. Nếu mọi người theo đúng như tinh thần từ bi hỷ xả của nhà Phật th́ thế gian đă là cơi niết bàn từ lâu rồi. Nếu mọi người đều làm được như lời Phật dạy là vượt lên trên thiện ác, không phân biệt người lành kẻ ác mà phải thường hành b́nh đẳng th́ thế gian này chẳng bao giờ có hận thù và chiến tranh. Đức Phật đă phán rằng: “Nếu có người chặt cánh tay ta và có người băng bó cánh tay cho ta, ta chẳng thương và chẳng ghét ai.” Thật là siêu phàm vậy. Chỉ có Phật mới làm được mà thôi.

Luật pháp thế gian và thường t́nh của con người là phải phân biệt thiện và ác để trừng trị những kẻ phạm pháp và khuyến khích cũng như tưởng thưởng những người làm điều thiện. Điều tốt nhất là ta phải rút tỉa lấy cái hay của Đạo Phật và cái hay của luật pháp tại các nước có chánh phủ tôn trọng tự do dân chủ và nhân quyền để làm cho đời thêm tươi đẹp.

Trong tất cả các cách tu thân nêu trên không có điều nào trực tiếp đề cập đến chữ hiếu. Tuy nhiên, nếu để ư kỹ, ta thấy trong việc tu thân của Nho Giáo có bao trùm chữ hiếu trong đó; trong tính vuông tṛn của tiền nhân cũng có hiếu ở trong đó; trong tính trung tín cũng có hiếu ở trong; trong tánh từ bi, trí huệ, lợi tha, nhẫn nhục, thanh tịnh, tinh tấn, và kiên trí đều có hiếu ở trong, và cuối cùng tính tự lập cũng là hiếu vậy. Con cái mà tự lập được để giúp dân cứu nước là đại hiếu vậy. Người có hiếu chắc chắn là người có ích cho xă hội. Người đă có hiếu mà làm cách mạng giúp dân cứu nước th́ chắc chắn họ phải thành công.

Cổ nhân có nói “Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên,” nghĩa là trong trăm nết tốt của con người th́ hiếu đứng đầu. Hiếu là rường cột của mọi nết ăn ở trên đời. Kẻ bất hiếu th́ không thể thành nhân được dù trong hiện tại có gặp may mà giầu có quyền uy. Cái giầu có quyền uy đó chỉ là sương buổi sớm hay bọt trên mặt biển. Muốn trở thành con người hữu ích cho xă hội, trước nhất ta phải là người con có hiếu thảo v́ nếu cha mẹ ḿnh mà ḿnh không thương yêu và phụng dưỡng th́  c̣n giúp ích cho ai được.

Việc chính yếu của cách mạng bản thân là phải “hành.” Các phương pháp tu thân nói ở trên phần đông ai cũng biết, đôi khi c̣n biết nhiều hơn thế nữa, nhưng đă mấy ai thực hành cho đến nơi đến chốn những điều ḿnh biết đâu. Biết mà không thực hành đúng với điều ḿnh biết để giúp dân cứu nước th́ cũng thành vô ích mà thôi. Cổ nhân thường nói là học hành, tri hành, và tu hành. Phần đông người ta đều có học, có tri, và có tu nhưng thiếu hành nên từ việc đời đến việc đạo của chúng ta không đi đến chỗ hanh thông và viên măn được.

Tu tâm dưỡng tánh để độ ḿnh và độ người, tự giác để giác tha, chứ không chỉ độ cho ḿnh và tự giác mà thôi. Những người có tài có đức phải đem cái tài cái đức đó ra giúp dân cứu nước mới hợp với đạo lư làm người. Nếu không, họ chỉ là loài vô dụng, c̣n thua kém đất đá cỏ cây vậy.

Có kiến thức rộng phải phổ biến kiến thức đó cho đời học hỏi mới là thượng sách. Nếu chỉ lo cho ḿnh để vinh thân ph́ gia th́ con người quả c̣n kém loài ong loài kiến vậy. Loài ong loài kiến biết hợp quần để tương trợ nhau.

Có những người không học không tu mà hành vẫn có kết quả v́ người ta học trong khi làm, nghề dạy nghề là vậy. Thế mới hay cái hành là điều chính yếu đành rằng có học có tu th́ hành mới có kết quả như ư muốn. Nhưng nếu có học, có tri, và có tu mà không có hành th́ thật là điều đáng buồn và đáng hổ thẹn vậy.

Nếu mọi người đều tu học và thực hành theo các phương pháp cách mạng bản thân nêu trên, chắc chắn đất nước Việt chúng ta không thiếu những người có ḷng vị tha, chí công vô tư, dễ tính, chịu khó thực hành những điều phải, trung tín, từ bi hỷ xả, tự lập, thành ư chánh tâm, ăn ở với nhau một cách vuông tṛn, không ghen tị, không cậy công cậy của, không hám danh tham quyền chuộng lợi một cách bất chính, và nhiên hậu không cam tâm làm Cộng nô như những bọn ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ giúp dân giải trừ chế độ xâm lăng Cộng Sản ở quê nhà trong một tương lai gần đây.

Một khi đă cách mạng được bản thân th́ việc làm cách mạng giúp dân cứu nước không phải là việc khó. Được như thế th́ chúng ta ngẩng lên không thẹn với trời và cúi xuống không xấu hổ ḿnh và với người.

Luận Về Nhân Bản 

 

I. Nhân Bản 

"Nhân bản" là một quan niệm lấy con người làm gốc cho mọi sinh hoạt xă hội, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, chính trị, và pháp luật, v.v. Con người tạo ra xă hội, do đó con người phải nắm vai chủ tể xă hội và đồng thời có nhiệm vụ tham dự và đóng góp khả năng của ḿnh để duy tŕ và phát triển xă hội. Con người ở đây có nghĩa là tập thể những người sống trong một xă hội chứ không phải là thiểu số cá nhân ưu thắng thống trị hay ngụy trang dưới danh nghĩa tập thể của bọn Cộng Sản. Con người sống trong xă hội độc tài Cộng Sản chỉ là thứ công cụ phục vụ một thiểu số cá nhân thống trị.

Ngay cả trong xă hội Âu Mỹ, người ta đang áp dụng thứ dân chủ h́nh thức mà bề ngoài trông có vẻ  y tuồng là dân chủ. Con người trong xă hội Aâu Mỹ cũng chỉ là thứ công cụ nhưng họ c̣n có chút nhân phẩm và có chút nhân quyền. Sở dĩ các nước Âu Mỹ c̣n đứng vững được là nhờ họ thừa hưởng nếp dân chủ trong mấy trăm năm nay. Tuy nhiên, nếp dân chủ h́nh thức này có nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như chính sách của quốc gia đều do các nhà tư bản chi phối, những người muốn ra nắm quyền quốc gia đều phải giầu có mới có thể ra tranh cử được.  Các phương thức giải quyết nào, nếu có, cũng chỉ là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp quyền lợi các phe nhóm mà thôi. Nền dân chủ h́nh thức này cũng không đáp ứng được nhu cầu của con người, tức là phúc lợi hiện thực của toàn thể mọi người trong xă hội, th́ sớm muộn ǵ nền dân chủ h́nh thức Âu Mỹ cũng phải suy tàn.

Con người có hai nhu cầu hết sức cấp thiết. Đó là nhu cầu sinh tồn và thăng tiến. V́ thế, con người, tức là toàn dân, phải có quyền năng chi phối và quản trị xă hội để đạt được các nhu cầu  cấp thiết này và tạo điều kiện để nhân phẩm và chân giá trị con người phải được tôn trọng. Đây là điều kiện cốt yếu để xây dựng xă hội nhân bản. 

II. Nhân Bản và Nhân Quyền  

Trong một xă hội nhân bản, mọi sinh hoạt được tiến hành theo lề lối dân chủ nhân bản chứ không phải là thứ dân chủ h́nh thức do một thiểu số cá nhân ưu thắng nắm quyền như trong các xă hội Âu Mỹ hiện nay. Dân chủ nhân bản đặt tầm quan trong ở nguyên tắc dân chủ đồng thuận. Điều này có nghĩa là một khi ư kiến của đa số được phát biểu th́ thiểu số phải vui vẻ đồng ư nghe theo. Không có t́nh trạng phá bĩnh, tẩy chay, hay chống đối. Không ai có quyền phủ quyết cả.

Người đứng ra gánh vác công vụ phải ư thức rơ là ḿnh đang gánh vác nhiệm vụ để phục vụ quyền lợi cho dân chứ không phải là nắm chức vụ để đem lại quyền lợi cho riêng ḿnh hay bè phái ḿnh. Không thể có thái độ kiêu binh, kể công, hay đ̣i đặc quyền đặc lợi trong xă hội nhân bản. Con dân trong xă hội nhân bản đều có trách nhiệm, bổn phận, và quyền lợi ngang nhau. Chính v́ thế mà nhân bản và nhân quyền  luôn luôn gắn liền với con người trong một xă hội nhân bản. Nhân bản có thể được coi là nội công thâm hậu và nhân quyền chính là những chiêu thế để thể hiện nội công thâm hậu đó.  Muốn cho xă hội con người thăng tiến và sinh động, nhân bản và nhân quyền phải có tương giao khắng khít cũng như phải được phát triển song hành và đồng đều.

Trong các nước dân chủ h́nh thức hiện nay, có biết bao phong trào đă đứng lên đ̣i hỏi nhân quyền. Ở Âu Mỹ, v́ theo thứ dân chủ h́nh thức nên họ đă quá chú trọng tới nhân quyền mà coi nhẹ phần nhân bản. Chính v́ thiếu sự gắn bó tương quan giữa nhân bản và nhân quyền nên nền dân chủ h́nh thức Âu Mỹ tuy có vẻ lôi cuốn, nhưng chắc chắn sẽ có ngày suy thoái. Ở xă hội Đông phương, người ta có tinh thần nhân bản là nhờ thừa hưởng nền triết học lâu đời của Tam Giáo (Phật, Lăo, và Nho,) , nhưng nhân quyền lại bị coi nhẹ. V́ thế mà xă hội Đông phương của chúng ta bị lạc hậu và con người chỉ là một công cụ.

Muốn có một xă hội nhân bản, ta cần phải có cuộc cách mạng xă hội nhân bản để giúp cho tinh thần nhân bản đă sẵn tiềm tàng ở con người Đông phương có cơ hội phát triển. Song song với cách mạng xă hội, con người cũng cần được giáo hóa và tự tu để phát triển nhân tính, làm chủ được vật tính, và nhiên hậu hoằng dương được nhân quyền và nhân bản.

III. Xă Hội Nhân Bản  

Xă hội nhân bản là xă hội trong đó phúc lợi hiện thực của toàn thể mọi người phải được đảm bảo và cuộc sống chung phải do mọi người góp sức tạo thành. Xă hội nhân bản không đ̣i hỏi sự hy sinh quá đáng của bất cứ ai ở hiện tại cho một xă hội bánh vẽ tương lai. Bọn Việt Cộng đă đưa bánh vẽ xă hội chủ nghĩa để bắt toàn dân hy sinh đến độ "xuống hàng chó ngựa." Ai muốn hy sinh công sức để đóng góp cho xă hội nhân bản là do tự ư ḿnh t́nh nguyện mà thôi. Xă hội nhân bản phải xây dựng bằng công tŕnh đóng góp tích cực và tự nguyện của mỗi người dân qua sự học tập cải tiến, qua tri hành hợp nhất, và bằng nguyên tắc dân chủ đồng thuận.

Tóm lại, trong một xă hội nhân bản, toàn dân phải được nh́n nhận có giá trị cao hơn cả, tức là người dân được quư trọng nhất đúng như quan niệm triết học của thầy Mạnh Tự  đă chủ trương: "dân vi quư,   quân vi khinh."  Nhân quyền phải được tuyệt đối tôn trọng. Con người có quyền thoát khỏi mọi áp lực của thiên nhiên, siêu h́nh, và định chế xă hội. Người dân phải thực sự có cơ hội đồng đều để hưởng phúc lợi hiện thực cũng như để đóng góp tài năng của ḿnh vào việc xây dựng xă hội.

Muốn xây dựng một xă hội nhân bản, chúng ta phải thực hiện được các nguyên tắc sau:

- Luật pháp của xă hội nhân bản phải thực sự đảm bảo nhân quyền và dân quyền cho mọi người dân trong xă hội. Mọi người đều phải có cơ hội đóng góp và hưởng thụ theo với nhu cầu hiện thực. Muốn được như thế, nền dân chủ nhân bản phải được tuyệt đối phát triển, phương thức dân chủ đồng thuận phải được nghiêm chỉnh áp dụng, và chủ trương nhân quyền phải được triệt để thi hành. Quyền tự do cá nhân và tập thể phải được tôn trọng. Điều này có nghĩa là quyền tự do cá nhân không thể phương hại đến quyền tự do và an sinh của tập thể và ngược lại.

- Những trường chuyên nghiệp có các chương tŕnh huấn nghiệp ngắn hạn và thực dụng phải được khuyến khích để giúp người dân có công ăn việc làm xứng đáng.

- Các chương tŕnh lành mạnh vui tươi về giải trí, truyền thanh, truyền h́nh, báo chí, văn nghệ, và thể dục thể thao phải được triệt để nâng đỡ và phát triển theo tinh thần nhân bản.

- Những kẻ phạm pháp phải được giáo hóa và có cơ hội làm lại cuộc đời. Muốn được thế, những trung tâm chỉnh huấn và hướng nghiệp phải được phát triển theo với nhu cầu của từng giai đoạn.

- Những nhân tài phải được trọng dụng xứng đáng theo với khả năng của họ. Giáo dục tiểu học và trung học đệ nhất cấp phải là chương tŕnh cưỡng bách giáo dục với sự giúp đỡ đầy đủ của chính quyền địa phương và trung ương. Phong trào khuyến học phải được giúp đỡ đến nơi đến chốn để mọi người dân đều có thể biết đọc biết viết. Các thư viện cho người lớn và trẻ em phải được mở ra ở khắp nơi để đáp ứng nhu cầu học hỏi của quảng đại quần chúng.

- Các tạp chí chuyên nghiệp dành cho mỗi ngành nghề phải được khuyến khích và giúp đỡ trong việc phát hành hầu tạo điều kiện cho các chuyên viên có phương tiện tiến tu nghề nghiệp.

- Chương tŕnh y tế vệ sinh pḥng ngừa và chữa trị phải được phổ biến để giáo dục mọi người. Y tế pḥng ngừa phải là chương tŕnh cưỡng bách cho toàn dân. Cải cách môi sinh, trong đó có nước uống, không khí, cống rănh sông hồ, đường sá lưu thông, xe cộ, cây cỏ, đất đai, rừng núi, công viên, nhà cửa, v.v. phải luôn luôn được chăm nom, cải tiến, và bảo vệ để bảo đảm đời sống trong lành, mạnh khỏe, và vui tươi cho dân chúng và gia súc cùng chim muông.

- Chương tŕnh an sinh xă hội phải được nghiên cứu sao cho mọi người dân có cơ hội thụ hưởng đồng đều, hợp lư, và công bằng.

- Sự giao dịch giữa những người trong xă hội phải được nuôi dưỡng và khuyến khích trong tinh thần tín nghĩa, tương kính, tương thân tương ái, tương trợ, và tri hành hợp nhất một cách cụ thể và thực tiễn.

 

IV. Học Đường Nhân Bản

Trong môi trường học đường nhân bản, học sinh phải được coi trọng. Nhà trường phải t́m mọi cách để giáo dục và phục vụ học sinh trong tinh thần nhân bản. Con em chúng ta là rường cột của xă hội sau này. Muốn tạo một xă hội nhân bản có cơ sở vững vàng, ta phải xây dựng nhà trường nhân bản trước đă.  Sau đây là những nguyên tắc chúng ta cần phải t́m hiểu và thực hiện để xây dựng một học đường nhân bản:

- Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ. Trẻ em có một nhân vị riêng, có quyền sống và thăng tiến theo các đặc tính của từng lứa tuổi. Mỗi lứa tuổi có nhu cầu phát triển riêng về các phạm vi trí tuệ, thể xác, xă hội, và t́nh cảm một cách đồng đều và song song. Giáo dục phải đáp ứng đúng nhu cầu của mỗi trẻ và mỗi lứa tuổi. Tùy theo trẻ, tùy theo lớp tuổi, và tùy theo địa phương để soạn thảo chương tŕnh giáo dục riêng. Không thể bắt trẻ tuân theo những ǵ người lớn muốn, tuy nhiên người lớn phải tạo điều kiện cho chúng có cơ hội chọn lựa những ǵ cần học hỏi theo với năng khiếu và sở thích của chúng.

- Phụ huynh, thầy cô, nghị viên, đại diện các cơ quan, các tổ chức hội đoàn, đại diện chính quyền, cùng đại diện các cơ quan giáo dục phải  cộng tác trong việc soạn chương tŕnh giảng dạy và tuyển chọn các sách giáo khoa cho mỗi cấp lớp. Từ bậc trung học trở lên, phụ huynh, đại diện học sinh ở các lớp, các phân khoa, cũng như đại diện các hăng xưởng công kỹ nghệ liên hệ phải được mời đến để tham khảo ư kiến trong việc soản thảo chương tŕnh giáo dục. Chương tŕnh phải khả dụng phù hợp với hoàn cảnh và con người địa phương, tinh thần dân tộc, và nhu cầu của đất nước trong khi vẫn theo kịp sự  tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại của nhân loại.

- Sự cộng tác tích cực của phụ huynh với nhà trường phải được nâng đỡ và phát triển về mọi mặt.

- Thầy cô cần phải được tu nghiệp định kỳ và được khuyến khích để đạt được các công tŕnh nghiên cứu có giá trị cũng như được giúp đỡ để lấy thêm các chứng chỉ hay văn bằng chuyên môn có liên hệ  tới môn giảng dạy.

- Lương bổng của giáo chức phải được trả căn cứ vào khả năng chuyên môn nghề nghiệp chứ không được căn cứ vào cấp lớp giảng dạy. Điều này có nghĩa là nếu một nhà giáo có tiến sĩ về âm nhạc mà dạy âm nhạc ở bậc tiểu học, trung học, hay đại học th́ nhà giáo này phải được trả lương giống nhau, tức là trả lương theo khả năng và cấp bằng chuyên môn chứ không căn cứ theo việc dạy ở bậc tiểu học, trung học, hay đại học.

-  Mọi sinh hoạt ở học đường từ việc học tới việc quản trị phải được tất cả ban giảng huấn, nhân viên, phụ huynh, và học sinh tích cực đóng góp ư kiến và tham gia.

- Chương tŕnh giáo dục phải nhằm đạo tạo học sinh thành con người với nghĩa cao cả của nó chứ không chỉ chú trọng vào  việc giúp học sinnh kiếm tiền hay kiếm việc làm sau khi tốt