b. Tội Ác của Đảng Cộng
Sản Việt
c. Nguyễn Chí Thiện hy vọng:
Sẽ có một ngày con người hôm nay./ Vất súng, vất
cùm, vất cờ, vất Đảng (Sẽ Có Một Ngày)
2. Sử Sách Đă Ghi Tội Ác của
Hồ Tặc và Bè Lũ Tay Sai
a. Nguyễn Sinh Cung: Nguyễn Sinh
Cung là cái tên trong khai sinh của Hồ tặc khi hắn mới
được sinh ra, c̣n các tên sau này của Hồ tặc
như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, và Hồ
Chí Minh đều là tên giả hiệu và tên tiếm đoạt.
Ông bố của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Sắc
đi thi Hội trượt nên mới đổi tên là Nguyễn
Sinh Huy để che cái dốt của ḿnh và đồng thời
cũng đổi tên của các con. Chính v́ thế mà Nguyễn
Sinh Cung có tên mới là Nguyễn Tất Thành.
Hồ tặc có ḷng dạ bất
chính do ông bố truyền cho nên suốt cuộc đời
hắn đều làm chuyện gian manh: làm tay sai cho giặc,
lừa thầy phản bạn, lừa nhân dân, ăn cắp
bút hiệu và bí danh của các nhà cách mạng danh tiếng,
cướp vợ người, cưỡng hiếp gái
tơ, giết người bịt miệng, ăn cắp
thơ văn để làm của riêng cho ḿnh, có con không nhậïn,
giả dối, bất nhân, và bất nghĩa.
b. Nguyễn Tất Thành: Nguyễn Tất
Thành là tên thứ hai của Nguyễn Sinh Cung. Sau này hắn
ta ăn cắp bút hiệu (bí danh) Nguyễn Ái Quốc của
cụ Nguyễn Thế Truyền (Nguyễn Le Patriot) và cụ
Nguyễn An Ninh (Nguyễn Ái Quốc).
Vào đầu thế kỷ 20,
năm 1911, cụ Phan Chu Trinh và Bùi Quang Chiêu sang Pháp t́m
đường cứu nước. Cụ Chiêu là một
nhà trí thức trong Nam hồi đó. Hai cụ cùng với luật
sư Phan Văn Trường, cụ Nguyễn An Ninh, và cụ
Nguyễn Thế Truyền lập ra Hội Người Việt
Nam Yêu Nước.
Vào ngày 3-12-1917, Nguyễn Tất
Thành được phép vào Pháp sinh sống. Nhờ có sự
gửi gấm của bố là Nguyễn Sinh Huy, một bạn
tù của cụ Phan Chu Trinh ở Côn Đảo trước
đó, nên Nguyễn Tất Thành được thu nạp
để hoạt động trong nhóm báo chí của cụ
Phan.
Vào tháng Giêng năm 1919, Nguyễn Tất
Thành được nhóm cụ Phan cử mang “Bản Yêu Sách
8 Điểm” của nhân dân Việt Nam đến dự buổi
họp của các nước đồng minh tại
Versailles ở Pháp. Bản Yêu Sách này do nhóm cụ Phan soạn
thảo và được kư dưới bút hiệu Nguyễn
Ái Quốc. Kể từ đó, Nguyễn Tất Thành chiếm
luôn cái tên Nguyễn Ái Quốc cốt để lấy danh
tiếng và uy tín của các cụ Nguyễn Thế Truyền
và Nguyễn An Ninh khoác lên ḿnh. Quả đúng là cáo mượn
oai hổ.
c. Nguyễn Ái Quốc Giả, Tay
Sai của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản: Nguyễn
Ái Quốc là tên mới của Nguyễn Tất Thành do hắn
ta ăn cắp bút hiệu Nguyễn Ái Quốc của cụ
Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền như đă
nói ở trên.
Vào tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc
giả với bí danh là Lư Thụy đi theo quan thầy Liên
Xô là Borodine đến Quảng Châu, Trung Quốc, để
t́m cách xâm nhập tổ chức Trung Hoa Quốc Dân Đảng
của Tôn Dật Tiên.
Sau khi Tưởng Giới Thạch
nắm quyền điều hành Trung Hoa Quốc Dân Đảng,
ông ta truy lùng Borodine và đồng bọn, trong đó có Nguyễn
Ái Quốc giả. Bọn chúng phải trốn về Liên Sô
vào khoảng tháng 4 năm 1927.
Tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc
giả đă được Nga tuyển làm thành viên Ban Chấp
Hành Trung Ương Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản.
Hắn cùng bè lũ nhận lệnh của Đệ Tam Quốc
Tế thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong thời gian này, Trần Phú được cử làm Tổng
Bí Thư. Vào tháng 10, 1930, Nguyễn Ái Quốc giả nhận
lệnh của Đảng Cộng Sản Nga đổi
tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng
Sản Đông Dương. Sau khi Trần Phú chết, Lê Hồng
Phong lên thay thế làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng
Sản Đông Dưong. Tháng 4 năm 1931, Đảng Cộng
Sản Đông Dương được chính thức công
nhận là một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế
và Nguyễn Ái Quốc giả được Đệ Tam
Quốc Tế Cộng Sản cho phụ trách Vụ
Phương Nam thuộc Bộ Đông Phương Quốc
Tế Cộng Sản.
Chủ ư của Đệ Tam Quốc
Tế Cộng Sản là dùng Đảng Cộng Sản
Đông Dương với quân đánh thuê là lũ Cộng Sản
Việt Nam để xâm lăng và Cộng Sản hóa toàn cơi
Đông Dương.
Những việc Hồ tặc và bè
lũ đă và đang làm từ trước tới nay khiến
chúng lộ nguyên h́nh là những tên tay sai của Đệ
Tam Quốc Tế Cộng Sản.
d. Nguyễn Ái Quốc Giả, Một
Tên Gian Manh: Nguyễn Ái Quốc giả đă mắc tội
giết chồng cướp vợ, cưỡng hiếp và
thủ tiêu cô Nguyễn Thị Xuân, và có con không nhận. Hắn
ta quả là loại gian ác, bạc t́nh, bất nhân, và bất
nghĩa. Khi có đủ thế lực, Nguyễn Ái Quốc
giả đă giết Lê Hồng Phong để cướp
vợ của y là Nguyễn Thị Minh Khai. Quả thật
Nguyễn Ái Quốc giả là tên bất nhân bất nghĩa
và lừa thầy phản bạn.
Trong cuốn Từ Thực Dân Đến
Cộng Sản, học giả Hoàng Văn Chí cho biết
Nguyễn Ái Quốc lừa cụ Phan Bội Châu vào tô giới
của Pháp ở Thượng Hải để bán cho Pháp lấy
10 vạn (100 ngàn) đồng. Hồ tặc quả thực
là tên lừa thầy phản bạn đến chỗ cùng
cực của sự bỉ ổi! Vào ngày 19-5-1941, khi thấy
Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của cụ
Hồ Học Lăm và cụ Nguyễn Hải Thần, thành lập
vào năm 1937, có uy tín đối với người Việt
trong cũng như ngoài nước và ngay cả đối
với người Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc giả cùng
bè lũ đă gian manh thành lập một tổ chức có
tên tương tự là Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Cái gian manh ở
chỗ bọn này chỉ đổi hai chữ Cách Mạng
trong tên hội của của cụ Nguyễn Hải Thần
và Hồ Ngọc Lăm thành hai chữ Độc Lập, phần
c̣n lại tụi này giữ y nguyên như thế. Quả thật
chúng là bọn ma giáo!
Khi thấy cụ Hồ Ngọc Lăm
có bí danh là Hồ Chí Minh (thật) đă qua đời, Nguyễn
Ái Quốc giả muốn mượn uy tín cùng uy danh của
cụ Hồ Ngọc Lăm để làm uy tín và uy danh của
ḿnh. Để đạt được mục đích
này, Nguyễn Ái Quốc giả lại đổi tên là Hồ
Chí Minh để hoạt động kể từ tháng 8
năm 1942.
Con người gian manh th́ từ nhỏ
đă gian manh và làm ǵ cũng gian manh xảo quyệt. Nguyễn
Sinh Cung là một thí dụ điển h́nh trong trường
hợp này. Những tế bào ở tim óc của Nguyễn
Sinh Cung đều là tế bào gian manh, phản phúc, và phản
quốc nên hắn ta mới gian manh, phản phúc, và phản
quốc đến như vậy!
Ngay cả khi bị giam trong khám lớn
Victoria ở Hồng Kông (1932-1933), Nguyễn Ái Quốc giả
cũng ăn cắp những bài thơ của ông già người
Hoa họ Lư để sau này tập đoàn Cộng Sản
Việt Nam cho in và phổ biến thành tập thơ của
Hồ tặc. Đó là tập thơ Ngục Trung Nhật
Kư mà giáo sư Lê Hữu Mục đă viết cả cuốn
sách với nhan đề Hồ Chí Minh Không Phải Là Tác Giả
Ngục Trung Nhật Kư để phơi bày tính gian manh của
Hồ tặc và bè lũ tay sai.
Tính gian manh của Hồ tặc và
của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam đă
đưọc cựu Thủ Tướng Trần Trọng
Kim nói rơ trong cuốn Một Cơn Gió Bụi như sau: “Cộng
Sản chuyên dùng những thủ đoạn quỉ quyệt
nên tuy có thắng lợi mà những người trí thức
ít người theo. Cũng v́ vậy mà họ bài trừ trí
thức và chỉ ưa dùng đàn bà, trẻ con, và những
người lao động là hạng người dễ
khuyến dụ, dễ lừa dối.”
Cựu Thủ Tướng Trần
Trọng Kim c̣n cho biết về thủ đoạn mà Cộng
Sản thường áp dụng như: “Nói dối, đánh lừa,
cướp bóc, giết hại, và tàn phá không kiêng nể ǵ cả
miễn là làm cho người ta mắc lừa hay sợ mà
theo ḿnh là được hoặc để cho được
việc trong một lúc nào đó.”
đ. Hồ Chí Minh Giả Hiệu,
Một Tên Dâm Đăng, Vô Trách Nhiệm, Bất Nhân, Bất
Nghĩa, Gian Manh, và Độc Ác: Đối với Hồ
tặc th́ bất cứ cái ǵ có lợi cho hắn và cho
Đảng Cộng Sản, bất kể liêm sỉ, đều
là tốt cả. Câu chuyện dâm đăng, vô liêm sỉ, vô
trách nhiệm, bất nhân bất nghĩa, và gian manh độc
ác của Hồ tặc được nhà văn Trường
Xuân Triệu Quyết Thắng kể lại trong truyện
ngắn “Tự Gây Nhiều Oan Trái” (phần IV, V, VI trang
123-135) của tác phẩm Cười Chóp Bu Đảng.
Đại ư của phần này như sau:
Vào buổi tối đầu xuân
Tân Mùi (1955), sau khi thất bại trong việc quyến rũ
cô y tá người Thượng mới ngoài 20 tuổi, Nguyễn
Thị Xuân, do bộ hạ của Hồ tặc đưa
vào để “săn sóc sức khỏe” cho hắn, Hồ tặc mới sai bộ hạ cho cô ta uống
thuốc mê để dễ bề cưỡng hiếp.
Cưỡng hiếp cô Xuân xong, Hồ tặc thu xếp cho
cô ta đến ở số nhà 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm,
Hà Nội. Hàng ngày, suốt trong nhiều tháng trời, có một
chiếc xe com-măng-ca chở cô ta vào Bắc Phủ để
Bác giải quyết sinh lư rồi lại đưa cô ta về.
Đến cuối năm 1956, cô ta có thai và sinh ra đứa
con trai.
Việc này làm cho Hồ tặc và
đồng bọn lo lắng v́ nếu để lộ ra
ngoài th́ chiếc áo giấy mà họ đang khoác sẽ bị
rách nát. Sau một buổi họp khẩn cấp, đồng
bọn của Hồ tặc có nhận xét: “Bác là h́nh ảnh
cha già, là thánh mà dân tộc cả ngàn đời nay mới
có, và là mẫu mực của Đảng Tiên Phong. Nếu
mà lại có vợ con th́ e không tiện cho sự nghiệp
giải phóng Miền Nam thân yêu!”
Tên Hoàn, Bộ Tưởng Công An của
Hồ tặc, đă được mật lệnh thủ
tiêu cô Xuân. Trước khi thủ tiêu cô Xuân, tên Hoàn đă lợi
dụng cơ hội để cưỡng hiếp cô ta
trong mấy tháng trời dù cô ta có kháng cự tới đâu
cũng không thoát được tay hắn. Đúng là chủ
nào tớ nấy. Thấy đă có vẻ lộ chuyện,
vào đêm 11 tháng 2 năm 1957, tên Bộ Trưởng Công An
này đă sai thủ hạ dùng chày cao su đánh vào đỉnh
đầu cô Xuân cho chết rồi vứt xác cô ra vệ
đường cho ô tô cán thêm. Sau đó, công an giao thông
đă lập biên bản cho rằng cô Xuân chết là do xe
đụng, xe gây tai nạn bỏ chạy có bảng số
SS thuộc xe biên chế trong Bắc Phủ...
Sau khi cô Xuân bị giết, người
con trai mà cô ta có với “Bác” được cho đi làm con
nuôi thiên hạ, hết Nguyễn Lương Bằng rồi
đến tướng Chu Văn Tấn chia nhau nuôi. Cứ
như thế cho đến năm 1969, khi Hồ tặc chết
th́ cậu bé cha không nhận mẹ bị giết này lại
được tên thư kư Vũ Kỳ nuôi dưỡng và
đặt tên cho cậu bé là Vũ Tất Trung. Hiện cậu
ta vẫn c̣n sống ở Hà Nội và đă đổi họ
từ Vũ sang Nguyễn, Nguyễn Tất Trung.
Hồ tặc và bọn thủ hạ
c̣n dùng thủ đoạn độc ác giết chết hai
người em gái của cô Xuân là cô Vàng và cô Nguyệt cùng
khoảng hơn mười người bạn của họ
chỉ v́ những người này biết rơ chuyện dan
díu của cô Xuân với lăo Hồ tặc.
Trong tác phẩm Án Tích Cộng Sản
Việt Nam, tác giả Trần Gia Phụng đă kể rơ
là: “Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở
nơi nào, cũng đều có
bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc
đời hoạt động của ông.” Sau đây là những
cô vợ và nhân t́nh của Hồ tặc có tên tuổi hẳn
hoi: Cô Bourdon (người Pháp), Tăng Tuyết Minh (người
Trung Hoa), Lư Huệ Khanh (người Trung Hoa), Li Sam (người
Trung Hoa), Nguyễn Thị Minh Khai (người Việt, vợ
của Lê Hồng Phong, một “đồng chí” của Hồ
tặc), Đỗ Thị Lạc, tức Thuần (người
Việt ở Cao Bằng), Nông Thị Xuân hay Nguyễn Thị
Xuân (người Việt ở Cao Bằng), và Nguyễn Thị
Phương Mai (người Việt ở Thanh Hóa). Ngoài ra
tên Hồ tặc c̣n có thêm vợ người Nga, nhân t́nh
người Tàu, người vợ Tàu ở Quảng
Đông.
Tên Hồ tặc gian dâm như thế
mà hắn ta cùng với đảng Cộng Sản đều
che dấu việc kết hôn để lừa bịp trắng
trợn mọi người. Điều tệ hại
hơn nữa là tên Hồ tặc rất tàn bạo và dă man
với những người đă ăn nằm với hắn
ta. Hồ tặc c̣n chủ
trương giết các người vợ và nhân t́nh của
hắn ta cũng như những người biết chuyện
gian dâm của hắn ta để bịt miệng họ
Giết người bịt miệng
là chính sách của Hồ tặc và bè lũ cộng sản
Việt Nam. Hồ tặc xuất thân đă là kẻ làm tôi
tớ cho Tây, Nga, và Tàu. Bản chất của Hồ tặc
là kẻ lưu manh, tên ăn cắp (đạo danh, đạo
văn, đạo uy tín), dâm đăng, vô trách nhiệm (có con
không nhận), và lừa thầy phản bạn. Hồ tặc
quả đúng là một tên ngụy, cái tên mà hắn ta gán
cho người Miền Nam chúng ta.
Trường hợp của bà Nguyễn
Thị Hiệp, người Canada gốc Việt, bị tụi
Việt cộng giết cũng ở trong trường hợp
Cộng Sản giết người bịt miệng. Chính tụi
Cộng Sản Việt Nam chủ trương buôn thuốc
phiện lậu để làm kinh tài và đầu độc
nhân dân cho mê muội hầu làm tê liệt ư chí chống Cộng
của quần chúng. Bà Nguyễn Thị Hiệp đă bị
chúng lừa để đưa thuốc phiện lậu
ra ngoại quốc làm kinh tài cho chúng. Khi thấy công việc
có thể bị bại lộ th́ bọn cướp biến
thành quan ṭa và gái đĩ bàn chuyện chính chuyên cho nên bà Hiệp
mới bị chúng biến thành vật tế thần.
e. Hồ Tặc và Bè Lũ đă
Ăn Cướp Thành Quả Cách Mạng của Chính Phủ
Quốc Gia Trần Trọng Kim và Các Đảng Phái Cách Mạng
Quốc Gia vào Năm 1945: Thể theo lời kêu gọi của
Thủ Tướng Trần Trọng Kim, vào ngày 19-8-1945, Tổng
Hội Công Chức và các đảng phái quốc gia đă tổ
chức một cuộc biểu t́nh khổng lồ ở
công trường Nhà Hát Lớn Hà Nội với khoảng 15
vạn (150 ngàn) người tham dự để ủng hộ
Chính Phủ Lâm Thời Trần Trọng Kim, chúc mừng
độc lập, chống việc Pháp quay trở lại,
và ủng hộ một bức thông điệp của vua Bảo
Đại gửi cho chính phủ các nước lớn trên
thế giới.
Lợi dụng khí thế sôi nổi
của cuộc biểu t́nh và ḷng yêu nước mănh liệt
của toàn dân đang bừng bừng phát khởi sau 80
năm bị Pháp đô hộ, một số cán bộ Cộng
Sản do Xứ Uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo
đă bất thần cằm cờ Việt Minh chiếm diễn
đàn của cuộc biểu t́nh. Tụi chúng báo tin quân
Phát Xít Nhật đă đầu hàng Đồng Minh, vu cáo
chính phủ Trần Trọng Kim làm tay sai cho Nhật, yêu cầu
chính phủ Bảo Hộ Pháp nhường quyền, và kêu gọi
toàn dân ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Chúng c̣n bịa
ra là Việt Nam đă được Đồng Minh giúp
đỡ và sẽ độc lập hoàn toàn. Tụi Cộng
Sản c̣n tung tin để lừa gạt dân chúng là Việt
Minh lên cầm quyền, dân chúng không phải đóng thuế
nữa và được sống hoàn toàn tự do hạnh
phúc. Quả thật là mánh khóe lừa đảo rất hấp
dẫn!
Lúc bấy giờ, Hoàng Đế Bảo
Đại, Thủ Tướng Trần Trọng Kim, các
đảng phái quốc gia, cùng toàn dân không hiểu tí ǵ về
tính gian manh và phản quốc của Hồ tặc và tập
đoàn Cộng Sản Việt Nam. Tụi này c̣n tệ
hơn quân thực dân Pháp và bọn Phát Xít Nhật. Chính nhờ
sự gian manh này mà Việt Minh mới lừa đảo
được mọi người để cướp
chính quyền. Kết quả là Chính Phủ Trần Trọng
Kim và Hoàng Đế Bảo Đại đă cộng tác với
Việt Minh. Ngoài ra, các đảng phái quốc gia cũng cử
người tham gia vào Chính Phủ Lâm Thời rồi Chính Phủ
Liên Hiệp của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Ḥa. Hồ tặc và bè lũ c̣n thâm độc hơn nữa
khi chúng giả vờ tuyên bố giải tán Đảng Cộng
Sản Đông Dương vào ngày 11-11-1945 để thành lập
Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Lê. Thực chất
th́ chúng vẫn là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế
Cộng Sản và buôn dân bán nước cho Nga Tàu.
Chính sự ngây thơ yếu kém này
của các đảng phái quốc gia đă giúp Hồ tặc
thực hiện mục tiêu của chúng là ḥa để tiến
và lùi một bước để tiến ba bước.
Và cũng nhân cơ hội này, trong khi các đảng phái quốc
gia không pḥng thủ, Hồ tặc và bè lũ đă t́m cách bắt
cóc thủ tiêu các lănh tụ cách mạng và cán bộ của
các đảng phái quốc gia để làm tiêu tan các lực
lượng của họ.
Nhà cách mạng Nguyễn Tường
Bách đă nói rơ tính chất cuộc Cách Mạng Tháng 8 trong
tác phẩm Việt Nam Một Thế Kỷ Qua, Hồi Kư Cuốn
Một 1916-1946 như sau: “Cái gọi là cách mạng tháng 8 bất
quá chỉ là một cuộc đảo chính, và cuộc
đảo chính này đă đưa đến một chế
độ chuyên chế tai nạn cho dân tộc, một thời
kỳ bi đát hàng nửa thế kỷ tới nay chưa
kết thúc. Đó không phải là một cuộc cách mạng
dành độc lập v́ lúc đó Pháp đă bỏ chạy,
Nhật đă đầu hàng, chính phủ Bảo Đại
- Trần Trọng Kim là cơ cấu quản trị đất
nước, dân tộc Việt Nam đă độc lập
thực sự... Việc đảng CSVN ngụy biện là
đă đánh đuổi được hai đế quốc
Pháp-Nhật, giải phóng cho dân tộc lúc ấy, chỉ là
một thứ tuyên truyền vô căn cứ để mê hoặc
dân chúng...Thực ra lúc này Pháp đă bị Nhật tước
quyền rồi mà Nhật lại đă đầu hàng
(Đồng Minh).
g. Ngay Từ Buổi Đầu, Hồ
Tặc Đă Rước Quân Pháp Trở Lại Cai Trị
Việt Nam: V́ thế yếu, chính Hồ tặc đă chủ
trương thỏa hiệp với Pháp qua Hiệp Định
Sơ Bộ Pháp Việt 6-3-1946 để tránh cho Đảng
Cộng Sản khỏi tan ră. Ngoài mặt th́ Hồ tặc
cùng bè lũ rêu rao có công đuổi Pháp cứu nước,
nhưng sự thực th́ chúng đă rước quân Pháp trở
lại Việt Nam để mượn tay Pháp sát hại
vô số các nhà cách mạng quốc gia hầu giúp cho Hồ
tặc và bè lũ tồn tại để làm quân đánh
thuê cho Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Đây
là nguyên nhân tại sao Hồ tặc đă vội vă chấp
nhận những điều kiện do đại diện
của Pháp là Sainteny đưa ra và đă kư Hiệp Định
Sơ Bộ với Pháp vào ngày 6-3-1946. Sau đó quân Pháp
đă đổ bộ lên Hải Pḥng và Việt Minh lợi
dụng quân Pháp để tiêu diệt các nhà cách mạng Quốc
Gia cùng đảng phái của họ. Tuy nhiên, khi biết
được thủ đoạn đê hèn của Việt
Minh, quân Pháp không chịu giúp Việt Minh để thanh toán
những người Quốc Gia. Do đó Hồ tặc lại
trở mặt và kêu gọi Toàn Quốc Kháng Chiến chống
Pháp và cuộc chiến tranh đă thực sự bùng nổ
trong đêm 19-12-1946 giữa Pháp và Việt Minh.
h. Vơ Nguyên Giáp Chỉ Là Tên Tay Sai Của
Tướng Trung Cộng Vương Thừa Vũ: Tại
mặt trận Điện Biên Phủ, Tướng Trung Cộng
Vương Thừa Vũ đă trực tiếp chỉ huy
mặt trận này để đánh nhau với Pháp nhằm
mục đích nhuộm đỏ Việt Nam và toàn cơi
Đông Dương. Trong trận Điện Biên Phủ,
thanh niên Việt được huy động thành biển
người để hy sinh đánh thuê cho Trung Cộng.
Tướng Trung Cộng Vương Thừa Vũ đă là
tướng chỉ huy mặt Trận Điện Biên Phủ.
Tất cả vũ khí tối tân và
lương thực đều do Trung Cộng va Liên Xô cung cấp.
Vơ Nguyên Giáp chỉ là bù nh́n và tay sai cho Tướng
Vương Thừa Vũ. Chính Vơ Nguyên Giáp cũng đă tiết
lộ việc này trong dịp kỷ niệm 35 năm trận
Điện Biên Phủ khi hắn viết bài “Quyết Định
Khó Khăn Nhất.” Trong bài này hắn xác nhận là có sự
bất đồng ư kiến giữa hắn và đoàn cố
vấn Trung Quốc. Mặt khác những tài liệu chính thức
ấn hành ở Trung Quốc cũng đă xác nhận về
việc này. Thế mà Hồ tặc và bè lũ vẫn rêu rao
chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng
của Vơ Nguyên Giáp. Thật là nhục nhă!
i. Những Tội Ác Cụ Thể
của Hồ Tặc và Tập Đoàn Cộng Sản Việt
Nam đă Gây Ra: Theo tác phẩm Án Tích Cộng Sản Việt
Nam (Toronto, 2001) của nhà văn Trần Gia Phụng th́ nạn
đói năm 1945 tại Việt Nam không những là do
bọn xâm lăng Pháp và Nhật gây ra mà c̣n do bọn Việt
Cộng làm cho nạn đói này trầm trọng hơn. Bọn Việt Minh Cộng Sản
lúc bấy giờ "khai thác
nạn đói, thừa nước đục thả câu, vừa
để tuyên truyền. vừa
tổ chức ăn cướp lúa gạo để
đem vào mật khu nuôi cán bộ Cộng Sản.” Qua tác phẩm
này, nhà văn Trần Gia Phụng đă phơi bày đầy
đủ tội ác của bọn Quỷ Đỏ Cộng
Sản Việt Nam đối với đất nước
và toàn dân.
Bọn Việt Cộng chủ
trương độc tài đảng trị. Chúng phá hủy
toàn bộ cấu trúc xă hội của Việt Nam về các
mặt văn hóa chính trị và kinh tế để thiết
lập xă hội “xuống hàng chó ngựa” hầu giúp chúng
có toàn quyền đàn áp nhân dân. Chúng c̣n chủ trương
làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng để xâm lăng Việt
Nam. Chúng là loại Việt gian và lũ vong bản. Chính v́ thế
chúng đă chủ trương chiến tranh ư thức hệ,
nhường đất cho ngoại bang, chia rẽ dân chúng,
dùng chính sách bần cùng hóa nhân dân, ngu dân, chận đứng
tài năng, và làm đất nước chậm tiến
để dễ bề thao túng.
Tác giả Trần Gia Phụng kết
luận rằng “Đảng Cộng Sản phản dân nên
dân phải cương quyết chống lại đảng
để sinh tồn. Tinh thần Quốc Gia Dân Tộc bất
di bất dịch là chân lư sáng chói ngàn đời của dân
chúng Việt không thể nào bị đánh bại...chắc
chắn một ngày không xa, quê hương sẽ được
giải thoát khỏi chế độ độc tài Cộng
Sản, chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc sẽ được
phục hồi, và nhân dân Việt Nam sẽ được
tự do, hạnh phú, và phú cường
Vào năm1954, khi kư hiệp định
Geneva, Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản Miền
Bắc đă chuẩn bị thôn tính Miền Nam với ư
đồ nhuộm Đỏ Việt Nam và Đông
Dương. Hồ tặc và tập đoàn Cộng Sản
Hà Nội là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh giết
hại hàng chục triệu người Việt Nam vô tội.
Chúng kư Hiệp Định Geneva 1954 rồi lật lọng,
chúng kư Hiệp Ước Hoà B́nh Ba Lê 1973 cũng để
lật lọng và đem thêm quân vào cưỡng chiếm Miền
Nam.
Đă có người định nghĩa
thế nào là Cộng Sản bằng những từ ngữ
như sau: Cộng sản là đạo tặc, lếu láo,
khoác lác, bịp bợm, giả nhân, giả nghĩa, vô liêm sỉ,
vô gia đ́nh, vô tổ quốc, vô tôn giáo, bàn tay sắt bọc
nhung, vắt chanh bỏ vỏ, đao búa, gian manh, đểu
cáng, tàn bạo, khát máu, bóc lột, vô nhân đạo, bần
cùng hóa nhân dân, phản bội, lật lọng, dối trá,
độc tài, phát xít, sát hại đồng bào, diệt chủng,
dốt nát, háo danh, háo thắng, dụ dỗ, dọa nạt,
cưỡng hiếp, hối lộ, tù đầy, buôn lậu,
bắt mọi người v́ ḿnh, bán nước, buôn dân,
bóp méo lịch sử, phá hoại phong tục và truyền thống,
cướp của, giết người bịt miệng,
ám sát, thủ tiêu, ăn cắp, lừa lọc, mua chuộc,
đổi trắng thay đen, bưng bít, cấm đoán,
vô trách nhiệm, vong ân, bội nghĩa, bạc t́nh, thủ
đoạn, mánh lới, bất tín, bất nhân, bất nghĩa,
bất trung, bất hiếu, vô ngh́, vô lễ, điêu ngoa,
vong bản, phi nhân, độc ác, gian tà, táng tận
lương tâm, mặt người dạ thú, lưu manh, luồn
cúi, năn nỉ, trở mặt, và phản phúc...
Sau khi chiếm được Miền
Bắc vào năm 1954, Hồ tặc và tập đoàn Cộng
Sản Việt Nam đă tiến hành “cuộc cải cách ruộng
đất” để tiêu diệt hàng trăm ngàn địa chủ, phú
nông, và trung nông. Những người này trước đây
đă từng nghe lời dụ dỗ đường mật
của Hồ tặc và bè lũ để cống hiến
tài sản và yểm trợ “cách mạng” cho đến ngày
thành công. Thêm vào đó, Hồ tặc và bè lũ c̣n thủ
tiêu rất nhiều đảng viên của chúng cùng tất
cả những ai có ư chống lại vụ “cải cách ruộng
đất này.” Trong cuốn Án Tích Cộng Sản Việt
Nam, theo tác giả Trần Gia Phụng, số người
bi liên lụy và bị hại trong cuộc cải cách ruộng
đất do bọn Việt Cộng gây ra có thể lên tới
khoảng một triệu người.
Mục đích của Hồ tặc
và tập đoàn Cộng Sản Việt nam trong vụ “cải
cách ruộng đất” là tạo lư do để giết sạch
những điền chủ có ảnh hưởng và quyền
uy đối với nhân dân để chúng thiết lập
chuyên chính vô sản và trao quyền thống trị nông thôn
cho bần cố nông, thành phần đa số trong xă hội
Việt Nam, để chúng dễ lừa bịp tập thể
nông dân chất phác, ngây thơ, và hiền hậu này.
Vào năm 1956, Hồ tặc và bè lũ
lập kế để đàn áp và triệt hạ không biết
bao nhiêu là văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do, dân chủ,
và nhân quyền trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy nhiên, thật
là đau buồn khi thấy chính một số văn nghệ
sĩ trong nhóm này đă phản lại chính cái lương
tri của họ để ca tụng “Bác” và “Đảng.”
Nguyễn Chí Thiện đă dẫn chứng trong bài tham luận
đọc tại Đại Hội Y Sĩ ở Paris 2000
như sau: “Đau buồn nhất là cả các kiện
tướng trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm suốt ba
thập niên bị trói chặt, ngậm đắng nuốt
cay trong cũi sắt, cũng ùa ra để ca ngợi
“đảng,” “bác,” và chế độ, chẳng hạn
như Lê Đạt với tập Trường Ca Bác, Hoàng
Cầm với bài thơ dài 'Nhớ Về Làng Sen,' và Trần
Dần với tập thơ Cổng Tỉnh.” Những
văn nghệ sĩ này quả là một lũ hèn và vô liêm sỉ.
Tội bán nước của tập
đoàn Cộng Sản Hà Nội đă được chứng
minh bằng giấy tờ. Vào năm 1974, Phạm Văn
Đồng kư văn kiện công nhận chủ quyền quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng.
Vào năm 1980, tập đoàn Cộng Sản Việt Nam kư
hiệp ước với Liên Sô trong đó có khoản Việt
Cộng nhường quyền sử dụng hải cảng
Cam Ranh cho Liên Sô.
Ngày 30-1-1968, Hồ tặc và tập
đoàn Cộng Sản đă lợi dụng dịp Tết
Mậu Thân để tấn công toàn cơi Miễn Nam. Trong vụ
này, chúng đă giết và chôn sống không biết bao nhiêu
đồng bào vô tội. Đặc biệt là ở Huế
và Quảng Trị, Hồ tặc và tập đoàn Cộng
Sản đă giết và chôn sống cả trăm ngàn
người dân trong thời gian chúng chiếm đóng ở
đây trước khi bị quân lực VNCH đánh cho không
c̣n manh giáp.
Trong thời kỳ xâm nhập Miền
Nam, Hồ tặc và bè lũ đă ra lệnh thẳng tay
pháo kích bừa băi vào các đô thị và làng mạc đông
người kể cả nhà thương, chợ búa, và
trường học. Chúng giật ḿn những chuyến xe
đ̣ đông khách, những chuyến xe lửa đầy ắp
nhân dân để giết hại không biết bao nhiêu người
dân vô tội. Đặc biệt nhất là chúng pháo kích
trường tiểu học Cai Lậy trong giờ học
làm chết hàng trăm học sinh ngây thơ vô tội.
Khi chiếm được Miền
Nam, tập đoàn Cộng Sản đă gian manh biến cả
nước thành nhà tù để chúng ăn cướp của
cải và nhà cửa của nhân dân. Chúng bắt toàn thể
quân cán chính của chế độ Miền Nam đi tù mút
mùa mà chúng nói là “học tập cải tạo” chỉ trong
10 ngày hay 30 ngày. Thật là đồ gian manh lừa đảo
một cách khốn nạn cùng cực chưa từng có trên
thế gian này kể từ khi khai thiên lập địa
đến nay.
Cách chúng đổi tiền nhiều
lần là h́nh thức cướp của tới tận
xương tủy của nhân dân. Cách chúng đánh tư sản
cũng là h́nh thức ăn cướp giữa ban ngày. Chúng
đầy ải và bóc lột toàn dân Miền Nam bằng
cách bắt họ đi “công trường” làm việc không
công để chúng cướp nhà cướp của mà chúng
gọi là đi kinh tế mới. Ngoài ra chúng c̣n dùng chính
sách hộ khẩu để bóc lột và kềm cặp
toàn dân.
Trong lá thư viết tại cái
thành phố gọi là Hồ Chí Minh ngày 11-6-1995 với nhan
đề “Tuyên Bố Về Một Giải Pháp Hoà Giải
và Ḥa Hợp Dân Tộc,” ông Nguyễn Hộ tố cáo thành
tích trong cuộc “Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước”
của bọn Cộng Sản Việt Nam là đă làm cho 8
triệu dân Việt vô tội phải hy sinh. Tổng số
người Việt chết trong các cuộc chiến suốt
từ 1930 tới 1991 do Cộng Sản Việt Nam gây ra vào
khoảng 12 triệu sinh mạng.
Vào năm 1993, trrong bài “Quan Điểm
Và Cuộc Sống,” Nguyễn Hộ đă thú nhận rằng:
“...chúng tôi đă chọn sai lư tưởng: Cộng Sản
chủ nghĩa. Bởi v́ suốt hơn 60 năm trên con
đường cách mạng Cộng Sản ấy, nhân dân
Việt Nam đă chịu hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối
cùng chẳng được cái ǵ, đất nước vẫn
nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc,
không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục!”
Vào ngày 26-6-2000, Câu Lạc Bộ Sinh
Viên Việt Nam trong nước đă phổ biến trên
internet “Bản Điều Trần Tám Tội Ác mà Bộ
Chính Trị và Đảng Cộng Sản Việt Nam Phải
Trả Lời Trước Dư Luận” như sau:
Một. Tội bán đứng chủ
quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và vùng
biên giới phía Bắc Việt cho Trung Quốc mà không thông
qua ư kiến quốc dân.
Hai. Tội bao che cho các hành vi tham nhũng
và hối lộ của các thành viên cao cấp nhất trong Bộ
Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ba. Tội lợi dụng quyền
lực của Đảng và mưu cầu lợi ích cá nhân
để đem sinh mạng thanh niên Việt Nam hy sinh vô nghĩa
cho các cuộc chiến tranh xâm lăng tại Cambodia và Laos.
Bốn. Tội bao che cho các hành
động buôn bán ma tuư, buôn lậu, băng đảng
cướp giật, cùng tội lộng hành quyền lực
của lực lượng cảnh sát và quân đội
trong nước.
Năm. Tội đàn áp và thảm sát
đồng bào vô tội trong các chiến dịch thanh trừng
những người bất đồng chính kiến trong cũng
như ngoài nước.
Sáu. Tội bắt bớ, bỏ tù
vô cớ, ngụy tạo tang chứng và vật chứng nhằm
mục đích đàn áp phong trào tranh đấu cho Nhân Quyền
trong nước.
Bảy. Tội bế quan tỏa cảng
cùng thực thi chính sách thực dân Cộng Sản và ngu dân
để dễ bề cai trị độc quyền.
Tám. Tội lộng hành quyền lực
và kết bè cánh đảng viên đảng Cộng Sản
để trục lợi ăn chia quyền lợi và tài
nguyên đất nước.
Tại sao tập đoàn Cộng Sản
Hà Nội dám dốc toàn lực để vào xâm chiếm Miền
Nam, đưa quân đi đánh thuê cho Khmer Đỏ, Cộng
Sản Lào, và vùng Đông Bắc Thái Lan? Trong bài tham luận
đọc tại Đại Hội Y Sĩ ở Paris
đă đề cập ở trên, Nguyễn Chí Thiện cho
biết là trong thời gian chiến tranh, ngoài Bắc đă
có 300 ngàn quân Trung Quốc sang trấn đóng. Tất cả
đều đă được Đệ Tam Quốc Tế
Cộng Sản tiến hành với tham vọng nhuộm
Đỏ toàn cơi Đông Dương. Cộng Sản Việt
Nam nhận lệnh thi hành để lập công đầu
với Cộng Sản quốc tế.
k. Chiến Thuật Nước Mắt
Cá Sấu của Hồ Tặc và Tập Đoàn Cộng Sản:
Hồ tặc đă khôn khéo đóng kịch khi khóc lóc nhận
sai lầm và hứa sửa sai trong vụ “cải cách ruộng
đất” mà thực sự chúng chẳng sửa sai ǵ cả.
Hồ tặc đă khôn khéo dùng nguyên tắc đạo
đức để thực hiện ư đồ gian manh,
chẳng hạn như chúng luôn luôn dùng tấm b́nh phong phê
b́nh, kiểm thảo, tự phê, sửa sai, v.v. để
che mắt nhân dân mỗi lần chúng bị nhân dân phản
đối. Việc này đă xảy ra thường xuyên
dưới chế độ Cộng Sản v́ chúng thường
xuyên làm như thế để phù hợp với chủ
trương của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản.
Thủ đoạn của Cộng
Sản Việt Nam là như vậy. Phê b́nh và tự phê b́nh của
Cộng Sản là giải pháp giúp tập đoàn Cộng Sản
lách khỏi hiểm nguy để rồi vẫn tiếp tục
chính sách bóc lột và đầy ải nhân dân xuống hàng
chó ngựa. Chúng lợi dụng ḷng yêu nước của
dân để thu phục rồi lại đàn áp nhân dân, hăm
hại người có ḷng yêu nước chân chính, cùng đầy
ải những người có sĩ khí và liêm sỉ. Chúng
làm toàn chuyện hại dân hại nước để rồi
dùng chiêu bài “khóc lóc, tự phê, sửa sai, hay rút kinh nghiệm”
hầu trốn tránh trách nhiệm để sau đó lại
tiếp tục chủ trương hại nước hại
dân.
l. Tại Sao Hồ Tặc và Tập
Đoàng Cộng Sản Gian Manh Như Thế mà Vẫn Tồn
Tại Cho Đến Ngày Nay? Trong bài tham luận đă đề
cập ở trên, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng
đă trả lời rất rơ ràng là đại đa số
trí thức sống dưới chế độ Cộng Sản
Việt Nam, già cũng như trẻ, đều hèn và dân trí
chúng ta c̣n thấp! Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đă giải
thích lư do tại sao đa số trí thức sống dưới
chế độ Cộng Sản Việt Nam đều hèn
như sau: “Qua nhiều năm sống dưới sự khủng
bố thường trực của 'Đảng,' họ
đă mất hết sĩ khí; nỗi lo sợ và tâm lư an phận
thủ thường đă chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn
họ. Lối sống đầu hàng, khuất phục, nuốt
nhục, nuốt khổ, nịnh bợ, luồn lọt
đă thấm vào tới tận xương tủy của
họ.”
C̣n về mặt dân trí dưới
chế độ Cộng Sản c̣n thấp, nhà thơ Nguyễn
Chí Thiện giải thích như sau: “Ư thức về tự
do và dân chủ c̣n mơ hồ nên chưa thấm thía sâu sắc
nỗi nhục phải sống dưới ách độc
tài, mất hết quyền làm người, nỗi sợ
hăi vẫn c̣n đè nặng lên tim óc, do đó không bật dậy
được và phản ứng quá yếu ớt... V́ trí
tuệ thấp kém nên sự phân hóa bất phục tuy có
nhưng chưa đủ mạnh để phá vỡ Đảng...mà
chỉ làm tŕ trệ rệu ră guồng máy của Đảng
mà thôi. Trong Đảng cũng như trong nhân dân, sự phản
kháng mang tính chất thụ động...Tóm lại, chế
độ toàn trị Việt Nam đă thoát hiểm v́ hai yếu
tố chủ chốt: sự đớn hèn của tầng
lớp trí thức và t́ng trạng thấp kém của dân trí
Việt Nam.”
3. Dân Gian Kết Án Bọn Việt Cộng
Ư dân là ư trời. Toàn dân đă ghê tởm
chế độ Việt Cộng và đă kết án bọn
Việt Cộng bằng dưới
h́nh thức ca dao, vạch trần bản chất của
các cán bộ và bộ độ của bọn Việt Cộng
và cái gọi là Xă Hội Chủ Nghĩa:
a. Ca Dao Dưới Ách Cộng Sản:
Từ khi có đất có trời, không ǵ độc ác bằng
loài Cộng nô. / Đôi dép râu dẫm nt hồn son trẻ,
chiếc mũ tai bèo che khuất nẻo tương lai./ Thi
đua làm việc bằng hai, Để cho cán bộ mua
“đài” mua xe./ Thi đua làm việc bằng ba,/ Để
cho cán bộ xây nhà xây sân. /Ai
sinh thằng Cáo thằng Hồ, để em đói rách tô hô
không quân. Ai sinh thằng Duẩn thành Duân, em đă không quần
nay áo cũng không, Ai sinh thằng Sắt thằng Đồng,
em đă mất chồng nay mất thằng cu. Ai sinh thằng
Khủ thằng Khu, tố chết thằng bác bỏ tù thằng
cha. / Nhân phẩm toàn dân mất sách rồi, chỉ c̣n
lương thực giá cao thôi. Lương tâm giá rẻ hơn
lương thực, chân lư chân gị cũng thế thôi. / Đả
đảo Thiệu Kỳ, mua cái ǵ cũng có. Hoan hô Hồ
Chí Minh, mua cây đinh cũng phải đăng kư.
b. Người Dân Định Nghĩa
“Xă Hội Chủ Nghĩa” Như Sau: Xài Hổng Cho Nghỉ,
Xe Hết Chỗ Ngồi, Xếp Hàng Cả Ngày, Xóa Hết
Chữ Nghĩa, Xuống Hố Cả Nước, Xiết
Họng Công Nhân, Xạo Hết Chỗ Nói, Xuống Hàng Chó
Ngựa, và Xấu Hết Chỗ Nói.
c. Người Dân Đổi Lời
của Bài Quốc Ca Cộng Sản Như Sau: Đoàn quân Cộng
nô đi sao mà gớm thế!/ Bước chân tàn hung trên
đường rập ŕnh ta,/ Liều thân chết chiến
đấu, tha hồ vét,/ Súng Tàu Nga mang giết dân làng ta,/
Đường vô Nam ăn cướp không ngừng,/ Lũ
lưu manh phường lừa gạt cút mau!
d. Sau Khi Cộng Sản Chiềm Miền
Nam, Những Cán Bộ Miền Nam Tập Kết Ra Bắc
Trở Về Than Rằng: “Tước tôi chống Pháp, chống
Nhật, chống Mỹ, bây giờ tôi chống gậy
(ăn mày) kiếm ăn!”
đ. Người Dân Đổi Khẩu
Hiệu của Cộng Sản (Người người
thi đua, ngành ngành thi đua/ Ta nhất định thắng,
địch nhất định thua) Thành: Người
người tham ô, ngành ngành tham ô/ Đảng nhất định
chết, nhà nước nhất định thua!
e. Người Dân Chửi Bộ
Đội và Cán Bộ Cộng Sản: Định nghĩa
chữ “bộ đội”: Bộ đội là đi bộ
từ Bắc vào Nam và đội đồ từ Nam ra Bắc.
Sở thích của bộ đội và cán bộ Cộng Sản
khi vào Miền Nam: đạp, đồng, đài, và đĩ
(xe đạp, đồng hồ đeo tay, radio, và gái đĩ)
Hành động của bộ đội và cán bộ Cộng
Sản khi chúng chiếm được Miền Nam: vào,
vơ vét, về, vui vẻ.
III. Người Quốc Gia và Các
Chính Phủ Quốc Gia Chống Cộng Từ Trước
Tới Nay Hoàn Toàn Có Chính Nghĩa
Cuộc chiến giữa ta với
tập đoàn tay sai Cộng Sản quốc tế, tức
là bọn Việt Cộng, trước năm 1975 và ngay cả
bây giờ tại Việt Nam cũng như ở hải ngoại
không phải là một cuộc nội chiến. Đây là cuộc
chiến giữa tự do dân chủ và độc tài chuyên
chế, giữa chủ quyền dân tộc Việt Nam và sự
xâm lăng của quân Cộng Sản. Cuộc chiến
đấu và vận động của người Việt
hải ngoại để giải trừ chế độ
cộng sản trong nước hiện nay hoàn toàn có chính
nghĩa.
Phần I và phần II đă
được tŕnh bày ở trên chứng tỏ tập
đoàn Cộng Sản Việt Nam, tuy thân xác là người
Việt, đă biến thành loài Quỉ Đỏ từ
trong tâm khảm, hành động, và tư tưởng. Chúng
là quỉ sứ ma vương với đầy đủ
ư nghĩa của chữ Cộng Sản đă được
giải thích ở phần trên chứ không c̣n là người
Việt Nam nữa. Chính phủ Miền Nam Việt Nam đă
dùng chính sách chiêu hồi để đưa bọn chúng trở
về nẻo chánh mà không được.
Cuộc chiến tranh ở Việt
nam là do bọn Quỉ Đỏ gây ra v́ chúng quyết tâm
dùng biện pháp quân sự để nhuộm đỏ Miền
Nam. Dân quân Miền Nam chiến đấu là cốt bảo
vệ đất nước để khỏi rơi vào
chế độ bạo tàn Cộng Sản, nhiên hậu bảo
vệ tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân. Đây
hoàn toàn không phải là cuộc nội chiến.
Chúng ta phải cảnh tỉnh
đề pḥng những luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc sau:
- Có những kẻ ăn cơm Quốc
Gia thờ ma Cộng Sản cho rằng người dân Việt
Nam chỉ là nạn nhân của một hành vi bạo động
quốc tế, chính quyền ở hai miền Bắc Nam chỉ
là công cụ tay sai của hai thế lực Cộng Sản
và tư bản. Nói như thế có khác nào làm tăng giá trị
của kẻ thù tức là quân xâm lăng Cộng Sản và
làm tiêu tan chính nghĩa của người Việt Quốc
Gia trong việc chống lại quân xâm lăng. Nói như thế
có khác nào bảo gái đĩ cũng giống như gái chính
chuyên và quân ăn cướp giống như người bị
ăn cướp.
Sự thực th́ chỉ có bọn
Cộng Sản Việt Nam làm tay sai cho Cộng Sản Đệ
Tam Quốc Tế để xâm lăng Việt Nam. Chúng là bọn
cơng rắn cắn gà nhà và là thủ phạm gây chiến. Lực
lượng Mỹ và đồng minh đến giúp Miền
Nam là để bảo vệ Miền Nam khỏi rơi vào
ṿng nô lệ của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế
cũng giống như Mỹ đă bảo vệ Nam Hàn và
Đài Loan.
- Có kẻ chỉ khuyên ta hỗ trợ
phong trào dân chủ trong nước, vận động giới
trẻ, đồng bào hải ngoại, và chính phủ các
nước hỗ trợ phong trào dân chủ trong nước.
Họ c̣n khuyên chúng ta chuẩn bị về tiếp thu Việt
Nam khi chính phủ Cộng Sản trong nước tự giải
thể. Mới nghe thấy điều này, có người
cho là hữu lư. Tuy nhiên, đây là một thủ đoạn
để giúp Cộng Sản tồn tại lâu hơn. Nó có
tác dụng làm tiêu tan tinh thần chiến đấu của
chúng ta trong việc giải trừ chế độ Cộng
Sản ở quê nhà v́ theo tinh thần lời khuyên này, chúng
ta giữ vai tṛ thụ động chỉ để ủng
hộ, kêu gọi ủng hộ, và ngồi chờ sung rụng
mà thôi. Đây cả là một thủ đoạn gian manh
để làm tiêu tan tinh thành chủ động chiến
đấu tiêu diệt kẻ thù của chúng ta và làm cho chế
độ Cộng Sản ở Việt Nam có thời gian củng
cố để tồn tại.
- Có kẻ c̣n cho là thế hệ trẻ
Việt Nam phải đi lên để dân tộc Việt
Nam cùng đi lên, bỏ lại quá khứ, bỏ lại sau
lưng cái thế hệ già quá nhiều thù hận chất
chồng của cả phía quốc gia lẫn phía Cộng Sản.
Đây cả là một thủ đoạn chủ
trương huề cả làng để làm lợi cho Cộng
Sản. Quân xâm lăng Cộng Sản chính là kẻ tạo
hận thù chia rẽ để chiếm đoạt Miền
Nam trong khi toàn dân Miền Nam lại là nạn nhân của hận
thù chia rẽ do Việt Cộng gây ra.
Chính tụi Cộng Sản đă
làm cho hàng chục triệu người Việt vô tội phải
bỏ mạng, gần ba triệu người phải bỏ
nước sống lưu vong, tám chục triệu người
mất nhân quyền, mất tự do dân chủ, và đang
chịu cảnh đói khổ, đầy ải cả về
tinh thần lẫn vật chất do Cộng Sản gây ra ở
quê nhà. Bọn Cộng Sản Việt Nam đâu có ǵ để
hận thù ta, nếu có chăng là chúng hận ta trong việc
ta vạch trần cái dă tâm làm tay sai cho Cộng Sản Đệ
Tam Quốc Tế để xâm lăng Miền Nam và bóc lột
chúng ta.
Như thế, nếu nói là bỏ lại
quá khứ th́ có phải là họ bao che cho bọn xâm lăng
Việt Cộng và kêu gọi ta tha thứ cho bọn Cộng
Sản để về hợp tác với chúng và giúp chúng tồn tại lâu
hơn không? Thật là một hành động gian manh, phản
phúc, và phản quốc!
- Có kẻ kêu gọi cả Quốc
Cộng đều phải phản tỉnh. Mới nghe
người ta cảm thấy có lư v́ phản tỉnh là
điều cần thiết để tiến bộ. Tuy
nhiên, khi nghe nói cả người Quốc Gia và người
Cộng Sản đều phản tỉnh th́ người
ta hiểu là cả người Cộng Sản và người
Quốc Gia đều là quân tệ hại xấu xa như
nhau nên cần phải phản tỉnh. Đây lại là lối
nói gian manh cho gái chính chuyên và gái đĩ giống nhau, cho
người bị cướp và bị giết giống
như quân cướp của giết người. Lối
nói này đă làm tăng giá trị của bọn Cộng Sản
và làm giảm chính nghĩa của người Quốc Gia với
mục đích là để giúp bọn Cộng Sản Việt
Nam tiếp tục đầy ải nhân dân ta lâu hơn. Thật
là đồ u mê tăm tối, gian manh, phản phúc, và phản
quốc!
- Có kẻ chỉ trích những lỗi
lầm cá nhân của các cấp lănh đạo trong khi điều
hành chế độ Việt Nam Cộng Hoà để xuyên
tạc chính nghĩa quốc gia. Bất cứ chính thể
nào hay các người cầm quyền trong chính phủ ở
bất cứ nơi đâu cũng đều có những
khuyết điểm. Những khuyết điểm của
các nhà lănh đạo Việt Nam Cộng Ḥa chỉ là hạt
cát so với các tội ác tày đ́nh của tập đoàn Cộng
Sản Việt Nam.
Tội tày đ́nh của bọn Việt
Cộng là tội bán nước
và làm tay say cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế
để xâm lăng Việt Nam. Thêm vào đó, chúng c̣n có các
tội tầy trời khác đối với dân tộc Việt
nam như tội tàn sát hàng chục triệu dân Việt, tội
hủy hoại văn hóa và truyền thống dân tộc, tội
bóp méo lịch sử, tội đưa dân đi làm nô lệ
cho các nước, tội phá hoại di tích lịch sử,
tội phá hoại môi sinh,và tội bần cùng hóa nhân dân,
v.v.
Không lên án tập đoàn Cộng Sản
Việt Nam mà lại chỉ đi bêu xấu người Việt
Quốc Gia trong khi chúng ta đang chiến đấu giải
trừ bọn Việt Cộng, những kẻ này quả
đă có chủ ư làm lợi cho bọn Cộng Sản và làm
mất chính nghĩa của người Việt Quốc
Gia.
Miền Nam Việt Nam rơi vào tay
Cộng Sản không phải v́ các chính phủ Miền Nam yếu
kém. Sau khi Mỹ và đồng minh bỏ rơi Miền Nam,
Miền Nam Việt Nam của chúng đă phải chiến
đấu đơn độc với toàn thể khối
Cộng Sản quốc tế, trong đó có Nga Cộng và
Tàu Cộng làm chủ nên mới bị thua. Giả dụ
như các chính phủ của Miền Nam Việt Nam trước
đây đều giỏi và có quân đội hùng mạnh mà
không có sự trợ giúp của các nước đồng
minh do Mỹ đứng đầu th́ cũng đă bị
thua từ lâu rồi. Miền Nam của chúng ta thua không phải
thua tụi Cộng Sản Bắc Việt mà là thua toàn khối
Cộng Sản quốc tế cũng như Pháp thua trận
Điện Biên Phủ không phải thua Vơ Nguyên Giáp và bè lũ
Việt Cộng mà là thua Trung Cộng và Liên Sô. Đối với
Nam Triều Tiên và Đài Loan, nhờ có Mỹ mà Nam Triều
Tiên và Đài Loan mới tồn tại.
Sở dĩ Mỹ bỏ Việt
Nam là v́ họ thay đổi chiến lược toàn cầu
của họ. Trước khi bỏ Việt Nam, họ
đă nắm được Trung Quốc và biết chắc
sẽ nắm được cả Liên Bang Sô Viết và bọn
Việt Nam Cộng Sản ngày nay. Như thế tội ǵ
mà họ phải chiến đấu thêm để tổn
thất nhân mạng một cách vô ích.
Việc Mỹ bỏ Việt Nam
đă giúp toàn dân Việt Nam sáng mắt ra và hiểu rơ bọn
Cộng Sản Việt Nam đểu cáng như thế nào
để sau này khi có cơ hội người dân sẽ loại
trừ tập đoàn Việt Cộng một cách vĩnh viễn
hầu xây dựng Việt Nam thành một nước hùng
cường. Thực tế ngày nay đă chứng minh điều
này. Hiện nay, Nga, Tàu, và Cộng Sản Việt Nam đều
nằm trong bàn tay phù thủy của Mỹ. Trước sau
ǵ chế độ Cộng Sản Trung Cộng và Việt
Cộng cũng bị nhân dân giải thể và Việt Nam sẽ
được hưởng tự do, dân chủ, và nhân quyền.
- Có những kẻ nói là ta cứ
làm việc của ta và đừng có bới móc lỗi lầm
người khác. Điều này mới nghe ta thấy có vẻ
chí lư v́ đối với những người cùng tổ
chức và cùng chiến tuyến, ta nên xây dựng cho nhau chứ
không nên bới móc nhau để làm mất hoà khí và gây chia rẽ.
Nhưng xét cho cùng lư th́ trong phạm vi chính nghĩa quốc
gia và hạnh phúc của toàn dân, đây là thái độ cầu
an và làm hại tập thể.
Đối với những đoàn
thể và những cá nhân chỉ v́ danh quyền lợi bất
chính mà âm mưu trở cờ theo Cộng Sản làm hại
cho chính nghĩa quốc gia và hạnh phúc của toàn dân, nếu
có đủ bằng cớ, ta phải vạch mặt chỉ
tên bọn này để mọi người khỏi mắc
lừa chúng hầu tránh hại cho nhân dân và cho đại
nghĩa. V́ đại nghĩa của dân tộc và v́ hạnh
phúc của toàn dân, chúng ta không thể nhân nhượng với
những kẻ vô liêm sỉ làm tay sai cho Việt Cộng
được. Vạch mặt chỉ tên bọn này là một
việc làm đầy tính cách xây dựng và chính nghĩa, ta
cần phải làm và phải làm cho bằng được.
- Trung tâm William Joiner Center của
trường Đ.H. University of Massachusetts Boston, Hoa Kỳ,
đă thuê một số giáo sư người Mỹ và ba
tên Việt Cộng để tiến hành cuộc nghiên cứu
về những hệ quả
của chiến tranh và xă hội (Study of War and Social
Consequances) với đề tài (Re) Constructing Identity and Place
in the Vietnamese Diaspora (Tái tạo bản chất và vị thế
trong cộng đồng người Việt tản mát kháp
nơi trên thế giới).
Ba tên Việt Cộng này gồm Nguyễn
Bá Chung (một “giáo sư” hoạt
động cho Việt cộng tại đại học
Massachusetts), Hoàng Ngọc Hiến (tên “giám đốc” trường
sáng tác văn học Hà Nội và là một cán bộ lư luận
dạy về chủ thuyết Mác Lê tại Việt Nam),
và Nguyễn Huệ Chi (trưởng
ban lư luận và phê b́nh văn học của Viện Văn
Học Hà Nội).
Nh́n vào thành phần của nhóm nghiên
cứu trên đây, ta thấy rằng dự án nghiên cứu
này được tiến hành theo sự chỉ đạo
của bọn Cộng Sản Việt Nam. Đây là một
điều hết sức tai hại cho chính nghĩa Quốc
Gia và thể diện người Việt tỵ nạn Cộng
Sản. Cộng Sản Việt Nam sẽ dùng dự án nghiên
cứu này để bóp méo và xuyên tạc lịch sử, làm
mất chính nghĩa chống Cộng của người Việt
Quốc Gia, bôi nhọ cộng đồng người Việt
hải ngoại, và giúp cho chế độ Cộng Sản
Việt Nam tồn tại lâu dài hơn.
Chúng ta không thể coi thường
việc này mà phải có thái độ quyết liệt
đối với trung tâm William Joiner Center để
ngăn chặn việc họ thuê cán bộ cao cấp của
Việt Cộng đảm trách công việc nghiên cứu này
và những cuộc nghiên cứu trong tương lai.
IV. Kết Luận
Trong tác phẩm Thế Kỷ, Luật
Sư Nguyễn Văn Chức đă nhắc lại lời
của Bùi Tín viết trong quyển Mặt Thật như
sau: “CSVN đă phạm quá nhiều tội ác đối với
dân tộc VN. CSVN đă cắt cánh mọi mơ ước,
vùi dập trí tuệ, tự do, sức sáng tạo của
toàn xă hội.” Ngoài ra, ông c̣n
nói là: “Quyển Mặt Thật đă phanh phui tất cả
những hèn hạ, vô liêm sỉ và tởm tang của bọn
lănh tụ Việt Cộng, từ Hồ Chí Minh đến
Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, và Đỗ
Mười, v.v. Bùi Tín xác nhận một sự thật mà
người Quốc Gia đă biết từ lâu. Sự thật
đó là: hèn hạ, vô liêm sỉ, và tởm tang là bản chất
của CSVN, từ Hồ Chí Minh đến cán bộ phường
khóm.”
Cộng Sản Việt Nam là kẻ
thù không đội trời chung của cả dân tộc VN.
V́ hạnh phúc, tự do, dân chủ nhân quyền, và sự sống
c̣n của toàn dân, chế độ Cộng Sản Việt
Nam phải bị loại trừ hay bị tiêu diệt vĩnh
viễn. Đây là chân lư. Không thể nào “ḥa hợp ḥa giải”
với chúng được. Lịch sử cho thấy rằng
những cuộc hợp tác Quốc Cộng đều
đưa đến việc phía người Quốc Gia bị
Cộng Sản lừa và sát hại. Việt Cộng chủ
trương chuyên chính vô sản th́ không bao giờ chúng chia
quyền với ai.
Cộng Sản là chuyên viên lật lọng,
chúng kư không biết bao là hiệp ước nhưng rồi
lại xé hiệp ước như không. Hăy nhớ lại
những thỏa hiệp chúng đă kư trước đây,
không có một thỏa hiệp nào mà chúng tôn trọng. Chúng chỉ
thỏa hiệp khi chúng lép vế. Khi đủ sức th́
chúng lại t́m cách giết sạch những người Quốc
Gia dám tỏ thái độ chống lại chúng.
Có một điều hết sức
rơ ràng là quân ăn cướp và kẻ gian manh phạm pháp
không bao giờ trở thành con người tử tế
được. Các khảo cứu về những tội
phạm đă chứng minh điều này. Gái đĩ th́
ngựa quen đường cũ. Kẻ gian manh cướp
của giết người th́ chứng nào tật ấy.
Không bao giờ có sự hoà giải chân chính với tụi Cộng
Sản được dù khi chúng ở vào đường
cùng thế bí. Việc giải trừ chế độ Cộng
Sản Việt Nam là mục đích và là chính nghĩa của
người Quốc Gia từ trước tới nay.
Vậy muốn xây dựng tự
do, dân chủ, và nhân quyền cho toàn dân Việt, ta phải dứt
khoát giải thể chế độ Cộng Sản tại
Việt Nam cho bằng được. Muốn giúp vào việc
giải thể chế độ Cộng Sản ở quê
nhà, ta phải tập hợp lực lượng của tất
cả các đoàn thể chính trị và cộng đồng
chân chính chống Cộng thành một khối dưới
h́nh thức của một Hội Đồng Phục Quốc
Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại.
Việc tổ chức hội đồng
này phải dựa theo phương trâm “quí hồ tinh chứ
không phải quí hồ đa.” Ta chỉ tập hợp những
tổ chức chân chính chống Cộng mà thôi. Trong thực
tế ta đă thấy có những hội đoàn ngoài mặt
cũng chào cờ Việt Nam Tự Do và nói chuyện chống
Cộng mà làm toàn những chuyện có lợi cho Cộng Sản.
Phải nh́n vào hành động, quá khứ, hiện tại,
và bản chất chứ không nên nh́n vào bề ngoài để
xét người xét việc.
Muốn thực hiện việc tổ
chức Hội Đồng Phục Quốc này ta phải có
nhiều cuộc hội thảo với sự góp ư kiến
của những cá nhân và đại diện của các hội
đoàn. Muốn gây dựng
đại nghĩa để giúp vào việc giải trừ
chế độ Cộng Sản ở quê nhà ta dứt khoát
phải có lực lượng thống nhất đại
diện cho hết mọi tầng lớp người Việt
chân chính chống Cộng ở hải ngoại này càng sớm
càng tốt.
D-a^y la` pha^`n 3 va` cuo^'i cuo^'n Kie^'n va(n
Từ Cách Mạng Bản Thân đến
Cách Mạng Cứu Dân Dựng Nước
I. Dẫn Nhập
Cách mạng có nghĩa thông thường
là thay đổi toàn diện cơ cấu điều hành của
một quốc gia về các mặt chính trị, kinh tế,
giáo dục, y tế, quốc pḥng, pháp chế, và xă hội,
v.v. từ xấu sang tốt. Trong cuộc tiến hóa, cứ
đến một thời kỳ nào đó lại xảy ra
cuộc cách mạng. Khi sự sống con người gặp
trở lực, người ta phải dẹp bỏ trở
lực đó để sinh tồn. Việc dẹp bỏ
trở lực đó tức là làm cách mạng. Hiện nay
toàn dân Việt ở trong nước đang bị quân xâm
lăng Cộng Sản đầy ải xuống hàng chó ngựa.
Chính v́ thế, vào một thời
điểm nào đó toàn dân tất phải cùng nhau nổi dậy
để giải trừ bọn chúng ngơ hầu đem lại
tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân. Đó là cuộc
cách mạng cứu dân dựng nước. Cuộc cách mạng
này thế nào cũng xảy ra, chỉ sớm hay muộn mà
thôi. Đây là điều tất yếu!
Cuộc cách mạng bản thân có
nghĩa là con người phải tự sửa đổi
các tính xấu, rèn luyện những nết tốt, và thực
hành những điều học hỏi được
để trở thành người hữu ích cho nhà cho
nước và cho nhân loại.
Nước Việt ta từ ngàn xưa vốn đă
có biết bao anh hùng hào kiệt. Đó là nhờ ở chỗ
tiền nhân ta biết làm cách mạng bản thân. Tuy nhiên,
khoảng một thế kỷ nay, anh hùng hào kiệt của
Việt Nam như lá mùa thu và như sao buổi sớm chỉ
v́ đa số người Việt đă quên đi việc
làm cách mạng bản thân mà chỉ đắm ch́m vào danh
quyền lợi của cá nhân và gia đ́nh.
V́ không những không biết làm cách
mạng bản thân mà lại c̣n càng ngày càng đắm ch́m
vào việc ham danh quyền lợi bất chính và ngu si mê muội,
mấy tên Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh giả), Phạm
Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, và Trường
Chinh, v.v. đă đi làm tay sai cho Nga Tàu để phản lại
dân tộc. Bọn đầu sỏ này và bè lũ Cộng Sản
Việt Nam, tức là bọn Việt gian bán nước,
đă biến nước Việt
để thành chư hầu của lũ Cộng Sản
Đệ Tâm Quốc Tế.
Chính Phạm Văn Đồng
đă kư công hàm ngày 14-9-58 gửi Chu Ân Lai xác nhận chủ
quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Và sau này, tên Phan Văn Khải đă kư với
một công ty nước ngoài để nhượng quyền
cho họ khai thác viễn thông tại Việt Nam trong thời
hạn 99 năm. Bằng chứng bán nước bằng giấy
tờ đă rành rành ra đó, đấy là chưa kể việc
Hồ Chí Minh làm tay sai cho Cộng Sản quốc tế
để xâm chiếm Việt Nam.
Ngày nay bọn Cộng Sản quốc
tế đă tan ră, bọn Cộng Sản tay sai này lại
hiện nguyên h́nh là quân ăn cướp ngày. Quân ăn
cướp này lại có chính quyền ở trong tay th́ thật
là một tai họa khủng khiếp cho dân tộc Việt
Nam.
C̣n về phía Quốc Gia, trong số
những người đă ra nắm chính quyền của
Miền Nam Việt Nam trước đây, rất ít người
biết làm cách mạng bản thân, họ thiếu cả
tài lẫn đức. Chính v́ thế mà dân ta mới phải
chịu trăm ngàn cảnh đọa đầy, khổ
đau, tủi hổ, và đắng cay không biết sao mà tả
hết được.
Giờ này, việc giúp dân cứu
nước chỉ c̣n trông chờ vào bàn tay thế hệ trẻ
và các bậc cha anh có tư cách, trung tín, vuông tṛn, thành ư, chánh
tâm, từ bi hỷ xả, trí huệ bát nhă, và tinh thần tự
lập. Giới trẻ Việt Nam ta ngày nay ở hải
ngoại rất tài giỏi. Họ
có mặt ở khắp năm châu, cố chí học hỏi,
và góp nhặt tinh hoa của bốn phương để
chờ ngày về giải trừ quân xâm lăng Cộng Sản
hầu mang lại tự do, dân chủ, hạnh phúc, và nhân
quyền cho toàn thể dân Việt nơi quê nhà. Giới trẻ
và các bậc cha anh có tư cách, tinh thần tự lập,
và ḷng yêu chuộng tự do, ở hải ngoại cũng
như ở trong nước, đă từng làm vẻ vang
dân Việt. Họ sẽ cùng nhau đứng lên cứu
nước thoát khỏi ách thống trị của quân xâm
lăng Cộng Sản trong một tương lai gần
đây.
Chúng tôi viết bài này với mục
đích là giúp các bạn trẻ trau giồi thêm phương
pháp cách mạng bản thân trước khi làm cách mạng
giúp dân cứu nước.
Về tài, ai cũng có thể học
được. Cần thời gian, kiên tâm bền chí, và
chuyên cần tập luyện, ta sẽ có được kiến
thức rộng, kỹ thuật cao, và tài khéo léo. Tuy nhiên, có
tài chưa chắc đă có đức. Chúng tôi đă từng
thấy nhiều người có kiến thức rộng và
bằng cấp cao mà hành động cùng tư cách của họ,
th́ chao ôi, cả là một sự thất vọng năo nề!
Đấy là chưa kể những kẻ không có thực
tài mà làm ra vẻ có tài và không có bằng cấp mà nói là có.
Tài của họ là tài buôn dân bán nước, tài bẻ cong
ng̣i bút, tài xuyên tạc, tài phản phúc, và tài chà đạp
lên danh dự cùng chính nghĩa bảo vệ tự do của
bao chiến sĩ đă từng chiến đấu phục
vụ quốc gia dân tộc.
Một số Cộng nô đă khoe bằng
cấp và chức vụ của chúng trước đây với
mục đích để đánh lừa quần chúng hầu
len lỏi vào trong các tổ chức cộng đồng
để t́m cách phá hoại. Bằng cấp của họ
là bằng cấp ma và chức vụ của họ là chức
vụ bịa đặt. Chính v́ vậy, họ không dám nói
rơ là học trường nào, ở đâu, đỗ năm
nào, và học ngành nào. V́ khoe chức vụ bịa đặt,
họ cũng không dám nói rơ là làm việc hay dạy học ở
đâu vào năm nào, khoa nào, hay dạy môn ǵ. Nếu có các chi
tiết rơ ràng như trên, người ta sẽ kiểm chứng
được ngay, nhất là ở Bắc Mỹ này. Chỉ
cần gọi điện thoại đến một
trường đại học là ta kiểm chứng
được họ đă đỗ bằng ǵ, đỗ
năm nào, và có bằng về môn học nào. Chính v́ điểm
này, những kẻ gian manh chỉ khoe bằng cấp hay chức
vụ mà không dám nói rơ các chi tiết như đă đỗ
năm nào, ngành nào, và học ở trường nào, hay làm ở
đâu, từ năm nào đến năm nào, v,v,.
Những bọn gian manh này thuộc
loại phản phúc và làm tay sai cho Việt Cộng để
đánh phá cộng đồng người Việt hải
ngoại. Những kẻ này không viết nổi một câu
văn mà lại khoe là có đến cả chục tác phẩm.
Tác phẩm của họ là loại tác phẩm dơ bẩn
dùng để xuyên tạc, nhục mạ, và chia rẽ
người Việt Quốc Gia chân chính. Khi t́m hiểu ra,
người ta mới biết là có một tổ chức phản
quốc đă thuê người khác viết các tác phẩm
đó cho họ.
Từ cổ chí kim, người ta
chưa thấy kẻ nào có hành vi bất chính hay phản
phúc mà họ yêu nước thương dân được.
Người ta cũng chưa từng thấy những kẻ
ham danh quyền lợi bất chính mà làm việc nghĩa
thành công được. Chính v́ thế, những người
muốn ra gánh vác đại sự cho quốc gia dân tộc
cần phải làm cách mạng bản thân và tu tâm dưỡng
tánh trước là vậy. Vừa có thực tài vừa biết
làm cách mạng bản thân và tu tâm dưỡng tánh, ta mới
trở thành người hữu ích và mới có hy vọng
giúp dân cứu nước được.
II. Cách Mạng Bản Thân và Tu Thân
Theo Tinh Thần Nho Giáo
Theo Nho Giáo, người quân tử
phải sửa sang cái đức tính của ḿnh cho hay cho tốt.
Lấy sự chí thiện làm cứu cánh cho mọi sinh hoạt
ở đời, ta mới mong giúp dân cứu nước
được. Muốn được như thế,
người quân tử trước nhất phải sửa
ḿnh cho hay, tức là tu thân, rồi mới lo chỉnh đốn
việc gia đ́nh, tức là tề gia, cai trị đất
nước, tức là trị quốc, và cuối cùng làm cho
cho cả thiên hạ được yên vui, thái ḥa, và thịnh
trị, tức là b́nh thiên hạ.
Theo Nho Giáo, muốn làm cách mạng bản
thân và tu thân, ta phải hiểu mọi lẽ của sự
vật một cách thấu đáo (cách vật), biết cho
đến nơi đến chốn (trí tri), phải giữ
cho ư nghĩ thành thực (thành ư), và cuối cùng là phải giữ
ḷng ḿnh cho ngay thẳng (chánh tâm).
III, Cách Mạng Bản Thân Bằng
Phương Pháp Vuông Tṛn
Theo truyền thống Việt Nam
ta, việc tu thân đặt nền tảng trên vuông tṛn. Có ăn
ở vuông tṛn th́ mới tề gia, trị quốc, và b́nh
thiên hạ được. Tiền nhân chúng ta đă dùng
phương pháp “ba vuông và bảy tṛn” để cách mạng bản thân trong ư: “Ba
vuông sánh với bảy tṛn, đời cha vinh hiển đời
con sang giầu.”
Theo ư của tiền nhân, ba vuông là một
nguyên lư tất yếu trong quá tŕnh tiến hóa của vạn
vật. Tất cả sự vật đều trải qua
ba tiến tŕnh là thực thể, phát triển, và cải tiến
mới gọi là toàn vẹn. Con người ta là một thí
dụ điển h́nh. Thân xác là một thực thể, lớn
lên là phát triển, và muốn tồn tại lâu dài, ta phải
cải tiến về đủ mọi mặt trong nếp
sống của chúng ta. Đây là định luật của
sinh tồn, nó hỗ tương và gắn bó với nhau
thành một khối bất khả phân. Phải có thực
thể để phát triển và cải tiến. Phải có
phát triển mới có dịp cải tiến và thực thể
mới trường tồn. Phải có cải tiến th́
việc phát triển mới tốt đẹp và thực thể
mới thăng hoa. Bảy tṛn là tiến tŕnh giúp ta làm việc
thành công. Khi làm bất cứ việc ǵ, dù lớn hay nhỏ,
theo nguyên tắc bảy tṛn, ta chắc chắn phải thành
công. Tiến tŕnh bảy tṛn gồm:
hiểu tường tận vấn đề, chuyên cần
làm việc, thận trọng trong khi làm việc, làm việc
theo tinh thần khoa học, tinh thần cộng tác, tinh thần
dân chủ, và cuối cùng là sau khi hoàn tất công việc ta
phải rút ưu khuyết điểm.
1. Hiểu tường tận về
công việc ta phải làm và nhận rơ động lực
nào cùng lư do tại sao ta quyết tâm làm công việc đó th́
công việc mới thành công.
2. Có hết sức chuyên cần th́
ta mới hoàn tất công việc đúng kỳ hạn.
3. Có thận trọng về đủ
mọi mặt trong khi làm việc, ta mới cần tiên
đoán các trở ngại và pḥng ngừa các bất trắc
có thể xảy ra hầu dự trù cách đối phó để
công việc khỏi bê trễ.
4. Có tinh thần khoa học trong khi
làm việc, ta mới nghĩ ra các kế hoạch và
chương tŕnh để thực hiện công việc cho
chu đáo gồm chương tŕnh ngắn hạn,
chương tŕnh dài hạn, kế hoạch đoản kỳ,
và kế hoạch trường kỳ.
5. Chân thành cộng tác với nhau
trong lúc làm việc là điều quyết định
đưa đến thành công. Mọi việc có thành công hay
không là do sự cộng tác thương yêu gắn bó giữa
các thành viên trong tổ chức. Thiếu sự cộng tác
chân thành th́ công việc không thể nào thành công được.
6. Cộng tác thương yêu gắn
bó phải dựa trên tinh thần dân chủ, tức là ư kiến
của mọi người phải được tôn trọng.
Đă cùng nhau cộng tác, chúng ta không được phép loại
một ư kiến nào của các cộng sự viên. Mọi ư
kiến đều phải được ghi nhận, tôn
trọng, đưa ra thảo luận, và lấy biểu
quyết. Nếu đa số chấp thuận ư kiến của
cộng sự viên th́ ta phải theo.
7. Đă làm việc, ta không tránh
được khuyết điểm. Có ưu điểm
th́ cũng có khuyết điểm. Trong khi làm việc hay khi
đă hoàn tất công việc, chúng ta cần rút ưu khuyết
điểm để lấy đó làm kinh nghiệm cho những
việc sắp tới. Cần phải “bớt tự ái
thêm chút chân thành” trong lúc rút ưu khuyết điểm. Có
như thế việc rút ưu khuyết điểm mới
có kết quả.
Trong nghĩa thông thường, vuông
tṛn c̣n có nghĩa là ăn ở với nhau có trước có
sau, có t́nh có lư, và có tín có trung. Vuông tượng trưng cho
phép tắc luật lệ và tṛn tượng trưng cho ḷng
nhân. Nếu ăn ở với nhau có nhân và phù hợp với
luật lệ của xă hội, chúng sẽ được
vinh hiển và con cháu chúng ta sẽ được sang giàu.
Điều này có nghĩa ta là người tốt, gia
đ́nh ta ḥa thuận, đất
nước ta yên vui, và nhân loại thái b́nh an lạc.
IV. Phương Thức Cách Mạng
Bản Thân của Những Người Giữ Vai Tṛ Lănh
Đạo
Một tổ chức có thành công hay
không là do những người cầm đầu tổ chức
có những đức tính của người lănh đạo
hay không. Theo nguyên tắc dân chủ ngày nay, mỗi tổ chức
thường do một hội đồng quản trị
(Board of Directors) hay một ban chấp hành (Executive Committee)
điều khiển.
Theo nghĩa thông thường, lănh tụ
là người cằm đầu một phong trào hay đứng
đầu một đảng phái. Ngày nay, theo tinh thần
dân chủ, người cằm đầu một phong trào
hay đứng đầu một đảng phái chỉ có
quyền đại diện mà thôi. Mọi đường
lối hoạt động đều do tập thể quyết
định. Những người trong ban chấp hành hay hội
đồng quản trị đều là lănh tụ cả.
Muốn tổ chức thành công, mỗi
một người trong ban chấp hành hay trong hội đồng
quản trị phải trau giồi các đức tính sau:
1. Trung Tín Với Đường Lối
Chung và Trung Tín Với Anh Em Trong Tổ Chức.
Trong mọi sinh hoạt của tổ
chức và việc giao dịch giữa các cộng sự
viên, trung tín là điều cốt yếu để đi
đến thành công. Người trung tín th́ thường có
liêm sỉ, biết tự trọng, và có lễ. Có trung tín
th́ khi gặp khó khăn ta vẫn gắn bó với nhau để
lo đại sự. Kẻ tiểu
nhân chỉ v́ danh quyền lợi bất chính mà cộng tác
với nhau.
Khi gặp khó khăn họ chống
lại nhau. V́ thế, ca dao ta mới có câu: “Thuận buồm
xuôi gió chén chú chén anh, lên thác xuống ghềnh mày tao chi tớ.”
Họ sẵn sàng phản bội bạn bè, ân nhân, và tổ
quốc khi có sự va chạm đến danh quyền lợi
của họ. Họ sẵn sàng bẻ cong ng̣i bút và sẵn
sàng bán nước cầu vinh cũng chỉ v́ danh quyền
lợi bất chính.
Khổng Tử có nói: “Nhân vô tín bất
lập.” Câu này có nghĩa là người không có tín th́ không
đứng được ở đời. Tấn Văn
Công cũng nói: “Tín vi quốc chi bảo” (tín là vật quí báu
của cả nước). Chính v́ thế mà kẻ thiếu
trung tín th́ không thể nào làm được việc nghĩa.
Con người đă không có chữ tín th́ không thể nào
giúp ích cho ai được mà c̣n làm hại dân hại nước
nữa. “Một sự bất tín vạn sự không tin” là vậy.
2. Kiên Tŕ, Nhẫn Nại, và Quyết
Tâm
Phàm làm bất cứ việc ǵ ta cũng
đều gặp khó khăn lúc ban đầu. “Vạn sự
khởi đầu nan” là vậy. Muốn thành công, ta phải
có ḷng kiên tŕ, nhẫn nại, và quyết tâm. Có kiên tŕ, nhẫn
nại, và quyết tâm, ta mới tính được thời
tạo được thế và t́m ra sách lược, chiến
lược, cùng chiến thuật khả thi để giúp
cho tổ chức được thành công. Kiên tŕ và nhẫn
nại không có nghĩa là cứ ngồi đó để chờ
thời đợi thế mà phải biết tính toán kế
hoạch và củng cố tổ chức th́ mới đúng
với nghĩa của nó.
3. Giữ Bí Mật Mọi Hoạt
Động Của Tổ Chức
Mọi dự định chiến
lược và chiến thuật của tổ chức không
được phép tiết lộ ra ngoài. Ngay cả đối
với vợ con hay người thân cũng không được
tiết lộ những kế hoạch dự định
hay đang được tiến hành của tổ chức
ḿnh. Những điều thảo luận trong các cuộc họp
nội bộ phải được giữ bí mật,
không v́ lư do ǵ mà đem tiết lộ ra ngoài, nhất là không
được phép phổ biến trên mặt báo.
Đă có những trường hợp,
thành viên của một tổ chức nọ không những
đă đem chuyện nội bộ của tổ chức
phơi bày trên mặt báo mà c̣n trắng trợn xuyên tạc
nữa. Những kẻ làm chuyện như thế đều
là loại phản phúc. Kinh nghiệm cho biết rằng những
kẻ phản phúc th́ dễ dàng đi làm tay sai cho giặc
để hại dân hại nước. Họ là những
kẻ phản quốc.
Bảo mật cho tổ chức là
điều tối cần thiết đối với các
thành viên v́ có bảo mật ta mới tránh được sự
phá hoại của địch.
4. Đa Mưu Túc Trí, Sáng Tạo, Mẫn
Tiệp, và Phản Ứng Nhanh Lẹ
Khi hoạt động xă hội,
văn hóa, và nhất là hoạt động chính trị, ta
phải tránh tính nhẹ dạ cả tin th́ mới mong thành
công được. Có óc sáng tạo, mẫn tiệp, và
đa mưu túc trí ta mới giúp ích cho tổ chức và mới
hy vọng đi tới thành công. Trong các trận chiến,
những điều như mưu trí, sáng tạo, và phản
ứng mau lẹ là những yếu tố quyết định
sự chiến thắng. Trong mặt trận chính trị
th́ mưu trí, sáng tạo, và phản ứng mau lẹ lại
giữ phần quan trọng hơn nữa.
5. Can Đảm
Những người can đảm
đều có tinh thần vô úy. Họ là những người theo đuổi
công cuộc cách mạng để đem lại hạnh
phúc cho toàn dân. Họ là những bậc quân tử có óc vô cầu,
thắng không kiêu, bại không nản, và không bao giờ chùn
chân trước thực tế phũ phàng. Thấy việc
phải, họ làm cho bằng được. Họ dám nói
dám làm và sẵn sàng gánh chịu trách nhiệm cũng như
không sợ cường quyền hay áp lực nào. Đó mới
đúng là “uy vũ bất năng khuất.” Họ làm cách mạng
là v́ lương tâm thôi thúc chứ không phải v́ danh quyền
lợi hay bị khích động mà làm.
Tính can đảm giúp ta xem thường
thành bại và thẳng tay loại ra ngoài tổ chức những
kẻ vô liêm sỉ, phản quốc, và phản bội lại
tổ chức và đồng bào. Dung dưỡng những kẻ
này, sớm muộn ǵ ta cũng bị hại. Những kẻ
phản bội thường hay ham danh tham quyền chuộng
lợi một cách bất chính. Kinh nghiệm cho thấy rằng
nếu để những kẻ phản bội nằm
trong hàng ngũ ta th́ trước sau ǵ họ cũng bị
Cộng Sản mua chuộc. Lúc bấy giờ dù ta có hối
cũng không kịp.
Ngoài ra, ta c̣n phải can đảm
nhận diện bọn tài hèn mà chí lớn, tài cao nhưng
chí thiển, thiếu tài kém đức, có thành tích phản bội,
và tài hèn chí thấp. Kẻ tài hèn chí lớn th́ hay bất măn
và tạo phản. Loại người tài cao chí thiển chỉ
hay tính chuyện nhỏ nhen làm hại anh em và tổ chức.
Những kẻ thiếu tài kém đức mà đứng
đầu tổ chức chỉ làm lụn bại tổ
chức mà thôi. Những kẻ đă có thành tích phản bội
trước đây thường hay quay đầu phản
anh em. Những kẻ tài hèn chí thấp thường th́ “nhập
chủ xuất nô,” tức là nếu v́ lư do ǵ được
người ta đưa lên giữ địa vị chủ
chốt th́ họ cũng hiện nguyên h́nh là loại gia nô
làm tay sai cho người và tự biến ḿnh thành một thứ
bù nh́n không hơn không kém.
Những đức tính cần thiết
của nhà cách mạng khó mấy ai có đầy đủ.
Tuy nhiên, đă dấn thân cho đại cuộc, ta vẫn
có thể học hỏi trau giồi từ từ. Ở Bắc
Mỹ này người ta đều có những khóa đào tạo
các nhà lănh đạo. Lănh đạo là một nghệ thuật
phải học hỏi mới biết được và phải
tập dần dần mới thành. Ngay cả khoa ăn nói cũng
phải học mới có được sự hùng biện
để thuyết phục người theo ḿnh.
Tiếng trái nghĩa của can
đảm là hèn nhát. Con người đă hèn nhát th́ sợ
đủ thứ. Họ cam tâm muối mặt làm đủ
mọi chuyện đê hèn dù phải sống hèn sống nhục
chỉ v́ ham sống sợ chết. Những loại
người hèn nhát không bao giờ có thể làm việc ích
quốc lợi dân được.
V. Cách Mạng Bản Thân Quốc
Dân Bằng Phương Pháp Tự Lập
Trong sách Cao Đẳng Quốc Dân,
cụ Phan Bội Châu có phân biệt “quốc dân” với ”gia
nô” rất rơ. Quốc dân là ông chủ của một nước,
gia nô là người ở của một nhà. Cụ nói rằng:
”Xem lịch sử nước ta từ xưa đến
nay... chỉ thấy gia nô mà không thấy quốc dân thật...
Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh
gia truyền làm gia nô đó không biết tự bao giờ
để lại cho chúng ta, bắt ta phải gông đầu
khóa miệng, xiềng tay xích chân, mà chịu gánh gia nô cho già
đời măn kiếp! Đau đớn thật! Thảm hại
thật! Anh em ôi! 'Dân vi quư' là câu nói của ông Mạnh Đại
Hiền... có phải nói lừa ta đâu? Ta ngu, ta ngẩn,
ta hèn hạ quá chừng!”
Lời nói của cụ Phan Bội
Châu quả không có ngoa. Ngay cả từ trước đến
giờ, quân Cộng Sản Việt Nam vẫn t́nh nguyện
làm gia nô cho Tàu, Nga, và hiện nay chúng lại đi ăn mày
Mỹ. Thế mà một số người Việt hải
ngoại vẫn c̣n cái quan niệm cho là chỉ khi nào có
người Mỹ giúp, ta mới có thể giải trừ
quân xâm lăng Cộng Sản ở Việt Nam được.
Quả thật đau đớn cho cái thói gia nô của họ.
Theo cụ Phan Bội Châu, các bệnh
của quốc dân gồm có 10 tệ bệnh như sau: tính
ỷ lại, ḷng giả dối, tính nhút nhát, tham lợi
riêng, đua đuổi hư danh, ái quốc giả, không biết
hợp quần, mê tín hủ tục, không biết đường
kinh tế, và không biết thương ṇi giống.
Sau khi kể những tệ bệnh
của quốc dân, cụ Phan Bội Châu có đưa ra những
vị thuốc để trị các bệnh này hầu giúp
cho quốc dân có được tính tự lập.
Muốn được tự lập,
cụ Phan Bội Châu đă đưa ra vị thuốc “khí
tự cường” để chữa bệnh “ỷ lại,”
vị thuốc “ḷng thành thực” trị bệnh “ḷng giả
dối,” vị thuốc “gan cả quyết” trị bệnh
“tính nhút nhát,” vị thuốc “ḷng công ích” trị bệnh
“tham lợi riêng,” vị thuốc “thực nghiệp” trị
bệnh “đua đuổi hư danh,” vị thuốc “bụng
nhiệt thành” trị bệnh “ái quốc giả,” vị thuốc
“đồng tâm” trị bệnh “không biết hợp quần,”
vị thuốc “trí thức mới” trị bệnh “mê tín hủ
tục,” vị thuốc “nội hóa” trị bệnh “không biết
đường kinh tế,” và vị thuốc “hạt giống
nhân ái” trị bệnh “không biết thương ṇi giống.”
Muốn làm cách mạng bản thân
quốc dân, toàn dân phải trau
giồi làm sao cho có được tính “tự lập.” Có
như thế chúng ta mới hy vọng đạt được
thành quả cách mạng cứu dân dựng nước.
VI. Cách Mạng Bản Thân Bằng
Cách Tu Tâm Dưỡng Tánh
Trong tác phẩm Tu Tâm Dưỡng
Tánh, Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa đă nói rơ về tu
tâm dưỡng tánh như sau: “Người ta sửa cái xấu
mà nuôi cái tốt. Sửa là trừ mà nuôi là cộng. Tu có tánh
cách tiêu cực, dưỡng có tánh cách tích cực. Một
bên trừ cái xấu, một bên bồi bổ cái tốt...
Mọi sự vật trong đời tương đối
nầy đều có phần xấu và phần tốt.
Đối với cái xấu ta phải tu, đối với
cái tốt ta phải dưỡng... bài trừ những ảnh
hưởng xấu ở chung quanh gọi là tu, bồi bổ
cho cái mầm quí báu của cây bồ đề mỗi ngày mỗi
lớn mạnh gọi là dưỡng.”
1. Tu Tâm
Sửa tâm ô trược tham lam, tà
kiến, và si mê, v.v. cho thành tốt đẹp gọi là tu
tâm. Tâm có hai phần: chân tâm và vọng tâm. Chân tâm có nghĩa là ḷng chân thật,
trong sạch, không nhiễm dơ bẩn bởi cảnh xấu
hay tư tưởng xấu. Chân tâm, vốn sẵn có ở
nơi ta, giúp ta thoát khỏi sự phiền muộn và nỗi
khổ ải của cuộc đời. Muốn có chân tâm
ta chỉ cần hiểu biết và dẹp trừ
được cái vọng tâm, tức là dẹp bỏ phiền
năo, th́ chân tâm tự nhiên hiện ra.Vọng tâm c̣n gọi là
vọng tưởng, tức là ḷng toan tính những điều
bậy quấy, chẳng phải lẽ, hay nghĩ những
điều chẳng hợp đạo lư và trái với chánh
pháp. Vọng tâm gây ra phiền năo. Phiền năo là giặc làm
hại chúng sanh.
a. Phiền Năo: Phiền năo do vọng
tâm gây ra. Phiền năo là các sự mê dục, lầm lạc,
và xao xuyến. Phiền năo làm cho tâm ta sinh ra lo buồn, vọng
động, thân tâm xao xuyến, và bất an. Phiền năo khiến
cho thân, khẩu, và ư của
người ta sinh ra những hành động, lời
nói, và tư tưởng bậy bạ nhiên hậu gây ra tội
lỗi để phải chịu đau khổ về sau.
Phiền năo gồm có căn bản
phiền năo, tức là các thứ phiền năo chính, và tùy phiền
năo, tức là các thứ phiền năo phụ.
* Căn Bản Phiền Năo (phiền
năo chính) gồm 10 thứ: tham dục: tham lam, sân nhuế:
nóng nảy, si: ngu si hay vô minh, ngă mạn: tức tính khinh lờn
người khác và cho ḿnh là hơn người, nghi: không
tin, thân kiến hay ngă kiến: ư kiến chấp có thân ḿnh
hay của ḿnh nên chỉ thấy
có ḿnh mà thôi nhiên hậu sinh khổ năo; biên kến: ư kiến
thiên một bên và cho rằng chết là hết hay cho rằng
thân tâm là thường trụ bất diệt để từ
đó sinh ra khổ năo, tà kiến: ư kiến không chân chánh, kiến
thủ kiến: khư khư giữ lấy ư kiến sai lầm
của ḿnh nên lúc nào cũng bảo thủ cho ḿnh là giỏi
là đúng hơn và ai nói cũng không nghe, và giới thủ
kiến: theo giới cấm của ngoại đạo một
cách vô lư làm hại người hại ḿnh.
* Tùy Phiền Năo (những phiền
năo tùy thuộc) gồm có 20 thứ: phẫn: tức giận;
hận: hờn giận hay hờn mát và hờn thiệt;
năo: hay buồn rầu bứt rứt; phú: che dấu tội
lỗi của ḿnh để làm tội lỗi càng nặng
thêm; tật: ganh ghét người có tài có danh hơn ḿnh; xan:
hà tiện bủn xỉn; cuống: dối gạt người;
kiêu: kiêu căng; siểm: a dua bợ đỡ người;
hại: làm tổn hại người; vô tâm: không có tâm thức,
chơn tâm không c̣n, và không cảm xúc; vô quí: không biết thẹn
và không biết xấu hổ; điệu cử: tâm tánh
không trầm tĩnh, hay nói hay cười, và lao chao bất
định; hôn trầm: không tập trung tư tưởng,
dễ mệt mỏi, và tâm trí mờ mịt; tán loạn:
tâm hồn rối loạn, tản mát, và bất định;
phóng dật: không biết tự kiềm chế ḿnh; bất
tín: không tin điều hay lẽ phải, ưa thích điều
ô nhiễm, và tâm tánh đen tối; giải đăi: biếng
nhác không muốn làm việc; thất niệm: không chăm
chú để ư đến công việc ḿnh làm; và bất chánh
tri: hiểu biết không chính đáng, hiểu lầm, và làm
sai.
b. Dùng Thiện Tâm Sở Để
Giải Trừ Phiền Năo: Đời là bể khổ bởi
v́ có giặc phiền năo hoành hành. Muốn giải trừ
phiền năo ta phải dùng những điều sở hữu
tốt của tâm, tức là những t́nh ư tốt trong tâm
để trừ phiền năo. Những điều sở hữu
tốt của tâm gọi là thiện tâm sở.
Thiện Tâm Sở gồm có 11 thứ:
tín: sự hiểu biết thấu đáo tạo ra ḷng tin
mang tính chất khoa học; tinh tấn: siêng năng chăm
chỉ làm việc; tàm: tự ḿnh biết xấu hổ;
quí: khi có lỗi biết thẹn; vô tham: không tham lam; vô sân:
không nóng nảy; vô si: không si mê và lúc nào cũng có trí tuệ
sáng suốt; khinh an: thân tâm thơ thới và khoan khoái yên vui;
bất phóng dật: biết tự kiềm thúc ḿnh; hành xả:
không cố chấp, gặp cảnh buồn hay đau khổ
th́ xả bỏ ngay, nhiên hậu ta thấy ḷng nhẹ nhàng
vui vẻ; và bất hại: không làm tổn hại cho
người và vật.
Tu tâm là vấn đề khó. Tuy
nhiên, vẫn có nhiều người làm được. Vấn
đề chính là có chí th́ nên và có công mài sắt có ngày nên kim.
Người xưa có nói: “Thế thượng vô nan sự,
do lai tâm bất chuyên,” tức là trên đời không có việc
ǵ gọi là khó, chỉ tại tâm ḿnh không chuyên mà thôi.
Muốn tu tâm, ta phải nhận diện
được các phiền năo. Sau đó, ta dùng thiện tâm
sở như đă tŕnh bày ở trên để khắc phục
phiền năo. Mỗi ngày cố gắng một chút. Dần dần
ta sẽ đạt được mục đích. Ngày nào
c̣n phiền năo, ta phải tu tâm ngày đó.
2. Dưỡng Tánh
Tánh đây là tánh Phật hay Phật
tánh, c̣n gọi là chân tánh, hay chân như. Trong kinh phật có
câu: “Nhất thế chúng sanh giai hữu Phật tánh,” nghĩa
là tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Làm sáng Phật
tánh là thành Phật. Chúng sanh v́ c̣n có nhiều phiền năo nên
Phật tánh không sáng ra được. Đức Phật
đă giải trừ hết phiền năo nên ngài thành Phật.
Chính v́ thế mà Đức Phật có dạy rằng: “Ta là
Phật đă thành, các người là Phật sẽ thành.” Mỗi
chúng sanh đều có sẵn Phật tánh. Chỉ cần
dưỡng Phật tánh th́ phiền năo sẽ biến dần
để đi đến triệt tiêu, lúc đó ta sẽ
thấy niết bàn ngay tại thế gian này. Những Phật
tánh căn bản ta cần phải nuôi dưỡng gồm
có:
- Từ Bi: Từ là thương
tưởng, dốc tâm đem lợi ích và an lạc cho
chúng sanh. Bi là biết đau xót trước những cảnh
khổ năo, hoạn nạn, và sầu khổ của chúng
sanh để cứu vớt họ và làm cho đời họ
hết phiền năo. Tánh từ bi đă có sẵn trong tâm ta.
Ta phải gỡ các lớp chướng ngại để
mầm từ bi nẩy nở. Việc đầu tiên cần
làm để dưỡng tánh từ bi là ta phải tiếp
xúc với những cảnh khổ đau để thông cảm
nỗi đau khổ của tha nhân và do đó ta mới có
ḷng thương xót những người gặp cảnh khổ
đau.
Có thương xót ta mới dốc
tâm trí cứu vớt họ. Đất sống của từ
bi là cảnh khổ đau. Cảnh khổ đau nuôi dưỡng
ḷng từ bi. Tuy nhiên, có những cảnh đau khổ giả
tạo, ta cần phải có trí huệ soi sáng bản chất
các cảnh khổ sở và hoạn nạn để khỏi
bị lợi dụng hầu phát khởi ḷng từ bi cho
đúng chỗ. Chính v́ thế, từ bi do trí huệ mà có. Từ
bi không do trí huệ phát sinh không phải là từ bi bởi
v́ trí huệ là tính sáng suốt thông hiểu mọi lẽ
nên mới giúp cho ḷng từ bi được cao cả,
trong sáng, và ngay chính.
- Trí Huệ: Trí huệ c̣n gọi là
trí huệ bát nhă, tức là tánh sáng suốt tṛn đầy và
cùng khắp cả mà không bị cái ǵ ngăn trở. Trí huệ
tiếng Phạn là Prajnâ (bát nhă) và có nghĩa là thông minh, linh
hoạt, sáng suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Trí huệ
là trí thức của nhà thành đạo và bậc học
đạo chân chánh. Trí huệ giống như ánh sáng, phiền
năo giống như bóng tối. Hễ có ánh sáng th́ bóng tối
phải tiêu tan.
Mầm trí huệ đă có sẵn
trong ta. Muốn nuôi dưỡng trí huệ, ta đừng
để cho dục vọng và ích kỷ chi phối cái thấy
cái nghe của ta. Phải chấp nhận sự thật dù
sự thật đó làm ta đau ḷng. Không những phải
sáng suốt quan sát sự vật mà c̣n phải dùng trí để
suy nghiệm thấu đáo tất cả mọi khía cạnh
của sự vật để thấy cái lơi cốt của
nó. Biết tường tận cũng chưa đủ mà
c̣n phải thực hành cái biết ấy th́ ta mới đạt
tới bậc trí huệ.
Thực hành những điều
đă biết bằng phương pháp giới, định,
và huệ. Giới để ngăn tà niệm và phiền
năo. Định để giúp thân tâm định tĩnh, tức
là phép tham thiền nhập định. Định để
giữ cho tâm hồn b́nh thản giống như mặt
nước yên tĩnh phản chiếu rơ ràng cảnh trời
mây hoa lá. Huệ dùng để soi sáng giúp cho trí ta thấy
được rơ ràng chân tướng của vạn vật,
hiểu được nguồn gốc đau khổ, và biết
được con đường giải thoát. Chính v́ thế
mà nhà Phật cho trí huệ bát nhă do từ bi mà sanh. Trí huệ
không phải trí huệ của ḷng từ bi phát sinh th́
chưa phải là trí huệ bát nhă. Đó là trí huệ
thường của tâm sai biệt bởi v́ trí huệ bát
nhă gồm cả tâm lẫn trí.
Trí huệ c̣n có nghĩa là Phật.
Phật là trí huệ, c̣n gọi là giác, tức là sự hiểu
biết tṛn đầy, chứ không phải tượng Phật
thờ ở chùa. Phật tử qui y Phật tức là tự
tâm ḿnh qui y giác (trí huệ) để có sự hiểu biết
thấu đáo th́ những điều tà vạy không có
đất nảy sanh và tránh được tính tham của
cải và sắc dục. Trí huệ c̣n là độ thứ
sáu trong phép tu Lục Độ của nhà Phật. Đó là
bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, và trí huệ. Ta dưỡng được
tánh trí huệ th́ mọi phiền năo đều tiêu tan.
- B́nh Đẳng: B́nh đẳng là
tính bằng nhau, ngang nhau, và như nhau. Người có tính
b́nh đẳng sẽ không phân biệt cao hạ, thâm thiển,
quí tiện, bần phú, nam nữ, và lăo ấu. Họ
thương mọi người như nhau chứ không phân
biệt quen lạ hay oán thân. Nhà Phật chủ
trương thường hành b́nh đẳng và phá trừ
nhăn kiến nhị nguyên, tức là không c̣n phân biệt tâm vật,
hữu vô, nội ngoại, bỉ ngă, tâm trí, thiện ác, và
sinh tử, v.v. để đi đến kiến tánh thành
Phật.
Muốn dưỡng tính b́nh đẳng
vốn đă sẵn có trong ta v́ đây là một Phật
tánh, ta phải thương yêu tất cả mọi người,
đừng phân biệt thân sơ hay cao hạ, đừng
thấy người giàu có cúng dường nhiều tiền
cho nhà chùa mà trọng vọng, đừng thấy kẻ
nghèo hèn mà khinh, và cũng đừng trên đội dưới
đạp. Không nên coi ḿnh quan trọng hơn người
mà phải ḥa cái ta của ta với cái ta của mọi
người v́ mọi người dù ở địa v́ nào
cũng đều là người cả, đều có nhân
phẩm như nhau, và đều đáng được coi
trọng.
Đây là điều hết sức
tiến bộ trong đạo Phật. Đạo Phật
đă chủ trương b́nh đẳng cách đây 2545
năm. Thế giới mới có b́nh đẳng trong h́nh thức
cách đây 53 năm, tức là từ ngày 10 tháng 12 năm
1948, khi bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” dược
Liên Hiệp Quốc ban hành.
Lơi cốt của toàn bản “Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” là đ̣i hỏi mọi
chính quyền của các nước hội viên Liên Hiệp
Quốc phải công nhận và thực thi nhân quyền, tức
là quyền của con người, chủ yếu là quyền
b́nh đẳng. Thế mà trên thực tế, nhiều
nơi trên thế giới vẫn không có tí nhân quyền nào,
nhất là ở nước “Xuống Hàng Chó Ngựa.”
Tại nước Cộng Sản
Việt Nam, một nước hội viên của Liên Hiệp
Quốc, dưới sự thống trị của quân xâm
lăng Cộng Sản, người dân không hề biết
nhân quyền là cái ǵ. Đau đớn và tủi hổ thay!
Liên Hiệp Quốc và các nước hội viên đă vi phạm
bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” khi họ chấp
nhận cho Việt Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc
trong lúc nước Cộng Sản này vừa cưỡng
chiếm nước Việt Nam Cộng Ḥa xong và tiếp tục
chà đạp lên nhân quyền của toàn dân Việt cho tới
hiện nay.
- Lợi Tha: Lợi tha là làm lợi
ích cho những người khác bằng cách giúp của cải,
sức lực, th́ giờ, và đôi khi bằng cả tính mạng
của ḿnh. Không những thế, ta c̣n biết đem lời
hay lẽ phải cùng giáo pháp để giúp người.
Giúp người một cách can đảm, tức là không sợ
bị hại đến tính mạng của ḿnh, để
che chở cho tha nhân thoát khỏi cảnh sợ hăi và áp chế.
Giúp người một cách vô vị lợi, tức là không cần
họ trả ơn và cũng không cần khoe khoang cho ai biết
ḿnh đă giúp người. Đó là phép tu vô úy thí của nhà
Phật.
Muốn dưỡng tánh lợi tha,
ta đừng bao giờ từ chối một việc lợi
ích nào cho tha nhân mà không làm. Từ việc nói lời hợp
lư chân thành ḥa ái, thương yêu đùm bọc, tâm ư
tươi sáng vui vẻ, trao đổi kiến thức,
giúp nhau tôn trọng kỷ luật, có lợi cùng hưởng
và hoạn nạn cùng chia, cho đến việc cộng tác
với mọi người để làm việc công ích xây
dựng xă hội, nhất nhất phải thực hành cho
được. Muốn được như thế, ta phải
“tự giác để giác tha và tự độ để
độ tha.”
- Nhẫn Nhục: Nhẫn nhục
là nhịn nhục hay chịu nhục, tức là chịu sự
đau khổ tủi nhục mà không nghĩ đến trả
thù. Đây là Độ thứ ba trong Lục Độ của
nhà Phật đă nói ở phần trên. Người đă có
tính nhẫn nhục th́ không bao giờ nóng giận và thù oán.
Nhẫn nhục trong nghĩa của nhà Phật không có nghĩa
là sợ sệt trước áp lực của cường
quyền mà phải nhẫn nhục, không phải v́ muốn
danh quyền lợi mà phải nhẫn nhục, và cũng
không phải là không biết nhục hay thiếu nhân cách mà nhẫn
nhục. Nếu nhẫn nhục như thế th́ cái nhẫn
nhục đó là loại nhẫn nhục đê hèn và không
đem lại điều tốt mà kẻ nhẫn nhục
đó c̣n tự hạ phẩm giá của minh để làm
nô lệ cho dục vọng, tham lam, hèn nhát, và ích kỷ, v.v.
Nếu ta nhẫn nhục chỉ v́
mục đích cao quí giống như sự nhẫn nhục
của các nhân vật trong lịch sử Trung Quốc
như Hàn Tín, Phù Sai, và Câu Tiễn
đă làm để cứu nước và mưu đồ
đại sự cho quê hương của họ th́ đó
là thứ nhẫn nhục cao cả rất đáng
được vinh danh.
Muốn dưỡng tính nhẫn nhục
cao quí này ta phải luôn luôn giữ b́nh tĩnh và ḥa nhă trong cử
chỉ, hành động, và lời nói. Có như thế ta mới
sáng suốt phân biệt lư do tại sao người ta gây phiền
hà bực tức cho ḿnh v́ có hiểu được lư do, ta
mới dễ dàng tha thứ. Theo lẽ thường t́nh th́
những hạng tiểu nhân không ưa người quân tử
và kẻ thất bại ghét người thành công.
Người đời thường
có tính tham lam và tự kiêu tự đại. Nếu có ai làm
điều ǵ thiệt đến quyền lợi của
ta th́ ta dễ sinh ra tức giận và nếu có người
phạm đến ḷng tự cao tự đại của
ta th́ ta dễ nổi nóng. Chính v́ thế mà ta phải đề
pḥng những tính nóng giận này v́
cổ nhân đă nói: “Giận mất khôn, một điều nhịn bằng
chín điều lành, và giận lên là phát cơn điên, kẻ
khôn hóa dại người hiền hóa ngu.” Nếu ta nhịn được
th́ tai họa sẽ tiêu tan và nhịn được th́
đại sự mới thành công.
- Hỷ Xả: Hỷ có nghĩa là vui mừng khi
thấy người ta thành công. Xả là bỏ đi, buông
thả để giữ ḿnh cho ngay chính và giúp cho tha nhân
được thoải mái. Hỷ xả là hai hạnh trong
tứ vô lượng của nhà Phật: từ, bi, hỷ,
và xả. Người ta hay nói hai hạnh hỷ và xả
chung với nhau v́ chúng có tương quan mật thiết với
nhau. Muốn được vui (hỷ), ta phải bỏ
đi (xả) những điều không tốt do người
khác đă làm cho ta. Nếu ta không bỏ đi những
điều ngang trái th́ ta không thể nào làm cho người
và cho chính ḿnh vui được.
Muốn dưỡng tánh hỷ xả,
ta cần phải khoan dung, độ lượng, và tha thứ
những lỗi lầm của tha nhân. Nếu có ai nói điều
vu khống cho ta và rắp tâm muốn hại ta, ta cũng
nên tha thứ và tự nhủ là họ đáng thương
hơn đáng trách v́ họ kém hiểu biết, thiếu
giáo dục, và không có hoàn cảnh học hỏi để
hiểu những điều hay lẽ phải nên họ u
mê tăm tối. Họ là người đáng tội nghiệp.
Hỷ xả không những giúp
được người mà c̣n giúp cho chính ta được
thoải mái tinh thần lẫn thể xác. Ta sẽ ngủ
ngon, an vui, và dồn th́ giờ vào viêc tu tâm dưỡng tánh
ngơ hầu giúp dân cứu nước đắc lực
hơn. Đấy là nói về “hỷ xả” với bạn
bè, những người cùng trong một tổ chức và
cùng một chế độ với ta, tức là những
người không phải là kẻ xâm lăng và kẻ thù của
ta. Điều này có nghĩa là ta không thể “hỷ xả”
đối với phường hại dân hại nước,
phản phúc, và phản quốc
như bonï Việt Cộng và lũ Cộng nô
được v́ “hỷ xả” với tụi này tức
là ta đồng lơa với những kẻ tội phạm
để làm hại dân, hại nước, và hại cả
nhân loại.
Theo tinh thần nhà Phật, làm lợi
cho một nhóm người mà hại cho cả nước
và hại cho cả nhân loại là điều đại ác
vậy. Hại cho một nhóm người mà cứu
được toàn thể chúng sinh là một điều
đại thiện. Nếu bất đắc dĩ ta phải
trừ khử một kẻ ngoan cố và không phục thiện
để cứu toàn dân th́ đó là hành động của
vị Bồ Tát vậy.
- Thanh Tịnh: Thanh tịnh có nghĩa
là trong trẻo, sạch sẽ, và yên ổn. Trái nghĩa với
thanh tịnh là bợn nhơ, ô uế, và vọng động.
Theo nghĩa của nhà Phật, thanh tịnh có nghĩa là giữ
trong sạch cả về thân, ư, và lời nói. Ngoài ra, muốn
đạt tới thanh tịnh một cách viên măn, ta phải
giữ giới hạnh làm sao cho lục căn, tức là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, đều trở nên thanh
tịnh. Tóm lại, thanh tịnh của nhà Phật là sạch
từ bên ngoài tới bên trong, từ thể chất đến
tinh thần, và từ lời nói, cử chỉ, đến
việc làm.
Muốn dưỡng tánh thanh tịnh,
ta cần giữ cho ư nghĩ trong sáng, xua đuổi các ư
nghĩ xấu xa đen tối, làm việc theo lẽ công
chính, ăn nói cho ḥa nhă, dẹp bỏ mọi tị hiềm
và tính bè phái, hành động theo tinh thần bác ái vị tha,
cũng như sống cuộc đời giản dị, vệ
sinh, điều độ, và ngăn nắp. Chính v́ thế
mà thanh tịnh c̣n có nghĩa là an lạc, thanh khiết, thành
tựu, và viên măn.
Trong trường hợp bị
đắm ch́m trong lục dục và khó thoát ra được,
tức là ta bị sáu cái ham muốn làm cho điên đảo
do lục căn, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, và ư, hợp với lục trần, tức là màu sắc
h́nh dáng, âm thanh, mùi hương, mùi vị, cảm giác, và nhận
thức, mà sanh ra, ta phải cố công luyện tập theo
phép nhị không của nhà Phật để đạt tới
thanh tịnh. Nhị không là hai lẽ không: ngă không và pháp
không.
* Ngă không là không có thực ḿnh, tức
là thân ḿnh chỉ là do tứ đại giả hợp mà
thành. Thân tâm ta là do ngũ uẩn hiệp lại mà thành. Ngũ
uẩn là năm cái nguyên tố hiệp lại làm thành thân
thể và tâm thần người ta: sắc uẩn là vật
chất hay xác thịt, thụ uẩn là cảm giác hay cảm
xúc, tưởng uẩn là tư tưởng, hành uẩn là
hành vi, và thức uẩn là ư thức.
* Pháp không là không có sự vật. Vạn
vật chỉ do nhân duyên hợp lại mà thành và nhân duyên ly
tán là hết. Nếu ta quán triệt được như
thế th́ thân, ư, và khẩu của ta sẽ trở nên thanh
tịnh một cách viên măn.
- Tinh Tấn: Tinh tấn là bền
chí và cương quyết tiến tới để tu tập
các điều tốt và đoạn tuyệt các tật xấu.
Tinh là chuyên cần và tấn là tiến tới. Ta cần
tinh tấn để tránh phiền năo khi nó chưa xảy
ra, lướt qua phiền năo khi nó đă phát khởi, khai mở
các việc thiện mà ḿnh chưa có, cũng như duy tŕ và
phát triển các tính tốt việc tốt mà ḿnh đă có.
Muốn dưỡng tánh tinh tấn,
ta phải đề pḥng tính hấp tấp nóng nảy và
tính háo thắng trong khi làm việc giúp dân cứu nước.
Chỉ v́ nóng nảy, hấp tấp, và háo thắng, ta có thể
thất bại trong công việc. Nếu nóng nảy, hấp
tấp, và háo thắng, ta sẽ chóng nản và bỏ cuộc
khi gặp các khó khăn trở ngại. Làm việc ta phải
tuần tự nhi tiến, chuyên cần cũng như quyết
chí tiến tới, và cố gắng thêm măi đến khi ta
đạt được mục đích mới thôi.
- Kiên Chí: Kiên chí là giữ cho ư chí vững
vàng, bền bỉ, dẻo dai, và quyết tâm làm việc cho
tới thành công mới thôi. Có kiên chí ta mới làm được
việc lớn. Tinh tấn chủ về nỗ lực tiến
tới và cố gắng làm việc không chùn bước. C̣n
kiên chí là thường xuyên và liên tục cố gắng không
có ǵ làm cho ḿnh ngă ḷng. Muốn dưỡng tánh kiên chí, ta cần
hiểu rằng “đường đi khó không khó v́ ngăn
sông cách núi mà do ḷng người ngại núi e sông.” Đă có mục
đích đi tới, ta cần nhẫn nại kiên tŕ không
đổi ư, từ từ mà làm, và tuần tự mà tiến
th́ thế nào ta cũng thành công.
Nếu có bị người chê bai
hay có người t́m cách phá hoại công việc của ta
đang theo đuổi, ta lại càng phải thận trọng,
cố gắng hơn nữa, và chịu đựng bền
bỉ hơn nữa để trả lời họ bằng
cách hoàn thành công việc cho mỹ măn. Nếu đă chọn
đúng mục đích ta theo đuổi, bằng bất cứ
giá nào ta cũng phải hoàn thành mục đích đó và tâm
niệm rằng “dù ai nói ngả nói nghiêng th́ ta cũng vững
như kiềng ba chân, dù ai nói đông nói tây th́ ta cũng vững
như cây giữa rừng.” Đó mới đích thực là
kiên chí.
VII. Kết Luận
Cách mạng bản thân thật là
khó. Chính v́ thế mà có nhiều phương pháp để
ta học hỏi giúp cho việc cách mạng bản thân.
Việc tu thân của Nho Giáo chủ
ở sự hiểu biết tường tận cùng tính
thành ư và chánh tâm. Nó rất ích lợi cho những ai theo
đuổi công cuộc cách mạng giúp dân cứu nước.
Truyền thống vuông tṛn của tổ
tiên ta lại c̣n siêu việt hơn. Nó thật là thực tế
và khoa học trong việc giúp ta điều khiển guồng
máy xă hội một cách hữu hiệu.
Những đức tích căn bản
của người lănh đạo các tổ chức chánh trị
như trung tín, kiên tŕ, cẩn mật, thông minh tháo vát, và can
đảm là những bí quyết để lănh đạo
tổ chức đi đến thành công.
Chủ trương “tự lập
quốc dân” của cụ Phan Bội Châu chính là kim chỉ
nam cho toàn dân Việt và nhất là cho những ai muốn làm
cách mạng giúp dân cứu nước để noi theo. Thật
là tủi hổ cho quân Cộng Sản Việt Nam khi chúng
rước quân Tàu quân Nga về giầy xéo quê hương
để tàn sát đồng bào và đưa toàn dân “xuống
hàng chó ngưa” mà miệng chúng vẫn gian manh nói là có độc
lập, tự do, và hạnh phúc.
Tự lập không có nghĩa là không
cần nhờ vả ai. Tuy nhiên, ai cũng cần “tả
phù hữu bật.” V́ thế,
tự lập ở đây có nghĩa là lấy sức ḿnh
làm chính và trông cậy vào phương tiện của ḿnh làm
căn bản trước khi khởi sự làm việc ǵ.
Sự trợ giúp của ngoại nhân chỉ là phụ, có
càng tốt mà không có cũng không sao. Nếu trước khi
khởi sự mà chỉ ḥng trông vào việc giúp đỡ của
ngoại nhân là chính, ta sẽ vĩnh viễn làm nô lệ cho
ngoại nhân mà thôi.
Việc tu tâm dưỡng tánh của
nhà Phật thật là cao quí và bổ ích cho chúng sinh, nhất
là đối với những vị tu hành để độ
ḿnh độ người. Tuy nhiên, việc “tu tâm chúng sanh”
và “dưỡng tánh Phật” này nặng tính cách giáo dục
tôn giáo hơn là giáo dục con người thế tục.
Việc đời phức tạp
hơn việc đạo. Nếu mọi người theo
đúng như tinh thần từ bi hỷ xả của nhà
Phật th́ thế gian đă là cơi niết bàn từ lâu rồi.
Nếu mọi người đều làm được
như lời Phật dạy là vượt lên trên thiện
ác, không phân biệt người lành kẻ ác mà phải
thường hành b́nh đẳng th́ thế gian này chẳng
bao giờ có hận thù và chiến tranh. Đức Phật
đă phán rằng: “Nếu có người chặt cánh tay ta
và có người băng bó cánh tay cho ta, ta chẳng
thương và chẳng ghét ai.” Thật là siêu phàm vậy. Chỉ
có Phật mới làm được mà thôi.
Luật pháp thế gian và thường
t́nh của con người là phải phân biệt thiện
và ác để trừng trị những kẻ phạm pháp
và khuyến khích cũng như tưởng thưởng những
người làm điều thiện. Điều tốt nhất
là ta phải rút tỉa lấy cái hay của Đạo Phật
và cái hay của luật pháp tại các nước có chánh phủ
tôn trọng tự do dân chủ và nhân quyền để làm
cho đời thêm tươi đẹp.
Trong tất cả các cách tu thân nêu
trên không có điều nào trực tiếp đề cập
đến chữ hiếu. Tuy nhiên, nếu để ư kỹ,
ta thấy trong việc tu thân của Nho Giáo có bao trùm chữ
hiếu trong đó; trong tính vuông tṛn của tiền nhân cũng
có hiếu ở trong đó; trong tính trung tín cũng có hiếu
ở trong; trong tánh từ bi, trí huệ, lợi tha, nhẫn
nhục, thanh tịnh, tinh tấn, và kiên trí đều có hiếu
ở trong, và cuối cùng tính tự lập cũng là hiếu
vậy. Con cái mà tự lập được để
giúp dân cứu nước là đại hiếu vậy.
Người có hiếu chắc chắn là người có ích
cho xă hội. Người đă có hiếu mà làm cách mạng
giúp dân cứu nước th́ chắc chắn họ phải
thành công.
Cổ nhân có nói “Nhân sinh bách hạnh
hiếu vi tiên,” nghĩa là trong trăm nết tốt của
con người th́ hiếu đứng đầu. Hiếu
là rường cột của mọi nết ăn ở
trên đời. Kẻ bất hiếu th́ không thể thành
nhân được dù trong hiện tại có gặp may mà giầu
có quyền uy. Cái giầu có quyền uy đó chỉ là
sương buổi sớm hay bọt trên mặt biển.
Muốn trở thành con người hữu ích cho xă hội,
trước nhất ta phải là người con có hiếu
thảo v́ nếu cha mẹ ḿnh mà ḿnh không thương yêu và
phụng dưỡng th́ c̣n
giúp ích cho ai được.
Việc chính yếu của cách mạng
bản thân là phải “hành.” Các phương pháp tu thân nói ở
trên phần đông ai cũng biết, đôi khi c̣n biết
nhiều hơn thế nữa, nhưng đă mấy ai thực
hành cho đến nơi đến chốn những điều
ḿnh biết đâu. Biết mà không thực hành đúng với
điều ḿnh biết để giúp dân cứu nước
th́ cũng thành vô ích mà thôi. Cổ nhân thường nói là học
hành, tri hành, và tu hành. Phần đông người ta đều
có học, có tri, và có tu nhưng thiếu hành nên từ việc
đời đến việc đạo của chúng ta
không đi đến chỗ hanh thông và viên măn được.
Tu tâm dưỡng tánh để
độ ḿnh và độ người, tự giác để
giác tha, chứ không chỉ độ cho ḿnh và tự giác mà
thôi. Những người có tài có đức phải đem
cái tài cái đức đó ra giúp dân cứu nước mới
hợp với đạo lư làm người. Nếu không, họ
chỉ là loài vô dụng, c̣n thua kém đất đá cỏ
cây vậy.
Có kiến thức rộng phải
phổ biến kiến thức đó cho đời học
hỏi mới là thượng sách. Nếu chỉ lo cho ḿnh
để vinh thân ph́ gia th́ con người quả c̣n kém loài
ong loài kiến vậy. Loài ong loài kiến biết hợp quần
để tương trợ nhau.
Có những người không học
không tu mà hành vẫn có kết quả v́ người ta học
trong khi làm, nghề dạy nghề là vậy. Thế mới
hay cái hành là điều chính yếu đành rằng có học
có tu th́ hành mới có kết quả như ư muốn.
Nhưng nếu có học, có tri, và có tu mà không có hành th́ thật
là điều đáng buồn và đáng hổ thẹn vậy.
Nếu mọi người đều
tu học và thực hành theo các phương pháp cách mạng
bản thân nêu trên, chắc chắn đất nước
Việt chúng ta không thiếu những người có ḷng vị
tha, chí công vô tư, dễ tính, chịu khó thực hành những
điều phải, trung tín, từ bi hỷ xả, tự
lập, thành ư chánh tâm, ăn ở với nhau một cách
vuông tṛn, không ghen tị, không cậy công cậy của,
không hám danh tham quyền chuộng lợi một cách bất
chính, và nhiên hậu không cam tâm làm Cộng nô như những
bọn ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản.
Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ
giúp dân giải trừ chế độ xâm lăng Cộng
Sản ở quê nhà trong một tương lai gần
đây.
Một khi đă cách mạng
được bản thân th́ việc làm cách mạng giúp dân
cứu nước không phải là việc khó. Được
như thế th́ chúng ta ngẩng lên không thẹn với trời
và cúi xuống không xấu hổ ḿnh và với người.
Luận Về Nhân Bản
I. Nhân Bản
"Nhân bản" là một quan niệm
lấy con người làm gốc cho mọi sinh hoạt xă hội,
văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, chính trị, và
pháp luật, v.v. Con người tạo ra xă hội, do
đó con người phải nắm vai chủ tể xă hội
và đồng thời có nhiệm vụ tham dự và
đóng góp khả năng của ḿnh để duy tŕ và phát
triển xă hội. Con người ở đây có nghĩa
là tập thể những người sống trong một
xă hội chứ không phải là thiểu số cá nhân ưu
thắng thống trị hay ngụy trang dưới danh nghĩa
tập thể của bọn Cộng Sản. Con người
sống trong xă hội độc tài Cộng Sản chỉ
là thứ công cụ phục vụ một thiểu số
cá nhân thống trị.
Ngay cả trong xă hội Âu Mỹ,
người ta đang áp dụng thứ dân chủ h́nh thức
mà bề ngoài trông có vẻ y tuồng
là dân chủ. Con người trong xă hội Aâu Mỹ cũng
chỉ là thứ công cụ nhưng họ c̣n có chút nhân phẩm
và có chút nhân quyền. Sở dĩ các nước Âu Mỹ
c̣n đứng vững được là nhờ họ thừa
hưởng nếp dân chủ trong mấy trăm năm
nay. Tuy nhiên, nếp dân chủ h́nh thức này có nhiều khuyết
điểm, chẳng hạn như chính sách của quốc
gia đều do các nhà tư bản chi phối, những
người muốn ra nắm quyền quốc gia đều
phải giầu có mới có thể ra tranh cử được. Các phương thức giải
quyết nào, nếu có, cũng chỉ là nhằm mục
đích giải quyết tranh chấp quyền lợi các phe
nhóm mà thôi. Nền dân chủ h́nh thức này cũng không
đáp ứng được nhu cầu của con người,
tức là phúc lợi hiện thực của toàn thể mọi
người trong xă hội, th́ sớm muộn ǵ nền dân
chủ h́nh thức Âu Mỹ cũng phải suy tàn.
Con người có hai nhu cầu hết
sức cấp thiết. Đó là nhu cầu sinh tồn và
thăng tiến. V́ thế, con người, tức là toàn
dân, phải có quyền năng chi phối và quản trị
xă hội để đạt được các nhu cầu cấp thiết này và tạo
điều kiện để nhân phẩm và chân giá trị
con người phải được tôn trọng. Đây
là điều kiện cốt yếu để xây dựng
xă hội nhân bản.
II. Nhân Bản và Nhân Quyền
Trong một xă hội nhân bản, mọi
sinh hoạt được tiến hành theo lề lối
dân chủ nhân bản chứ không phải là thứ dân chủ
h́nh thức do một thiểu số cá nhân ưu thắng nắm
quyền như trong các xă hội Âu Mỹ hiện nay. Dân chủ
nhân bản đặt tầm quan trong ở nguyên tắc dân
chủ đồng thuận. Điều này có nghĩa là một
khi ư kiến của đa số được phát biểu
th́ thiểu số phải vui vẻ đồng ư nghe theo.
Không có t́nh trạng phá bĩnh, tẩy chay, hay chống đối.
Không ai có quyền phủ quyết cả.
Người đứng ra gánh vác
công vụ phải ư thức rơ là ḿnh đang gánh vác nhiệm
vụ để phục vụ quyền lợi cho dân chứ
không phải là nắm chức vụ để đem lại
quyền lợi cho riêng ḿnh hay bè phái ḿnh. Không thể có thái
độ kiêu binh, kể công, hay đ̣i đặc quyền
đặc lợi trong xă hội nhân bản. Con dân trong xă hội
nhân bản đều có trách nhiệm, bổn phận, và
quyền lợi ngang nhau. Chính v́ thế mà nhân bản và nhân
quyền luôn luôn gắn liền
với con người trong một xă hội nhân bản.
Nhân bản có thể được coi là nội công thâm hậu
và nhân quyền chính là những chiêu thế để thể
hiện nội công thâm hậu đó. Muốn cho xă hội con người
thăng tiến và sinh động, nhân bản và nhân quyền
phải có tương giao khắng khít cũng như phải
được phát triển song hành và đồng đều.
Trong các nước dân chủ h́nh thức
hiện nay, có biết bao phong trào đă đứng lên
đ̣i hỏi nhân quyền. Ở Âu Mỹ, v́ theo thứ dân
chủ h́nh thức nên họ đă quá chú trọng tới
nhân quyền mà coi nhẹ phần nhân bản. Chính v́ thiếu
sự gắn bó tương quan giữa nhân bản và nhân
quyền nên nền dân chủ h́nh thức Âu Mỹ tuy có vẻ
lôi cuốn, nhưng chắc chắn sẽ có ngày suy thoái. Ở
xă hội Đông phương, người ta có tinh thần
nhân bản là nhờ thừa hưởng nền triết học
lâu đời của Tam Giáo (Phật, Lăo, và Nho,) , nhưng
nhân quyền lại bị coi nhẹ. V́ thế mà xă hội
Đông phương của chúng ta bị lạc hậu và
con người chỉ là một công cụ.
Muốn có một xă hội nhân bản,
ta cần phải có cuộc cách mạng xă hội nhân bản
để giúp cho tinh thần nhân bản đă sẵn tiềm
tàng ở con người Đông phương có cơ hội
phát triển. Song song với cách mạng xă hội, con
người cũng cần được giáo hóa và tự
tu để phát triển nhân tính, làm chủ được
vật tính, và nhiên hậu hoằng dương được
nhân quyền và nhân bản.
III. Xă Hội Nhân Bản
Xă hội nhân bản là xă hội
trong đó phúc lợi hiện thực của toàn thể mọi
người phải được đảm bảo và cuộc
sống chung phải do mọi người góp sức tạo
thành. Xă hội nhân bản không đ̣i hỏi sự hy sinh
quá đáng của bất cứ ai ở hiện tại cho
một xă hội bánh vẽ tương lai. Bọn Việt
Cộng đă đưa bánh vẽ xă hội chủ nghĩa
để bắt toàn dân hy sinh đến độ "xuống
hàng chó ngựa." Ai muốn hy sinh công sức để
đóng góp cho xă hội nhân bản là do tự ư ḿnh t́nh nguyện
mà thôi. Xă hội nhân bản phải xây dựng bằng công
tŕnh đóng góp tích cực và tự nguyện của mỗi
người dân qua sự học tập cải tiến, qua
tri hành hợp nhất, và bằng nguyên tắc dân chủ
đồng thuận.
Tóm lại, trong một xă hội
nhân bản, toàn dân phải được nh́n nhận có giá
trị cao hơn cả, tức là người dân được
quư trọng nhất đúng như quan niệm triết học
của thầy Mạnh Tự
đă chủ trương: "dân vi quư, quân vi khinh." Nhân quyền phải được
tuyệt đối tôn trọng. Con người có quyền
thoát khỏi mọi áp lực của thiên nhiên, siêu h́nh, và
định chế xă hội. Người dân phải thực
sự có cơ hội đồng đều để
hưởng phúc lợi hiện thực cũng như để
đóng góp tài năng của ḿnh vào việc xây dựng xă hội.
Muốn xây dựng một xă hội
nhân bản, chúng ta phải thực hiện được
các nguyên tắc sau:
- Luật pháp của xă hội nhân bản
phải thực sự đảm bảo nhân quyền và dân
quyền cho mọi người dân trong xă hội. Mọi
người đều phải có cơ hội đóng góp
và hưởng thụ theo với nhu cầu hiện thực.
Muốn được như thế, nền dân chủ
nhân bản phải được tuyệt đối phát
triển, phương thức dân chủ đồng thuận
phải được nghiêm chỉnh áp dụng, và chủ
trương nhân quyền phải được triệt
để thi hành. Quyền tự do cá nhân và tập thể
phải được tôn trọng. Điều này có nghĩa
là quyền tự do cá nhân không thể phương hại
đến quyền tự do và an sinh của tập thể
và ngược lại.
- Những trường chuyên nghiệp
có các chương tŕnh huấn nghiệp ngắn hạn và
thực dụng phải được khuyến khích để
giúp người dân có công ăn việc làm xứng đáng.
- Các chương tŕnh lành mạnh
vui tươi về giải trí, truyền thanh, truyền
h́nh, báo chí, văn nghệ, và thể dục thể thao phải
được triệt để nâng đỡ và phát triển
theo tinh thần nhân bản.
- Những kẻ phạm pháp phải
được giáo hóa và có cơ hội làm lại cuộc
đời. Muốn được thế, những trung
tâm chỉnh huấn và hướng nghiệp phải
được phát triển theo với nhu cầu của từng
giai đoạn.
- Những nhân tài phải được
trọng dụng xứng đáng theo với khả năng
của họ. Giáo dục tiểu học và trung học
đệ nhất cấp phải là chương tŕnh cưỡng
bách giáo dục với sự giúp đỡ đầy đủ
của chính quyền địa phương và trung
ương. Phong trào khuyến học phải được
giúp đỡ đến nơi đến chốn để
mọi người dân đều có thể biết đọc
biết viết. Các thư viện cho người lớn
và trẻ em phải được mở ra ở khắp
nơi để đáp ứng nhu cầu học hỏi của
quảng đại quần chúng.
- Các tạp chí chuyên nghiệp dành
cho mỗi ngành nghề phải được khuyến
khích và giúp đỡ trong việc phát hành hầu tạo
điều kiện cho các chuyên viên có phương tiện
tiến tu nghề nghiệp.
- Chương tŕnh y tế vệ
sinh pḥng ngừa và chữa trị phải được
phổ biến để giáo dục mọi người. Y
tế pḥng ngừa phải là chương tŕnh cưỡng
bách cho toàn dân. Cải cách môi sinh, trong đó có nước uống,
không khí, cống rănh sông hồ, đường sá lưu
thông, xe cộ, cây cỏ, đất đai, rừng núi, công
viên, nhà cửa, v.v. phải luôn luôn được chăm
nom, cải tiến, và bảo vệ để bảo đảm
đời sống trong lành, mạnh khỏe, và vui
tươi cho dân chúng và gia súc cùng chim muông.
- Chương tŕnh an sinh xă hội
phải được nghiên cứu sao cho mọi người
dân có cơ hội thụ hưởng đồng đều,
hợp lư, và công bằng.
- Sự giao dịch giữa những
người trong xă hội phải được nuôi
dưỡng và khuyến khích trong tinh thần tín nghĩa,
tương kính, tương thân tương ái, tương
trợ, và tri hành hợp nhất một cách cụ thể
và thực tiễn.
IV. Học Đường Nhân Bản
Trong môi trường học
đường nhân bản, học sinh phải được
coi trọng. Nhà trường phải t́m mọi cách để
giáo dục và phục vụ học sinh trong tinh thần nhân
bản. Con em chúng ta là rường cột của xă hội
sau này. Muốn tạo một xă hội nhân bản có cơ
sở vững vàng, ta phải xây dựng nhà trường
nhân bản trước đă.
Sau đây là những nguyên tắc chúng ta cần phải
t́m hiểu và thực hiện để xây dựng một
học đường nhân bản:
- Trẻ em không phải là người
lớn thu nhỏ. Trẻ em có một nhân vị riêng, có quyền
sống và thăng tiến theo các đặc tính của từng
lứa tuổi. Mỗi lứa tuổi có nhu cầu phát triển
riêng về các phạm vi trí tuệ, thể xác, xă hội, và
t́nh cảm một cách đồng đều và song song. Giáo
dục phải đáp ứng đúng nhu cầu của mỗi
trẻ và mỗi lứa tuổi. Tùy theo trẻ, tùy theo lớp
tuổi, và tùy theo địa phương để soạn
thảo chương tŕnh giáo dục riêng. Không thể bắt
trẻ tuân theo những ǵ người lớn muốn, tuy
nhiên người lớn phải tạo điều kiện
cho chúng có cơ hội chọn lựa những ǵ cần học
hỏi theo với năng khiếu và sở thích của
chúng.
- Phụ huynh, thầy cô, nghị
viên, đại diện các cơ quan, các tổ chức hội
đoàn, đại diện chính quyền, cùng đại diện
các cơ quan giáo dục phải
cộng tác trong việc soạn chương tŕnh giảng
dạy và tuyển chọn các sách giáo khoa cho mỗi cấp
lớp. Từ bậc trung học trở lên, phụ huynh,
đại diện học sinh ở các lớp, các phân khoa,
cũng như đại diện các hăng xưởng công kỹ
nghệ liên hệ phải được mời đến
để tham khảo ư kiến trong việc soản thảo
chương tŕnh giáo dục. Chương tŕnh phải khả
dụng phù hợp với hoàn cảnh và con người
địa phương, tinh thần dân tộc, và nhu cầu
của đất nước trong khi vẫn theo kịp sự tiến bộ về khoa học kỹ
thuật hiện đại của nhân loại.
- Sự cộng tác tích cực của
phụ huynh với nhà trường phải được
nâng đỡ và phát triển về mọi mặt.
- Thầy cô cần phải
được tu nghiệp định kỳ và được
khuyến khích để đạt được các công
tŕnh nghiên cứu có giá trị cũng như được
giúp đỡ để lấy thêm các chứng chỉ hay
văn bằng chuyên môn có liên hệ
tới môn giảng dạy.
- Lương bổng của giáo chức
phải được trả căn cứ vào khả
năng chuyên môn nghề nghiệp chứ không được
căn cứ vào cấp lớp giảng dạy. Điều
này có nghĩa là nếu một nhà giáo có tiến sĩ về
âm nhạc mà dạy âm nhạc ở bậc tiểu học,
trung học, hay đại học th́ nhà giáo này phải
được trả lương giống nhau, tức là
trả lương theo khả năng và cấp bằng
chuyên môn chứ không căn cứ theo việc dạy ở
bậc tiểu học, trung học, hay đại học.
- Mọi
sinh hoạt ở học đường từ việc học
tới việc quản trị phải được tất
cả ban giảng huấn, nhân viên, phụ huynh, và học
sinh tích cực đóng góp ư kiến và tham gia.
-
Chương tŕnh giáo dục phải nhằm đạo tạo
học sinh thành con người với nghĩa cao cả của
nó chứ không chỉ chú trọng vào việc giúp học sinnh kiếm tiền
hay kiếm việc làm sau khi tốt