nghiệp. Phương pháp giảng
dạy phải chủ trọng vào tinh thần "tiên học
lễ hậu học văn" để đào tạo học
sinh thành con người toàn diện với đầy đủ
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, và liêm sỉ.
V. Gia Đ́nh Nhân Bản
Thường th́ gia đ́nh là nền
tảng của xă hội. Muốn có một xă hội nhân bản,
chúng ta phải xây dựng gia đ́nh nhân bản trước
theo các nguyên tắc sau:
- Gia đ́nh nhân bản là gia đ́nh
mà mọi người trong đó đều phải tôn trọng
lẫn nhau, chiều chuộng nhau, săn sóc nhau, và hy sinh
cho nhau. Ngoài ra, những người
trong một gia đ́nh phải được hưởng
mọi quyền lợi đồng đều theo với
nhu cầu hiện thực. Không ai được để
thân nhân hy sinh cho ḿnh một cách quá đáng như cảnh mẹ
nhịn ăn để nuôi con hoặc vợ làm tôi mọi
cho chồng hay ngược lại. Sự hy sinh một cách
quá đáng này không thể xảy ra ở một gia
đ́nh nhân bản. Ngoài ra, gia đ́nh nhân bản đă có xă hội
nhân bản hỗ trợ khi gia đ́nh này gặp cảnh
khó khăn hay túng thiếu.
- Để bảo đảm nhu cầu
sinh tồn, mỗi cá nhân trong gia đ́nh phải được
ăn no mặc ấm và có đời sống thoải mái
lành mạnh. Về nhu cầu thăng tiến, gia đ́nh phải
cung cấp cho mỗi cá nhân tiện nghi để học,
làm việc, và sinh hoạt. Con cái tới tuổi đi học
phải được cho đến trường theo học
cho tới khi trưởng thành.
- Mỗi cá nhân có quyền làm theo sở
thích trong khuôn khổ và nếp sống gia đ́nh. Điều
này có nghĩa là mỗi người trong gia đ́nh có quyền ăn cái ǵ ḿnh muốn, mặc cái
ǵ ḿnh thích, học cái ǵ ḿnh ưa, làm bạn với ai ḿnh
muốn, và lập gia đ́nh với người ḿnh yêu. Tuy
nhiên, mọi người trong
gia đ́nh phải tuân theo gia pháp
để giữ hạnh phúc cho gia đ́nh cùng sự
thoải mái cho mọi người
trong lúc sống chung với nhau.
VI. Tổng Luận
Quốc gia nhân bản hay xă hội
nhân bản phải là mục tiêu cho toàn dân một nước
và cả nhân loại phải đạt tới cho bằng
được. Nó rất dễ được thực hiện
nếu mỗi người trong chúng ta đều mơ
ước và quyết chí làm.
Công cuộc cách mạng nhân bản phải cần nhiều
thời gian và sự cống hiến của nhiều
người. Điều quan trọng là phải cần một
số người có duyên nghiệp với nhau và có cùng suy
tư về vấn đề xă hội nhân bản đứng
lên khởi xướng để làm vật xúc tác. Có xướng
tất có họa nếu đa số chúng ta là những người có cùng tâm
tư lư tưởng. Từ đó một giềng mối sẽ
được h́nh thành và mọi người sẽ
đóng góp, nhiên hậu mục tiếu xây dựng xă hội
nhân bản sẽ đạt được.
Có điều là trong lúc đầu,
sự hồ hởi rất dễ tạo thành và có nhiều
người tài trí hưởng ứng, nhưng trong trường
kỳ, rất hiếm có người đứng ra lo việc
tranh đấu và hy sinh đến cùng đối với việc
đại nghĩa của dân tộc. Trong khi đó th́ tụi gian manh phản
phúc phản quốc, quân ham danh quyền lợi bất
chính, và lũ cướp của giết người
như bọn Cộng Sản Việt Nam lại "trường
kỳ" cấu kết với nhau để bán nước
cầu vinh, hủy hoại
truyền thống và văn hóa dân tộc, và biến dân làm
nô lệ cho ngoại bang và tập đoàn thống trị của
chúng. Điều này cho chúng ta thấy rằng muốn đạt
tới một xă hội nhân bản cho đất nước
Việt Nam, chúng ta phải trang bị một tinh thần hy
sinh cao độ v́ con đường xây dựng xă hội
nhân bản c̣n dài mà chông gai vô kể.
Trở ngại chính của việc
xây dựng một xă hội nhân bản là có sự hiện
diện của bọn Việt Cộng. V́ thế muốn
xây dựng xă hội nhân bản, chúng ta làm sao phải giải
trừ chế độ Cộng Sản Việt Nam trước
đă v́ ngày nào bọn Việt Cộng c̣n tồn tại th́
ngày đó chúng ta vĩnh viễn không thể nào xây dựng
được một xă hội nhân bản mà chỉ có con
đường "xuống hàng chó ngựa" thôi.
Rất mừng là những anh chị
em đang hoạt động để làm cuộc cách mạng
xă hội nhân bản đều tin tưởng rằng có
chí th́ nên và có công mài sắt có ngày nên kim. Quả là một đại hạnh!
Đạo Phật và Nhân Bản
I. Nhân Bản
Một trong những nghĩa của
nhân bản là cách nh́n nhận con người có giá trị
cao quí hơn cả. Nhân bản lấy con người làm gốc
cho mọi sinh hoạt đời sống của gia
đ́nh, xă hội.
Gia đ́nh nhân bản là gia đ́nh
trong đó mọi người phải tôn trọng lẫn
nhau, chiều chuộng nhau, săn sóc nhau, hy sinh cho nhau, và
được hưởng mọi quyền lợi đồng
đều theo với nhu cầu hiện thực. Cha mẹ
hết ḷng thương yêu dạy bảo con cái, con cái hết
ḷng hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em phải
có đễ với nhau, trên kính dưới nhường, cũng
như giữ sự ḥa thuận với nhau, và sau hết, vợ
chồng phải tương kính như tân (chữ tân ở
đây có nghĩa là khách).
Xă hội nhân bản là xă hội
trong đó phúc lợi hiện thực của toàn thể mọi
người phải được bảo đảm và cuộc
sống chung phải do mọi người góp sức tạo
thành. Xă hội nhân bản không đ̣i hỏi sự hy sinh
quá đáng của bất cứ ai ở hiện tại cho
một xă hội bánh vẽ tương lai. Ai muốn hy sinh
công sức để đóng góp cho xă hội là do tinh thần
tự nguyện. Xă hội nhân
bản phải được xây dựng bằng công tŕnh
đóng góp tích cực và tự nguyện của mỗi
người dân qua sự học tập cải tiến, tri
hành hợp nhất, và bằng nguyên tắc dân chủ đồng
thuận. Nguyên tắc dân chủ đồng thuận ở
đây có nghĩa là khi một vấn đề nằm trong
khuôn khổ lễ giáo, phong tục, pháp luật, và tôn chỉ
cùng mục đích của một quốc gia hay một tổ
chức mà đă được đa số đồng ư
th́ những người c̣n lại phải vui vẻ nghe
theo và làm theo chứ không được tẩy chay, phá bĩnh,
hay chống lại.
Con người có quyền giải
thoát mọi áp lực của thiên nhiên, siêu h́nh, định
chế, và xă hội. Người dân phải thực sự
có cơ hội để hưởng phúc lợi hiện
thực cũng như đóng góp tài năng vào việc xây dựng
xă hội một cách b́nh đẳng. Luật pháp của xă hội nhân
bản phải thực sự đảm bảo nhân quyền
và dân quyền cho mọi người trong xă hội.
II. Đạo Phật Và Nhân Bản
1. Chuyển Mê Khải Ngộ Là Mục
Đích để Xây Dựng Xă Hội Nhân Bản
Tôn chỉ và mục đích thực
tiễn của giáo lư nhà Phật là giải thoát con người
khỏi mọi phiền năo và đau khổ. Để
đạt mục đích này, đạo Phật đă
đề cao chúng sinh và phục vụ chúng sinh, tức con
người, để giúp họ chuyển mê khải ngộ
ngơ hầu giải thoát mọi khổ đau hầu có tâm
b́nh hạnh trực.
Nhờ có tâm b́nh hạnh trực mà chúng sinh mới sống an lạc
thái ḥa trong một xă hội không có hận thù tranh chấp
và thoát khỏi mọi phiền năo. Đó là xă hội nhân bản. Hơn nữa, có được
tâm b́nh hạnh trực, con người mới phát huy
được tri huệ bát nhă, điều cốt lơi
để xây dựng xă hội nhân bản. Có được
tâm b́nh hạnh trực, tự nhiên ta giác ngộ thành Phật.
Nhà Phật đă dạy “tâm b́nh hà
lao tŕ giới, hạnh trực hà dụng tu thiền.”
Điều này có nghĩa là nếu có tâm b́nh th́ ta không cần
phải cố gắng “tŕ giới” mà vẫn giữ
được ḷng thanh tịnh và tránh được các
điều cấm kỵ một cách tự nhiên. Chữ
b́nh trong từ tâm b́nh có nghĩa là b́nh đẳng. Nếu
có hạnh trực th́ ta không cần phải “tu thiền” mà
vẫn đạt tới tri huệ bát nhă. Chữ trực
trong từ hạnh trực có nghĩa là chánh đáng và không
thiên lệch bên nào. Nhờ có
tâm b́nh hạnh trực, con người mới có khả
năng đoạn tuyệt tam độc (tham lam, tức
giận, và ngu si), tứ tướng, và bát tà.
a.Tứ tướng c̣n gọi là tứ
chủng tướng, tức là bốn tướng của
những kẻ chỉ biết những cái giả tạo
mà không biết cái chân như thật tướng của
ḿnh và vạn vật. Tứ tướng này gồm co:ù
- Nhân tướng (tướng
người): phân biệt người và ta, khinh người,
và cạnh tranh hơn thua cao thấp một cách bất
chính.
- Ngă tướng (tướng ḿnh):
phân biệt của ta của người, tự cao tự
đại, chỉ biết có ḿnh, cho ḿnh là đạo đức
hơn người, ích kỷ, đố kỵ, và ganh ghét.
- Chúng sanh tướng (tướng
chúng sanh): nhiễm lục thức, lục trần, lục
dục, và thất t́nh. Ngoài ra, c̣n đắm ch́m trong tham sân
si và có tà kiến.
- Thọ giả tướng (tướng
thọ mạng dài hay ngắn): đắm mê vật chất
và ham sống lâu đặng hưởng khoái lạc trần
gian.
b. Bát tà, theo nghĩa của nhà Phật,
là tám điều tà vạy mà chúng sinh thường mắc
phải, trái với bát chánh
đạo. Đó là: tàn kiến (hiểu biết không ngay
chánh) , tà tư duy (suy nghĩ tưởng niệm không chánh
đáng) , tà ngữ (nói năng bất chánh), tà nghiệp
(không theo con đường ngay chánh để làm lụng
và tạo nghiệp) , tà mạng (không theo con đường
ngay chánh để mưu sinh), tà tinh tiến (thăng tiến
theo con đường bất chánh), tà niệm (nhớ nghĩ
bất chánh), và tà định (không biết định tâm
theo đường chánh mà lại đưa tâm thần vào
tà đạo).
Có đoạn tuyệt với tam
độc, tứ tướng, và bát tà, chúng sinh mới có cơ hội
chuyển mê khải ngộ để có tâm b́nh hạnh trực
và nhiên hậu mới t́m thấy
đất Phật hay tịnh thổ (tịnh độ),
tức là cơi Tây phương cực lạc hay Niết Bàn ở
ngay tại thế gian này. Chúng ta có thể nói đây là một
h́nh thức tuyệt mỹ của xă hôi nhân bản.
Ngoài các nghĩa đă đề cập ở trên,
tứ tướng c̣n bao gồm:
- Bốn tướng khổ của
loài người: sanh, lăo, bệnh, và tử. Bốn tướng
này làm cho mọi người đều phải chịu khổ
sở.
- Bốn tướng của sự
biến chuyển tự nhiên trong vạn vật: sanh (sinh ra
lớn lên), trụ (tồn tại), dị (dời đổi
bất thường), và diệt (tiêu diệt).
- Bốn tướng chân chính của
các vị tu hành: hành, trụ, tọa, và ngọa. Những
nhà tu hành chân chính th́ dù là khi đi, khi đứng, khi ngồi,
hay khi nằm cũng đều nhiếp tâm và không để
cho tâm tán loạn.
Việc giải thoát của nhà Phật nhằm giúp
chúng sinh thấy rơ sự sai trái của mọi nhận thức
thông thường, mọi cảm giác cũng như t́nh cảm
trần tục, mọi lề lối tư tưởng
hàng ngày, cũng như việc nhận ra bề trái của
sự đời để vượt qua và vượt
lên khỏi các sự mâu thuẫn của thị phi, thiện
ác, vinh nhục, nôi ngoại, và tâm vật. Có như thế, chúng sinh mới
có thể đi vào thế giới
quan, trong đó, các cặp mâu thuẫn trên không c̣n chỗ
đứng, tức là không có mâu thuẫn nữa, và mọi
người được giải thoát khỏi khổ
đau và phiền năo.
Giải thoát không cần phải ĺa
cơi đời và không cần phải vào chốn sơn lâm
hay tịnh xá để tu mà là chấp nhận và nh́n thẳng
vào cuộc đời bằng tri huệ bát nhă để
thông hiểu mọi lẽ và an nhiên tự tại mà sống.
Giải thoát không những không phải ĺa thế gian mà c̣n phát xuất tự thế
gian.
Hiện hữu vốn là thực
tướng chân lư và thực tại nguyên trạng. V́ mê muội, tức vô minh, ta không
vận dụng nổi tri huệ bát nhă để nh́n cho rơ
hiện tượng nên chúng ta mới lấy cái giả làm cái chân mà thôi,
và nhiên hậu tạo thành một xă hội thiếu tính nhân
bản.
Bằng luận lư biện chứng,
ta ư thức được cái khổ và chiến thắng
cái khổ bằng cách truy nguyên cái khổ để tự
giải thoát. Luận lư biện chứng ấy là Tứ Diệu
Đế. Đây là bốn
chân lư mầu nhiệm, c̣n gọi là Tứ Thánh Đế, Tứ
Đế, Tứ Chân Đế, và Tứ Thánh Thật. Tứ Diệu Đế gồm có:
- Khổ Đế: Đời là bể khổ. Sinh,
lăo, bệnh, và tử là những cái khổ chính. C̣n có những
cái khổ khác như gần kẻ mà ḿnh không muốn gần,
xa người ḿnh thương yêu hay những ǵ ḿnh ưa
thích, thiết tha ước vọng mà không được, được rồi cũng khổ
v́ sợ mất, được
cái ḿnh ghét lại càng khổ, bất măn hay mất quân b́nh về
ngũ uẩn gồm sắc (thân thể), thọ (cảm
giác), tưởng (tư tưởng), hành (hành vi), và thức
(ư thức) lại càng khổ hơn.
- Tập Đế: Sự khổ vốn
có nguyên nhân kết tập từ lâu. Nguyên nhân khổ là vô
minh, tham, sân, si, và vọng động. V́ vô minh, tham, sân, si, và vọng
động nên con người ham sống, thích vui sướng,
và càng được lại càng ham nên sinh ra khổ v́ không
bao giờ thấy đủ. Đây là nguồn gốc của
sự khổ. Trong từ vọng
động, chữ vọng có nghĩa là càn bậy, bậy
bạ, và sai trái.
- Diệt Đế: Muốn khỏi
khổ năo, ta phải phải có phương pháp để
trừ sự khổ năo. Phương pháp đó là ta phải
hạ cái ḷng tham xuống, dần dần bỏ nó đi, và
cuối cùng phải cố loại trừ nó cho bằng
được. Điều này có nghĩa là chúng ta phải
trừ bỏ ái dục và những điều liên quan tới
ái dục ra khỏi ḿnh để thoát ly phiền năo.
- Đạo Đế: Con
đường diệt khổ để giải thoát vĩnh
viễn kiếp thân đau khổ của ta là con đường
“Bát Chánh Đạo” (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
và chánh định).
Chính v́ thế, đạo Phật
được mệnh danh là Đạo giúp ta nhập thế
để cứu thế và hoằng dương nhân bản.
Đạo Phật là đạo của chân lư và t́nh
thương. Chân lư và t́nh thương là hai yếu tố
chính cấu tạo thành xă hội nhân bản.
2. Chân Lư Của Các Mối Liên Quan Giữa
Các Sự Vạât Giúp Xây Dựng Xă Hội Nhân Bản
Giáo lư của Phật tŕnh bày rất
rơ về chân lư của những mối liên quan giữa các sự
vật hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày để
giúp con người đạt được chính kiến
và mở rộng cơi ḷng để
nhận thấy ánh sáng chân lư
nhằm xây dựng một xă hội công b́nh và hạnh
phúc, tức là Xă Hội Nhân Bản.
Giáo lư nhà Phật rất hữu hiệu
trong việc đào tạo con người toàn diện và
giúp chúng sinh biết tôn trọng phẩm giá và nhân cách của
tha nhân. Mối tương quan giữa các cá nhân trong một
Xă Hội Nhân Bản được thể hiện bằng
ḷng từ bi hỷ xả. Từø
là ḷng thương yêu rộng lớn, ban vui, và cứu khốn
pḥ nguy cùng khắp cả. Bi là ḷng tôn trọng mạng sống
và quyền sống, tức là đức hiếu sinh. Hỷ là ḷng hoan hỉ, không oán giận
hận thù ai. Xả là bố
thí, rời bỏ, và hy sinh để xa ĺa mọi phiền
năo hầu có được ḷng tha thứ bao dung tất cả
mọi người.
Đạo Phật giải nghĩa
các hiện tượng siêu h́nh, các sự kiện tâm linh,
t́nh cảm, lư trí, và hành động một cách rất khoa học
bằng thuyết Nhân Duyên và Thập
Nhị Nhân Duyên.
a. Nhân Duyên: Nhân là cái nguyên do chính phát
sinh ra quả, chẳng hạn như hạt dưa sinh ra
cây dưa. Duyên là những
nguyên do hỗ trợ cho nhân, giúp cho nhân sinh quả, chẳng
hạn như đất, nước, phân bón, khí hậu,
ánh sáng, và công sức của người trong việc
chăm nom săn sóc cây. Nhờ nhân duyên ḥa hợp nhau mới
sinh ra các pháp, tức là vận vật. Chúng sinh và muôn vật
đều không có tự tánh, chỉ nhờ có nhân duyên ḥa hiệp
mà in tuồng như có. Chỉ
v́ nhân duyên ly tán nên in tuồng như không.
b.Thập
Nhị Nhân Duyên: Phật giáo c̣n có thuyết Thập Nhị
Nhân Duyên, tức là 12 nguyên nhân
tương thuộc đă gây ra nghiệp luân hồi. Mười
hai cái nhân duyên cứ xoay vần bắt đầu bằng
mê muội (vô minh) từ đời trước gây ra nghiệp
phiền năo để gieo trồng (hành) chủng tử khổ
nên mới bị quả nghiệp đầu thai (thức)
sinh ra thân sắc (danh sắc) đủ cả lục
căn (lục nhập). Rồi v́ tai nghe mắt thấy mà
có xúc cảm theo ngoại giới (xúc).
Sau khi biết thương yêu say
đắm và cố đeo đuổi cái ham muốn (ái) nên
mới bị ham muốn nó trói buộc làm khổ ta. V́ ham
muốn, ta mới cố lôi kéo điều ḿnh muốn về
cho ḿnh và hễ ḿnh tha thiết lôi kéo nắm giữ, thụ
hưởng, chiếm đoạt (thủ) nó th́ ḿnh càng làm
tôi tớ cho nó. V́ tưởng
rằng những cái ḿnh có (hữu) là chắc là bền nên
ta mới tham lam để gây phiền năo, vướng vào
đau khổ, và ngụp lặn trong luân hồi để
phải chịu cảnh tái sinh (sanh), già đi (lăo), và phải
chết (tử).
Luân hồi được quan niệm
là cái ta chuyển từ kiếp này đến kiếp khác
để gánh chịu phiền năo hoặc hưởng phúc.
Theo đạo Phật, cái ngă, tức là cái ta, là nguyên nhân
chính gây ra những thứ hành
vi và tư tưởng ích kỷ hẹp ḥi. Chính v́ thế
nhà Phật mới chủ trương vô ngă.
Nhờ thuyết Thập Nhị
Nhân Duyên, ta có thể giải thích hoạt động của
nghiệp lực để giúp chúng sinh hiểu nguồn gốc
của khổ đau là do đâu mà có. Nguồn gốc
đau khổ là do sự ngu tối u mê của con người
mà nhà Phật gọi nó là vô minh. V́ vô minh, người ta mới
đàn áp nhau, tranh quyền đoạt lợi, tạo hận
thù chém giết lẫn nhau, nhiên hậu con người không
c̣n có chút nhân quyền và nhân bản nào cả. Thuyết Thập
Nhị Nhân Duyên có tác dụng bác bỏ các yếu tố thần quyền và đưa thần
linh ngang hàng hay b́nh đẳng với con người, tức
là nhân bản được tôn trọng.
Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên cũng
phủ nhận cái điều gọi là thường trụ
(lúc nào cũng như vậy) của các hiện tượng,
đồng thời phủ nhận cả ngă chấp và pháp
chấp. V́ có ngă chấp (chấp có ḿnh và có thân ta), chúng sinh
không hiểu là thân con người do tứ đại
(đất, gió, nước, lửa) và ngũ uẩn (xác thịt,
cảm giác, tư tưởng, hành vi, và ư thức) tạm
thời ḥa hợp mà có nên cứ coi trọng cái ngă, tức
là cái ta. Do đó con người mới gặp nhiều phiền
năo, mê vọng, và đau khổ mà nhà Phật gọi là ngă chấp
phiền năo tướng. Có chấp ngă th́ có khổ năo.
V́ có pháp chấp (chấp vạn vật
có thật tánh), chúng sinh cứ tưởng rằng vạn vật
là trường tồn. Thực ra, vạn vật đều
do nhân duyên ḥa hợp mà sanh ra. Khi nhân duyên ly tán th́ vạn vật biến mất. Tất cả
đều là vô thường, khi có khi không, như ảo
như hóa, và vốn không trường tồn. Có pháp chấp
nên chúng sinh đi vào con đường lầm lạc.
III. Những Điểm Chính Trong
Giáo Lư Nhà Phật Liên Quan Đến Việc Xây Dựng Con
Người Nhân Bản
1. Phật Tánh, Lơi Cốt Của
Nhân Bản
Phật đă dạy là mỗi chúng
sinh đều có Phật tánh.
Phật tử phải tu hành sao để biết
được bổn tâm, thấy được bổn
tánh th́ sẽ thông hiểu mọi lẽ để giác ngộ,
tức là kiến tánh thành Phật. Giáo lư của Phật
đặt con người trước trách nhiệm của
chính cuộc đời ḿnh, hay dở là do ḿnh tự tạo
ra mà thôi.
Bổn tánh của ta vốn thanh tịnh,
ta chỉ cần giữ cho nó thanh tịnh là được. Muốn được như thế,
ta phải nghiên cứu học đạo và áp dụng những
điều ḿnh đă biết vào mọi sinh hoạt trong
đời sống. Đó là tu và hành vậy.
Muốn tu hành, phải tự ḿnh
t́nh nguyện phát khởi, không thể trông cậy vào ai hay
chịu dưới một áp lực nào. Chúng ta phải tự
ḿnh tịnh tâm, tự ḿnh tu đạo, tự ḿnh nhận
rơ thấy tánh Phật và tâm Phật nơi ḿnh, tự ḿnh độ rỗi cho ḿnh và cho
tha nhân, và tự ḿnh giới răn lấy ḿnh.
Mọi người là những vị
Phật trong tương lai. Đă vốn có Phật tánh và
khả năng thành Phật, ta chỉ cần làm biểu lộ
Phật tánh là thành Phật.
Chúng sinh phải tự ḿnh thắp
đuốc lên mà đi, hăy tự tinh tiến để giải
thoát, hăy quay lại với ḿnh v́ chính ḿnh là Phật, cha mẹ
ḿnh khi c̣n sống cũng là Phật, và gia đ́nh ḿnh lại
là nơi tu hành có tác dụng tốt đẹp nhất. Nói
tóm lại Phật tánh chính là lơi cốt nhân bản của
con người vậy.
2. B́nh Đẳng, Nền Tảng Của
Nhân Bản
Muốn duy tri và phát huy nhân bản,
con người phải thực hành được hạnh
b́nh đẳng. B́nh đẳng
là t́nh trạng xă hội mà mọi người dân sống
trong đó phải có nhân quyền, nghĩa là mọi người
phải được tôn trọng và được đối
đăi ngang nhau.
Nhà Phật dạy chúng sinh phải
thường hành b́nh đẳng đối với mọi
người, tức là không phân biệt cao hạ, thâm hiểm,
quí tiện, bần phú, nam nữ, và lăo ấu. Ta nên có ḷng từ
bi để thương mọi người như nhau mà
không phân biệt quen lạ, hay oán thân. Phật và Bồ Tát có trọn ḷng
từ bi đối với tất cả chúng sinh và
thương xót chúng sinh như nhau. Ḷng từ bi một cách
b́nh đẳng này được gọi là b́nh đẳng
đại bi.
Có tâm trí chánh giác đối với
chúng sanh và vạn vật, lấy lư và trí phối hợp với
nhau một cách b́nh đẳng, chúng ta đạt tới
tŕnh độ b́nh đẳng giác (tâm trí chánh giác của
đức Như Lai).
Cái tánh b́nh đẳng đối với
vạn vật được gọi là chân như, tức
là tánh Phật hay b́nh đẳng tánh. Khi đạt
được lẽ b́nh đẳng, tức là không chấp
ngă và không chấp pháp, chúng sinh mới có được b́nh
đẳng tánh trí (tánh trí của người đắc lẽ
b́nh đẳng).
B́nh đẳng cốt do ở tâm
mà ra, không thể bắt buộc ai phải thi hành b́nh đẳng
được. Muốn có tâm b́nh đẳng, ta phải phá
trừ nhăn kiến nhị
nguyên, tức là bỏ sự phân biệt tâm vật, hữu
vô, nội ngoại, bỉ ngă, tâm trí, thiện ác, và sinh tử.
Có như thế chúng sinh mới kiến tánh thành Phật và
tự giác giác tha để xây
dựng con người và xă hội nhân bản. Đây là
pháp môn b́nh đẳng bất nhị của nhà Phật. Có
tâm b́nh đẳng, con người mới trừ được
vọng kiến và đạt được tri huệ bát
nhă. Vọng kiến công nhận cái giả hữu là sự
thật trong khi tri huệ bát nhă
phủ định cái giả hữu là không thật.
3. Tu Tâm Dưỡng Tánh,
Phương Tiện Xây Dựng Con Người và Xă Hội
Nhân Bản
Nhằm giúp con người sống
xứng đáng với thiên chức là con người, tức
là con người nhân bản,
Phật dạy chúng sinh phải tu tâm dưỡng tính
để tránh nô lệ vào cái h́nh hài giả tạo do tứ
đại hợp thành (đất, hơi, nước, và lửa).
Tâm có chân tâm và vọng tâm. Chân tâm là căn bản của Bồ
Đề và Niết Bàn. Vọng
tâm là căn bản của phiền năo. Tu làm sao để đạt tới
chân tâm và có được bát nhă trí hầu giúp ḿnh thông suốt
mọi sự. Có như thế, th́ ta mới xa ĺa được
ái, thủ, và hữu, không c̣n vọng
tâm, và nhiên hậu tránh được phiền năo.
Để đào tạo con người
với đầy đủ ư nghĩa của nó, tức là
con người nhân bản, giáo lư nhà Phật lấy ḷng từ
bi hỷ xả, trí bát nhă, và tâm b́nh đẳng vô nhị
để xóa bỏ mê tối khổ đau nhằm đạt
đến đại bi, đại trí, và đại hùng. Sức
mạnh của đạo Phật là ở điểm này.
Hoa sen là sức mạnh tinh thần, tượng trưng
cho Phật trong nghĩa gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Đại bi có nghĩa là ḷng
thương yêu sáng suốt, vị tha, và trải đều khắp cả.
Muốn đạt được đại bi, ta phải
tự nguyện hiến dâng và phục vụ cho công ích,
không nên lợi dụng ḷng tốt của người, trải
t́nh thương đều khắp cả, và tránh xa phiền
năo hận thù, ganh ghét, tham lam, tự phụ, đố kỵ,
và ích kỷ.
Đại trí có nghĩa là tâm trí
trong sáng mẫn tiệp, tức là bát nhă trí, hay trí sáng suốt tṛn đầy.
Muốn đạt tới đại trí, ta phải lấy
giác ngộ viên măn làm phương tiện chính, lấy giải
thoát phiền năo khổ đau làm mục tiêu tối thượng,
và sau cùng, ta phải t́m hiểu sự vật một cách
chính xác để chuyển hóa sự vật ấy.
Đại Hùng là chỉ ư chí và hành
động hợp t́nh hợp lư kèm theo tấm ḷng nhiệt
thành cùng khối óc sáng suốt và nghị lực quả cảm.
Muốn đạt được đại hùng, ta thấy
điều ǵ nên làm và cần
làm, ta phải làm cho bằng được.
4. Tam Qui, Ngũ Giới, và Thập
Thiện Chuyên Chở Nhân Bản
Muốn vượt khỏi mọi
khổ đau, không bị ai làm ḿnh khổ hay ḿnh không gây phiền
năo cho ai, mọi người phải dựa trên tinh thần
nhân bản để đối đăi với nhau, tức
là tinh thần b́nh đẳng, dân chủ, tự do, và
tương kính. Để giúp chúng sinh vượt mọi
khổ đau, nhà Phật khuyên chúng sinh nên tu theo tam qui, ngũ
giới, và thập thiện.
a. Tam qui là
qui y Tam Bảo: Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở
đây là giác (giác ngộ), Pháp ở đây là chánh (chánh
đáng), và Tăng ở đây là thanh tịnh, trong trẻo,
lạng lẽ, và không bợn nhơ. Tam qui c̣n được
gọi là vô tướng tam qui y hay qui y tự tánh Tam Bảo. Đó là qui y giác, qui y chánh, và qui y
tịnh.
* Qui y giác, chúng ta sẽ thoát khỏi
mê muội, biết đủ (tri túc), và xa ĺa được
của cải cùng mọi sự quyến rũ một cách
bất chánh trên đời.
* Qui y
chánh, chúng ta tránh được tà ư, không nảy sinh ư
bất chánh, không tự cao tự đại, không tham lam luyến
ái, và không bị ràng buộc hay câu nệ vào bất cứ
điều ǵ.
* Qui y tịnh, chúng ta không nhiễm
khổ ải, sung sướng, thương yêu, hay mọi
ham muốn trên đời. Ḷng lúc nào cũng trong trẻo lặng
lẽ, không bợn nhơ thế tục, và không bị xao
xuyến dao động.
b. Ngũ giới là 5 điều
răn cấm của nhà Phật gồm không sát sinh, không trộm
cướp, không tà dâm, không nói láo, và không uống rượu.
Có giữ được ngũ giới, ta mới giải
trừ vô minh, tức là thấy được Phật tánh
của ta, lúc đó ta giải thoát mọi phiền năo khổ
đau, tức là sống trong tinh thần nhân bản.
c. Thập thiện là mười
điều thiện giúp chúng sinh
có cuộc sống b́nh đẳng, tự do, và dân chủ,
tức là cuộc sống nhân bản. Thập thiện gồm
3 điều thiện về hành động (thân), 4 điều
thiện về lời nói (khẩu), và 3 điều thiện
về tư tưởng ư nghĩ (ư).
* Ba
Điều Thiện Về Hành Động (Thân) bao gồm:
- Phóng sinh con người và vật
ra khỏi lao lung và đau khổ. Giải thoát dân tộc bị
áp bức. Giải trừ các chế độ bạo tàn
khát máu vô luân, như chế
độ Cộng Sản Việt Nam chẳng hạn, để
cứu muôn dân khỏi cảnh đồ thán, tức là phóng
sinh đồng loại vậy.
- Bố thí, giúp đỡ, san sẻ,
che chở, và cưu mang những người hoạn nạn
nghèo khó cũng như tạo sự cộng tác thương
yêu đối với mọi người.
- Cố gắng tiết chế mọi
ham muốn về thị dục và t́nh dục để
hưởng những lạc thú thanh tao siêu thoát về tinh
thần và đạo lư.
* Bốn Điều Thiện Về
Lời Nói (Khẩu) gồm có:
- Nói điều chân thật và nghĩ
sao nói thế.
- Lời nói ngay chánh để củng
cố ḷng tin.
- Dùng lời dịu dàng, êm ái, và
thành khẩn.
- Nói lời hợp t́nh lư và có
trước có sau. T́m lời phân giải hợp lư để
ḥa giải, tạo thông cảm, và xây ḥa khí yêu thương.
* Ba Điều Thiện Về Ưù gồm
có:
- Tiêu diệt ư tham lam để giữ
cho ḷng chánh trực.
- Tránh tức giận (sân) để
giữ thái độ cho ḥa nhă, vui tươi, và khôn khéo v́
giận mất khôn.
- Không si mê để giữ cho trí
sáng suốt.
Khi tâm đối với vật mà
động ḷng tham sân si th́ ḷng tham phát khởi, bực tức
nóng nảy sẽ sinh, và trở thành ngu độn. Muốn
trừ tham sân si, ta phải cần
tu các hạnh giới, định, và huệ.
- Giới, tức là giới luật
(ngũ giới), có nghĩa là diệt trừ ḷng ham muốn
vô độ.
- Định, tức là thiền
định, có nghĩa là chú tâm suy nghĩ t́m ra lư lẽ nhiệm
màu để định tỉnh tinh thần, lục
căn, và cảm xúc sao cho giữ được ḷng không
lay động hầu trừ sự nóng giận, bực tức,
và căm hờn.
- Huệ, tức tri huệ cùng nghĩa
với bát nhă, có nghĩa là tâm ta thông hiểu và thấu triệt
mọi lẽ để thành tựu đạo Bồ Đề,
tức là giác ngộ được đạo lư, trở
nên toàn giác và chánh giác, hầu tránh được ngu tối
si mê và phiền năo. Đó chính
là nghĩa của câu: “Tâm cảnh câu thông, chiếu giám vi huệ.”
Nếu ta tránh được điều
ác mà làm mười điều thiện như đă tŕnh
bày trên th́ mọi người sẽ có cuộc sống
thường lạc và xă hội là cơi niết bàn ở thế
gian, tức là xă hội nhân bản vậy.
5. Lục Độ: Phương Tiện
Phát Huy Nhân Bản
Lục Độ là sáu nền đại hạnh của
Bồ Tát, tức là sáu phương thức giúp chúng sinh
đáo bỉ ngạn hay chánh giác, tức là đến bờ
bên kia, bờ chánh giác, chỗ thoát ly hẳn được
phiền năo ngu si và mê muội. Có đạt được
chánh giác, con người mới sáng suốt hoàn toàn và không
vướng vào đau khổ và phiền năo. Được
như thế, con người mới được hưởng
cuộc sống đúng với nghĩa của nó, tức là
cuộc sống nhân bản.
Lục độ gồm bố thí
ba la mật, tŕ giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật,
tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, và
tri huệ ba la mật. Ba la mật là đại hạnh của
Bồ Tát để giáo hoá chúng sinh đáo bỉ ngạn, tức
là đến bờ giác.
a. Bố thí ba la mật gồm có:
tài thí, pháp thí, và vô úy thí. Chúng ta phải dùng bố thí để
trừ tham lam keo cận.
- Tài thí là đem tiền của hay
những thứ ḿnh có, kể cả t́nh thương, để
bố thí cho tha nhân một cách kín đáo và khéo léo mà không cầu
báo cũng như không cần ai biết đến việc
bố thí của ḿnh.
- Pháp thí là bố thí bằng Pháp
giáo. Đem pháp nhiệm mầu và tốt lành của Phật
mà thuyết giảng cho người ta nghe. Đem lời
nói an ủi người để soi sáng ḷng người hầu
giúp họ yên ổn cơi ḷng. Đem gương từ bi hỉ
xả để cảm hóa chúng sinh và dùng ngay tấm
gương tận thiện của ḿnh để giáo hóa
thay v́ nói suông. Nói và làm phải đi đôi với nhau. Không
v́ mục đích lập công, lập danh, ghi ân, tôn trọng,
hay phụng thờ mà làm việc bố thí. Hăy giúp cho chúng sinh tỉnh ngộ
bằng cách giảng cho họ hiểu 4 điều sau: Vạn vật giai qui vô thường:
Mọi vật đều về nơi vô thường và
không có vật chi là trường tồn cả. Sở hữu
tất vi khổ độc: Những ǵ ḿnh có đều là
nguồn gốc của khổ năo và độc hại.
Chư pháp giai vô ngă: Mọi vật
đều là giả thể, tức là chẳng có cái thật
thể, chúng chỉ do nhân duyên tạm hợp lại mà thành
và khi nhân duyên ly tán sẽ biến mất. Hữu h́nh tất
chí không: Hễ vật chi có h́nh dạng đều có ngày
hư hoại và trở về cảnh không.
- Vô úy thí là hy sinh ḿnh để làm
việc bố thí. Điều này có nghĩa là chúng ta không sợ
nguy hiểm đến tính mạng và không sợ cường
quyền hay áp bức trong khi làm việc để cứu
khốn pḥ nguy. Vô úy thí c̣n có nghĩa là chúng ta cung cấp
cho toàn dân cái đức tánh
không sợ sệt để giúp họ được sống
yên ổn và bạo dạn. Vô úy thí là sự bố thí cao nhất
trong tam thí.
b. Nhẫn nhục ba la mật có nghĩa là nhường nhịn
mọi điều khiêu khích bằng cách nhẫn nhục một
cách tự nhiên. Đó là đức đại dũng và vô
ngă vậy. Nhẫn nhục là không cho đâu là vinh hay nhục, giữ tâm thân b́nh thản, và không
buồn giận hay oán thù ai. Dùng nhẫn nhục ba la mật
để trừ nóng giận.
c. Tŕ giới ba la mật có nghĩa
là giữ giới luật một cách tự nhiên và vô cầu,
không phải v́ cầu phúc hay lấy danh mà tŕ giới. Tự
tâm ḿnh phát khởi việc tŕ giới. Giữ giới luật
một cách tự nhiên và cũng không bó buộc ai phải giữ
giới như ḿnh. Dùng tŕ giới ba la mật để trừ
tính gian tà và ác độc. Có giữ giới luật th́ ta mới
có ḷng thanh tịnh để chú tâm (định) và sáng suốt
(huệ) trong việc tu học.
d. Tinh tấn ba la mật có nghĩa
là tự ḿnh chuyên cần siêng năng tinh tấn một cách
tự nhiên để tu tập, không cần ai bắt buộc
ḿnh phải cố gắng hay siêng năng. Dùng tinh tấn ba
la mật để trừ tính lười biếng, trễ
nải, và biếng nhác.
e. Thiền định ba la mật giúp ta chú tâm trí vào một việc
hay một mối để nội tâm không xao xuyến hầu nhận ra gốc gác bản
chất của sự vật. Dùng thiền định ba la
mật để trừ tính tán loạn. Thiền định
ba la mật là một cách thiền định tự nhiên ở
bất cứ nơi nào và lúc nào mà không cần phải cố
gắng.
g. Tri huệ ba la mật là dùng trí
sáng suốt chiếu soi vào sự sự vật vật
để hiểu thấu đáo. Dùng tri huệ ba la mật
để trừ ngu si.
Điều căn bản của việc
tu lục độ là ḿnh phải
tự độ lấy ḿnh. Lấy chánh kiến trừ tà
vạy, lấy bát nhă phá sự
ngu si và mê muội, lấy chánh tâm độ ḷng tà, và lấy
từ thiện độ ḷng độc ác. Có như thế
ta mới đạt tới giác ngộ và chúng sinh mới có
cuộc sống theo tinh thần nhân bản.
6. Củng Cố Tinh Thần Nhân Bản
Bằng Vô Ngă, Vô Niệm, Vô Tướng, Vô Thường, Vô
Trước, và Vô Trụ
-Vô ngă
c̣n gọi là phi ngă, có nghĩa là không thật có người,
không thật có ḿnh, và không thật có chúng sanh. Đó chỉ
là ngũ uẩn hay nhân duyên tạm thời hiệp lại
mà thôi. Hiểu được như thế, ta không c̣n mê tối,
buồn rầu, hay hờn giận nữa. Chúng sinh và mọi
sự vật đều vô ngă, tức là không có thân thể
thường tồn nhất định và không có thật.
Biết được như thế ta sẽ dứt
được mê muội, tham, sân, si, không c̣n tự cao tự
đại, ngạo mạn, ích kỷ hại nhân, hay khinh
khi tha nhân.
-Vô niệm
là trạng thái không c̣n ư niệm phân hai, tức là ư thức
bằng cái tâm vô sai biệt. Không nhớ điều thiện
ác hay chánh tà, không để tâm nhiễm điều bất
chánh, không lẩn quẩn với thiện ác, vui buồn, và không lo điều lợi ích cho
riêng ḿnh để làm hại người. Không để
tâm dính trết vào bất cứ việc ǵ, bỏ qua hết,
và coi như không có việc ǵ xảy ra. Đức Phật
đă dạy: “Tâm bất nhiễm trước thị vô niệm.”
Sống trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, giống như bông
sen vậy. Có như thế ta mới giúp ích cho gia đ́nh và
xă hội.
- Vô tướng có nghĩa là không có
tướng mạo và h́nh dạng trong nghĩa tâm không chấp
cảnh, không nh́n thấy chúng sinh, và không dính với các pháp
tuy rằng chúng sinh và các pháp vẫn có. Chúng sanh và sự sự vật vật
đều là vô tướng. Chúng sanh chỉ là tứ đại
giả hợp mà thành.
Tất cả mọi vật chỉ
do nhân duyên giả hiệp mà nên. Muốn đạt tới
t́nh trạng vô tướng, ta phải để tâm ĺa khỏi
trạng mạo từ trong cho đến ngoài, không dính mắc
vào sắc tướng hay diện mạo bề ngoài để
giữ cho ḷng b́nh đẳng, không phân biệt, không
thương không ghét, và lúc nào tâm ư cũng được an
nhiên không dao động. Có như thế, ta tránh được
khổ đau và phiền năo.
-Vô thường nghĩa là không coi mọi
sự trên đời là vĩnh cửu. Nhờ đó mà ta
tránh được nỗi thương tiếc, tŕu mến,
và phiền năo khi phải xa ĺa những ǵ ḿnh có.
-Vô trụ là không để ư đến
sự lợi ích, oán ghét, thương yêu, và tốt xấu.
Nhờ vậy ta mới không bị lẩn quẩn và trói buộc
ḿnh váo những điều đó, nhiên hậu không tạo
phiền năo cho ḿnh và cho tha nhân.
Có đạt đến t́nh độ
vô ngă, vô niệm, vô tướng, vô thường, vô trước,
và vô trụ, chúng ta mới tránh được phiền năo cho ḿnh và cho tha nhân
để thương yêu kính trọng nhau và nhiên hậu ta
mới xây dựng và củng cố tinh xă hội và tinh thần
nhân bản. Vô trụ cũng c̣n gọi là vô trước. Vô
trước (trứ) là không để tâm t́nh quấn quít với
sự vật, không dính mắc, không vướng phải,
hay không chấp nhất việc ǵ.
7. Đức Thánh Khiết của
Nhà Phật Giúp Chúng Sinh Thoát Được Ṿng Danh Lợi
Thấp Hèn để Xậy Dựng Xă Hội Nhân Bản
Có thanh khiết, tức là tính trong sạch,
người ta mới tránh được ḷng tham. Nhờ
đó ta mới tránh được mọi phiền năo khổ
đau cho ḿnh và cho người, nhiên hậu, nhân bản mới
được tôn trọng, củng cố và phát triển.
8. Bát Chánh Đạo Nhằm Xây Dựng
Con Người Nhân Bản và Xă Hội Nhân Bản
Nếu dùng bát chánh đạo để
tu thân và cai trị xă hội, chúng ta chắc chắn sẽ
giải quyết được các vấn đề cá nhân
và xă hội. Bát chánh đạo gồm việc ngay chánh trong
hiểu biết (chánh kiến), ngay chánh trong suy nghĩ
tưởng niệm (chánh tư duy), ngay chánh trong lời nói
(chánh ngữ), ngay chánh trong việc làm (chánh nghiệp), ngay
chánh trong cách sinh sống và mưu sinh (chánh mạng), ngay
chánh trong việc cầu tiến (chánh tinh tiến), ngay chánh
trong ư niệm (hánh niệm), và ngay chánh trong việc đem hết
tâm hồn vào đạo lư (chánh định).
Có đạt được bát
chánh đạo , mọi người sẽ kính trọng
nhau, không có áp bức và bóc lột, không có chuyên quyền
độc đoán, nhân bản và nhân quyền được
tôn trọng, nhiên hậu, xă hội mới tiến bộ
để đưa con người lên địa vị
cao cả và thoát mọi ràng buộc thấp hèn của vật
chất và tranh chấp. Tất cả các phép tu của nhà Phật
là nhằm tạo con người nhân bản để
đạt tới niết bàn, tức là sống trong xă hội nhân bản vậy.
III. Hai Điều Căn Bản
Trong Giáo Lư Nhà Phật Nhằm Xây Dựng Một Xă Hội
Nhân Bản
Như trên đă nói, đạo Phật
là nền tảng tinh thần của một xă hội nhân bản
nhằm giúp con người tiến bộ để tự
ḿnh giải thoát khỏi đau khổ và mê tối. Đạo
Phật dùng tứ nhiếp pháp và lục hoà để giúp
con người hóa giải mọi khổ ải phiền
năo hầu xây dựng một xă hội nhân bản.
A. Tứ Nhiếp Pháp Nuôi Dưỡng
Và Củng Cố Xă Hội Nhân Bản
Tứ nhiếp pháp là 4 phương
pháp cư xử mà các chư vị
Bồ Tát sử dụng để
làm vừa ḷng chúng sinh trong khi dạy đạo lư cho họ.
Trong sinh hoạt tập thể của con người, chúng
ta có thể dùng tứ nhiếp pháp để nuôi dưỡng
xă hội nhân bản. Chữ nhiếp trong tứ nhiếp pháp có nghĩa
là nuôi nấng. Tứ nhiếp pháp bao gồm: bố thí, ái
ngữ, lợi hành, và đồng sự.
1. Dùng hạnh bố thí để tương trợ và cứu
giúp tha nhân về vật chất cũng như tinh thần
một cách vô vị lợi.
2. Dùng hạnh ái ngữ, tức là
dùng lời nói thương yêu, để tạo sự chân
thành ḥa ái và hợp t́nh lư trong mọi sinh hoạt của xă
hội.
3. Dùng hạnh lợi hành, tức là
dùng hành động lợi ích có sức thu phục và hấp
dẫn tâm của chúng sinh, để đem ích lợi cho
tha nhân.
4. Dùng hạnh đồng sự, tức
là cùng phục vụ, để đem hết tài khôn khéo vào
việc phụng sự công ích.
B. Lục Ḥa Phát Huy Xă Hội Nhân Bản
Lục Ḥa là 6 phương pháp
cư xử để tạo sự ḥa đồng ái kính ở
nơi tu hành của các sư ni.
Đây chính là phương pháp ḥa đồng và ái kính
đối với tha nhân để phát huy xă hội nhân bản.
Đức Phật dạy con người 6 điều ḥa
đồng ái kính (lục ḥa) để giúp nhau tu hành và
đạt tới niết bàn. Nếu đem lục ḥa áp dụng
vào xă hội, chúng ta sẽ phát huy được xă hội
nhân bản. Sáu điều ḥa đồng ái kính này bao gồm:
thân ḥa đồng trụ, khẩu ḥa vô tranh, kiến ḥa
đồng giải, giới ḥa đồng tu, và lợi ḥa
đồng quân.
1. Thân ḥa đồng trụ có nghĩa
là cùng sinh sống thương yêu đùm bọc ở
nơi tu hành, trong gia đ́nh, cũng như ngoài xă hội,
nhất là khi không đủ chỗ ở mà có nhiều
người cùng sống chung.
Sự từ ḥa, kính nhường, và thương yêu
bao bọc là những điều ta phải thực hành cho
bằng được. Đây là lư tưởng của gia
đ́nh và xă hội nhân bản.
2. Khẩu ḥa vô tranh có nghĩa là
dùng lời nói khiêm cung ḥa ái để tránh được sự
tranh căi chửi mắng nhau. Lời ḥa ái và khiêm cung có tác dụng
giúp cho nơi tu hành, gia đ́nh, và xă hội có được
không khí ấm cúng thanh b́nh. Đây cũng là mục đích của
một xă hội nhân bản.
3. Ư ḥa đồng duyệt có nghĩa
là tâm ư ḥa kính, tươi sáng,
và vui vẻ. Khi có chuyện vui
buồn, ta cùng chia sớt với nhau, an ủi nhau, và
không làm mích ḷng nhau. Đả thông ư tưởng để
tinh lọc, ta sẽ cùng làm cho nhau vui vẻ thích thú. Đây
là tính chất keo sơn gắn bó ở nơi tu hành, trong
gia đ́nh, và ngoài xă hội, xă hội nhân bản.
4. Kiến ḥa đồng giải có nghĩa là trao đổi và tham khảo ư kiến hay với
nhau để cùng nhau tu học. Khi kiến thức không giống
nhau, kẻ hiểu người không, kẻ hơn người
kém, những vị tu hành dễ sinh xích mích với nhau. Chính v́ thế, khi đă cùng nhau
chia sẻ kết quả của việc nghiên cứu Phật
pháp và thi hành pháp giáo của Phật, các vị tu hành sẽ
có kiến thức ḥa hợp nhau trong việc tu tâm dưỡng
tánh. Nếu đem kiến ḥa đồng giải áp dụng
vào trường đời th́ đây là con đường
tiến thủ để xây dựng một xă hội nhân bản.
5. Giới ḥa đồng tu có nghĩa
là các sư ni cùng nhau tu và giữ giới luật nhà Phật
để đạt tới sự ḥa thuận và ái kính
nhau. Nếu đem áp dụng
giới ḥa đồng tu vào
trường đời th́ đây chính là kỷ luật
tự giác trong một xă hội nhân bản.
6. Lợi ḥa đồng quân có nghĩa
là trong khi ở chung với nhau để tu học, nếu
bá tánh có cúng dường những thứ ǵ th́ các sư phải
chung hưởng một cách ḥa thuận và ái kính. Khí có lộc cùng chia sẻ cho nhau
một cách đồng đều th́ các Phật tử sẽ
tránh được xích mích và mọi người sẽ
thương yêu và kính trọng nhau hơn. Nếu đem lợi
ḥa đồng quân áp dụng vào trường đời
th́ đây là đạo đức
trong một xă hội nhân bản.
Để chúng sinh có được
phép cư xử đẹp đẽ cùng niềm ḥa đồng
ái kính giữa con người với con người, tứ
nhiếp pháp và lục ḥa không những phải được
áp dụng ở nơi tu hành như chùa chiền và thiền
viện mà c̣n phải được áp dụng trong mọi
hoàn cảnh sinh hoạt của con người tại gia
đ́nh, ở ngoài xă hội, và ở khắp mọi nơi
trên thế giới.
Nếu mỗi chùa áp dụng
được tứ nhiếp pháp và lục ḥa trong việc
tu học và quản trị nhà chùa, các nhà sư và Phật tử
sẽ tránh được cảnh kéo bè kết đảng,
phe này phái kia, và đồng thời tránh được cảnh
bất ḥa hiềm khích giữa sư ni và Phật tử hay
giữa các Phật tử với nhau.
Tu để giác ngộ. Trước
khi giác ngộ thành Phật, ta phải tu thành con người
nhân bản trước đă. Nhân bản tức là Phật
tánh và khi đă có Phật tánh tức là có mầm của nhân
bản vậy.
IV. Tổng Luận
Đạo Phật là đạo hoằng
dương tự do, dân chủ, và nhân quyền của chúng
sinh. Điều này có nghĩa là đạo Phật tôn trọng
nhân bản của con người. Đạo Phật xây dựng
con người từ gốc trở lên. Giáo lư Phật lấy
con người làm trung tâm điểm để giúp họ
giải thoát khỏi khổ đau. Đức Phật
đă hiến dâng trọn cuộc đời của ngài cho
việc giải thoát đau khổ của cả nhân loại.
Tôn chỉ của Phật giáo là giúp con người đạt
đến trạng thái hết mê để giác ngộ, tức
là chuyển mê khải ngộ.
Phật không chủ trương
tiêu diệt kẻ thù mà c̣n cần có họ để
được nghe những lời chống đối hầu
kềm hăm ḷng tự ái, tự tôn, tự phụ, và giũa
mài tài đức cho sắc bén hơn. Tinh thần dân chủ
tự do cùng đức hiếu sinh của đạo Phật nổi bật nhất ở chỗ
không những tôn trọng chúng sinh mà c̣n không muốn hại
kẻ thù.
Đạo Phật không có chủ
trương dụ ai hay cưỡng ép ai vào đạo. Tất
cả những cố chấp hẹp ḥi và mê tín, nhất là
ngă chấp hay ngă mạn, tức là ḷng chấp nệ có
ḿnh, ḷng tự cao tự đại khoe khoang, hay ỷ tài lấn
ép người khác, v.v. đều trái với tinh thần
nhà Phật. Tinh thần tự do, dân chủ, và nhân quyền nổi bật nhất trong giáo lư
nhà Phật là ở chỗ đề cao con người và
để họ có quyền quyết định và chọn
lựa lấy tương lai và cuộc sống. Chính nhờ
thế mà nhân bản được hoằng dương.
Đạo Phật quan niệm rằng
sự hiểu biết khách
quan mới là điều quyết định để tu
tâm dưỡng tính. Kiến tức là sự thấy quan trọng
hơn tín, tức là ḷng tin. Tin tức là chưa thấy.
Tính nghi ngờ là điều cốt yếu để
đi tới giác ngộ. Đức Phật dạy rằng nghi ngờ lớn th́ giác
ngộ lớn, nghi ngờ nhỏ th́ giác ngộ nhỏ, chẳng
nghi th́ chẳng bao giờ giác ngộ.
Đức Phật c̣n dạy rằng
chúng sinh không nên tin vào giáo lư của ngài, chỉ khi nào hiểu
thấu và biết chắc hăy tin. Điều quan trọng
nhất trong việc tu hành là phá trừ chấp kiến
để đi tới thấy, hiểu, và hành, nhiên hậu
phát huy được nhân bản.
Đạo Phật chủ
trương b́nh đẳng. Phật coi chúng sinh ngang hàng với
Phật khi ngài nói: “Ta là Phật đă thành, các ngươi
là Phật sẽ thành.”
Lục Tổ Huệ Năng đă
giảng rất rơ về qui y tam bảo. Theo ngài, Phật, Pháp, và Tăng là vô tướng
hay tự tánh chứ không có h́nh tượng như đức
Phật, kinh Phật, hay tăng ni. Chính v́ thế ngài đă
gọi qui y tam bảo là vô
tướng tam qui y hay qui y tự tánh tam bảo. Điều
này có nghĩa là ta qui y Phật tánh ở nơi ta. Mỗi
chúng sinh đều có Phật tánh.
Thể hiện Phật tánh, ta sẽ
thông suốt mọi lẽ và đạt tới giác ngộ.
Cha mẹ c̣n sống là Phật nhử đă được
diễn tả trong câu: “Phụ mẫu tại tiền
như Phật tại thế.” Ta có ḷng hiếu thảo với
cha mẹ là tu đấy. Đây là điều căn bản
mà con người phải thực hành để xây dựng
một xă hội nhân bản. Có tu tâm dưỡng tánh, có hiếu
thảo, ta mới trở thành người hữu ích cho
nhân quần xă hội.
Hiếu thảo là nền tảng mọi
nết ăn ở trên đời. Chỉ những người
có hiếu với cha mẹ mới trung với tổ quốc,
nhân từ với tha nhân, và nhiên hậu, mới góp phần
xây dựng một xă hội nhân bản tốt đẹp
được. Cổ nhân có câu: “Thứ nhất th́ tu tại
gia,/ Thứ nh́ tu chợ thứ ba tu chùa./ Tu đâu bằng
tu tại gia,/ Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.”
Phật giáo đă góp phần hết
sức tích cực trong việc xây dựng con người,
gia đ́nh, xă hội, và nhân loại. Giáo lư nhà Phật bao gồm
mọi khía cạnh để xây dựng con người và
xă hội nhân bản. Đạo Phật thịnh, đất
nước ta thịnh. Đạo Phật suy yếu, đất
nước lâm nguy.
Một bằng chứng cụ thể
là đạo Phật rất thịnh và được coi
là quốc giáo ở nước ta vào thời Tự Chủ
Thời Đại, nhất là
vào đời Lư và đời Trần (1010-1400), thời
nước nhà rất hùng cường. Trong thời kỳ
này, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
đă đại phá Nguyên binh, tức là quân Mông Cổ. Đạo
quân này đă bách chiến bách thắng ở khắp nơi,
từ Á sang Âu, nhưng chỉ bị Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn đánh cho tan tành hai lần
ở Việt Nam vào năm 1285 và 1287 mà thôi.
Sau này vào thời Cộng Sản xâm lăng miền Bắc
và thời ông Ngô Đ́nh Diệm cai trị miền Nam từ
hồi 1954, đạo Phật ở nước ta bắt
đầu suy tàn, vừa phần bị Cộng Sản và
chính quyền đương thời đàn áp, vừa phần
v́ chính nội bộ Phật giáo lủng củng do Cộng
Sản xâm nhập lũng đoạn. Kết quả là
đất nước mất trọn về tay quân xâm lằng
Cộng Sản. Nhân dân cả nước lâm vào cảnh quốc
phá gia vong, nhân phẩm không bằng hàng súc vật, và toàn dân
mất hết tự do, dân chủ, và nhân quyền. Dĩ
nhiên nhân bản không c̣n chỗ đứng.
Bàn về nhân bản mà không đề
cập đến giáo lư nhà Phật th́ cả là một thiếu
sót lớn lao. Một người được gọi là
trí thức hay hiểu biết mà có thêm chút kiến thức
về Phật học th́ vốn kiến thức của họ
mới viên măn và hữu dụng. Những chánh khách, các nhà xă
hội, và những người nắm quyền cai trị
quốc gia mà có vốn liếng về Phật học th́ việc
trị nước an dân của họ mới đem lại
lợi ích cho toàn dân và mới có khả năng xây dựng
được con người và xă hội nhân bản
đúng với nghĩa của nó.
Qua những chi tiết đă
được tŕnh bày, người ta thấy đạo
Phật quả là đạo xây dựng và phát huy nhân bản.
Nếu mọi người đều học hỏi nghiên
cứu về giáo lư nhà Phật rồi đem những
điều ḿnh hiểu và thấy để áp dụng vào
các sinh hoạt của cuộc sống, chúng ta chắc chắn
tạo được một xă hội nhân bản, trong
đó dĩ nhiên là bao gồm cả tự do, dân chủ,
b́nh đẳng, nhân quyền, dân quyền, hạnh phúc, và
thanh b́nh mà nhà Phật gọi là đất Phật, Tây
phương cực lạc, tịnh thổ, hay tịnh
độ. Xă hội nhân bản quả là niết bàn tại
thế gian vậy!
Nói như vậy, tất nhiên trong
chúng ta thế nào cũng có người đặt câu hỏi
là: “Tại sao đạo Phật được truyền
sang nước ta từ cuối thế kỷ thứ hai mà
đến nay ta vẫn chưa thực hiện được
xă hội nhân bản ở Việt
Nam và ngay cả trên thế giới nữa?” Đây là câu hỏi
rất xác đáng.
Quả thật hiện nay các nước
Tây phương vẫn chưa có được một xă hội
nhân bản đúng với nghĩa của nó. Bề ngoài,
chúng ta tưởng các nước Tây phương in tuồng
như có xă hội nhân bản, nhưng đó chỉ là một
thứ nhân bản giả hiệu,
tức là nhân bản h́nh thức, dân chủ h́nh thức, tự
do h́nh thức, nhân quyền h́nh thức, và dân quyền h́nh
thức mà thôi. Lư do chính yếu là người dân ở các
nước Tây phương vẫn bị áp bức bóc lột,
và chính quyền vẫn do thiểu số nắm quyền
độc tài chuyên chế, khôn khéo, và thủ đoạn ở
mức tinh tế khiến ta không nhận thấy ngay mà
thôi. V́ thiếu tri huệ bát nhă, ta không nhận thấy
điều này mà tưởng các nước Tây
phương in tuồng như
có nhân bản.
C̣n ở Việt Nam, từ trước
đến nay, người ta chỉ giới hạn việc
tu đạo Phật ở chùa và thiền viện. Đi
đến chùa chỉ để cầu phúc cầu lộc.
Một số đông sư ni
lại lấy việc cầu siêu và lập đàn chay làm
cách sống. Ngoài ra, một số Phật tử và tăng ni lại lợi dụng
sinh hoạt Phật sự để trục lợi, chẳng
hạn như quyên tiền Phật tử để xây chùa
rồi đến khi báo cáo tài chánh lại nói là làm mất 2
sổ vàng và tiền mặt bị mất trộm.
Những người tu Phật tuy
có hiểu biết giáo lư mà không thực hành giáo lư, tức là
việc tu và hành của họ không hợp nhất. Đấy
là chưa kể những người đọc kinh Phật
như con vẹt, họ đọc
mà chẳng hiểu nghĩa là ǵ. Họ coi việc đi tu
như là cách trốn tránh cơi đời hay là một mốt
sinh hoạt để lấy tiếng với đời.
Những người có vốn liếng
về Phật pháp, trừ một thiếu số rất
ít, không muốn hay nói đúng ra là không biết vận dụng
những tinh yếu của giáo lư nhà Phật để áp dụng
vào các sinh hoạt trong xă hội và việc giáo dục con em.
Thậm chí, người ta c̣n
có quan niệm là nhà chùa chỉ dành cho những người
già, người có mặc cảm tội lỗi, cùng những
người thất bại và chán đời đến đó để được an
ủi, trốn tránh nợ đời, và nương nhờ
cửa Phật cho tới khi chết mà thôi.
Một số sư ni và phần
đông Phật tử đă biến đạo Phật từ vô ngă sang hữu ngă, từ vô niệm
sang hữu niệm, từ vô tướng sang hữu tướng,
từ vô thường sang hữu thường, từ vô trụ
sang hữu trụ, và từ
b́nh đẳng sang bất b́nh đẳng.
Một số những chùa mà chúng
tôi chính mắt chứng kiến, ở hải ngoại cũng
như ở trong nước, đă và đang ở trong t́nh
trạng tranh chấp giữa các sư ni với nhau, giữa
các Phật tử, và giữa các sư ni và Phật tử.
Hiện trạng sinh hoạt Phật giáo như thế th́
làm sao có thể xây dựng đưọc xă hội nhân bản
và tạo được cảnh niết bàn ngay tại thế
gian này! Đă có người cho là chúng ta đang ở thời
kỳ mạt pháp của đạo Phật.
Thật là đau ḷng khi nh́n thấy
cảnh sư ni và Phật tử không áp dụng giáo pháp của
đức Phật vào việc tu và hành. Cảnh chùa th́
như thế! Không biết đến bao giơ người
ta mới thấy việc đem giáo lư nhà Phật áp dụng
vào đời để xây dựng một xă hội nhân bản?
Họ đi t́m Phật măi đâu
đâu để tu nên muôn đời không thấy Phật.
Họ đi t́m đất Phật ở thế giới
khác nên muôn đời họ cũng không bao giờ thấy
được. Một điều hết sức giản
dị mà không mấy ai chịu làm là hăy t́m Phật ở
nơi ḿnh và t́m đất Phật ở ngay chỗ ta
đang ở và ở ngay trong cuộc đời này. Đó
là cách làm sáng tỏ Phật tánh ở nơi ḿnh, t́m Phật ở tâm ḿnh, ăn ở
với cha mẹ cho có hiếu thảo, tức là tu tại
gia. Cha mẹ ḿnh là Phật, tâm ḿnh là Phật, và Phật tại
Tâm. Hăy minh tâm kiến tánh để dưỡng tánh tu tâm,
ta là Phật đó. Việc ǵ phải đi t́m Phật ở
nơi đâu. Nếu làm được như thế, ta sẽ
thấy Phật và đất Phật ở ngay tại cơi
đời này, và đó cũng là xă hội nhân bản vậy.
Luận Về Thiện Aùc
I. Quan Niệm Tương Đối
về Thiện Ác
Ở khắp nơi trên thế giới
và từ cổ tới kim, thiện ác là một quan niệm có tính cách
tương đối, nó cũng giống như quan niệm
về thẩm mỹ. Quan niệm về thiện ác thay đổi theo thời
gian, xưa khác nay khác. Cùng một việc, thời xưa
cho là ác mà thời nay lại cho là thiện. Hơn nữa, mỗi
nơi quan niệm về thiện ác cũng khác nhau. Cùng một
vấn đề, nước này cho thế là thiện trong
khi nước kia cho như thế là ác. Thiện ác trong tôn
giáo khác với thiện ác ngoài đời. Quan niệm về
thiện ác c̣n tùy theo mỗi cá nhân, mỗi tôn giáo, và mỗi
chế độ trong cùng một thời gian và không gian. Tuổi
tác và phái tính cũng ảnh hưởng tới quan miệm
thiện ác nữa.
II. Thiện Ác trong Chế Độ
Đa Thê hay Đa Phu
Trái với phong tục hay pháp luật
là ác. Hợp với phong tục hay pháp luật là thiện.
Cùng một vấn đề mà chỗ này cho phép chỗ kia
ngăn cấm. Đó là vấn đề tương đối.
Ngày xưa, ở xă hội Đông
phương cũng như Tây phương, có những
nơi người ta chấp nhận chế độ
đa thê và ngay cả đa phu mà không ai cho việc đa phu
hay đa thê là tội ác. Chẳng hạn như những dân
tộc cổ trong đó có dân tộc Hebrews (Do Thái hay Hy Bá
Lai) và dân tộc Đức thời xưa (Ancient Germans)
đă coi chế độ đa thê là hợp pháp. Các vua chúa
Trung Hoa như vua Văn Vương, đời Nhà Chu
(1122-256 trước Tây lịch) có tới cả trăm cung
tần mỹ nữ mà mọi người dân Trung Hoa vẫn
tôn thờ vị vua này vào bậc thánh.
Cách đây khoảng gần 3 ngàn
năm, Đại Đế Solomon (Hebrew Solomon) của dân Do Thái thời cổ
đă có 700 người vợ chánh và 300 người vợ
bé. Cho tới ngày nay, ông vua này vẫn được coi là bậc
thánh vương và là một nhà thông thái tuyệt luân hơn
tất cả các nhà thông thái của Ai Cập, Trung Đông,
và tất cả các nhà thông thái tuyệt đỉnh khác.
Chính ông vua Solomon này đă là người
xử vụ án hai kỹ nữ đi kiện nhau để
nhận làm mẹ của cùng một đứa bé. Vua Solomon
đă quyết định ai đích thực là mẹ của
đứa bé bằng cách nhận xét phản ứng của
mỗi người kỹ nữ này đối với
đề nghị của ngài là chặt đứa bé ra làm
hai để mỗi kỹ nữ nhận một nửa
đứa trẻ.
Vào hạ bán thể kư thứ XVII, một
số nhà thờ Cơ Đốc Giáo (Christian Church) ở
Âu Châu đă chấp nhận chế độ đa thê.
Trong khi đó, nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở La Mă, Hội
Đồng Toàn Cầu “Council of Trent” đă họp ở
Trent, Italy, 1545, để ra một sắc lệnh nhằm
vô hiệu hóa những cuộc hôn nhân ám muội bất chánh
và trừng phạt những người lấy nhiều vợ.
Sắc luật này vẫn c̣n hiệu lực đến ngày
nay. Tuy nhiên, hiện nay người ta vẫn thấy các
nước theo đạo Hồi Giáo (Mohammedan Countries) và các nước ở Châu Phi
(Africa) chấp nhận chế độ đa thê. Ở
Châu Phi, một người đàn ông có đến hàng
trăm hàng ngàn bà vợ. Ở xứ Phật Giáo Tây Tạng,
người ta lại chấp nhận chế độ
đa phu. Một người đàn bà có quyền lấy
nhiều chồng.
Ở Việt Nam xưa, trinh tiết
người đàn bà được coi rất trọng và
cho là “chữ trinh đáng giá ngàn vàng.” Người vợ khi
được chồng cưới hỏi về mà đă
mất trinh th́ đó cả là một sự sỉ nhục
cho cha mẹ và họ hàng nhà gái. Có chồng mà ngoại t́nh
th́ người vợ được coi là phạm trọng
tội và bị xử phạt rất nặng. Ở Việt
Nam, chúng ta có câu tục ngữ
sau để diễn tả quan niệm này: “Trai
năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng.”
Ngày nay lại khác, người con gái có mất trinh hay
người vợ có ngoại t́nh cũng không bị coi là
có trọng tội. Nếu người chồng không chấp
nhận cô vợ đă mất trinh hay ngoại t́nh th́ chỉ
có quyền ly dị cô ta mà thôi.
Hiện nay, tại một số
nơi ở Nam Mỹ, châu Phi, và các bộ lạc ở Úc vẫn
c̣n có phong tục cô dâu phải ngủ với vị lănh chúa
địa phương (the local feudal lord) trong đêm ngay
trước khi cô ta về nhà chồng. Phong tục này hiện
c̣n thịnh hành. Người ta gọi tục này là “Quyền
Của Vị Chúa Tể” (Droit Du Seigneur) hay “Luật Của Đêm Thứ
Nhất” (Law of The First Night).
Ngoài ra, người Eskimos và một số dân tộc ở
Trung Á (Central Asian Peoples) có tục
cho mượn vợ (wife-lending)
để tỏ ḷng hiếu khách.
Tuy rằng cho tới ngày nay vẫn
c̣n có một số nước hay bộ lạc chấp nhận
đa thê hay đa phu là hợp pháp, nhưng ở phần
đông các nước trên thế giới, chế độ
đa thê hay đa phu không được pháp luật hay
phong tục thừa nhận nữa, chẳng hạn như
ở Bắc Mỹ này.
Có người cho chế độ
đa thê là thiện v́ nó đă giúp xă hội giải quyết
được vấn đề trai thiếu gái thừa và
giúp cho bao người hưởng được không khí
gia đ́nh, có nơi nương tựa, và tránh được
hoàn cảnh lôi cuốn phải bán trôn nuôi miệng.
Đă có rất nhiều người
ái mộ những tài tử màn bạc hay những ca sĩ nổi
danh. Có người đă t́nh nguyện lấy tài tử hay
ca sĩ này mặc dù đă biết anh ta có vợ mà người vợ này
lại vui ḷng chấp nhận cảnh đa thê. Họ sống
chung một cách thoải mái.
Tuy nhiên, những người khác lại
cho chế độ đa thê là ác v́ nó đă làm khổ bao
nhiêu người, gây ra sự ghen tuông, làm cho gia đ́nh tan
nát, và làm cho con cái phải sống trong cảnh thiếu t́nh
thương cũng như không được nuôi dạy một
cách chu đáo.
III. Việt Cộng Nói Thiện
nhưng Làm Ác v́ Bản Chất
Của Việt Cộng và Cộng Nô Là Ác, Gian Manh, và Phản
Phúc
Sau đây là những điều cụ
thể mà người dân dưới chế độ Cộng
Sản đă nhận ra về bản chất gian manh, độc
ác, và dă man của bọn Cộng Sản:
1. Chế độ Cộng Sản
Việt Nam là chế độ của quân xâm lăng Cộng
Sản quốc tế. Chúng là lũ cướp của giết
người mà ngoài mặt vẫn rêu rao nào là yêu nước
thương dân và có độc lập tự do. Chúng
đánh lừa người dân bằng cách tuyên truyền bịp
bợm như: “Đảng lănh đạo, nhà nước
quản lư, nhân dân làm chủ.” Nhưng thực ra người
dân làm chủ được cái ǵ khi có người lănh
đạo ḿnh, có người quản lư tài sản của
ḿnh, và ḿnh không những không được phép sử dụng
tài sản của ḿnh mà c̣n bị bóc lột sức lao động,
và mất hết quyền tự do căn bản cùng quyền
làm người nữa! Như thế, bọn Việt Cộng
quả đích thực là quân ăn cướp và bóc lột
toàn dân một cách bỉ ổi. Chính v́ thế mà người
dân nói khẩu hiệu trên đă bị người ta
đánh dấu phết (phảy) sai và họ bảo phải
viết như sau mới đúng theo dă tâm của bọn cộng
sản: “Đảng Lănh Đạo Nhà Nước, Quản
Lư Nhân Dân, (và) Làm Chủ (đủ mọi thứ).” Quả thật là sáng tạo vậy!
2. Trong khi Cộng Sản khoe khoang
“Xă Hội Chủ Nghĩa” của
chúng là thiên đường và ưu việt hơn hẳn
Tư Bản Chủ Nghĩa th́ người dân, căn cứ
vào thực tế, lại đặt tên cho Xă Hội Chủ
Nghĩa (XHCN) bằng các thứ
tên khác mà khi viết tắt đều là XHCN như sau: Xấu
Hết Chỗ Nói, Xuống Hàng Chó Ngựa, Xạo Hết
Chỗ Nói, Xiết Họng Công Nhân, Xuống Hố Cả
Nước, Xóa Hết Chữ Nghĩa, Xếp Hàng Cả
Ngày, Xe Hết Chỗ Ngồi, và Xài Hổng Cho Nghỉ,
v.v.
Những tên mà người dân đặt
cho chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa (XHCN) như
trên quả đă vạch trần cái bản chất phản
phúc, dối trá, ác độc, lừa đảo, đê hèn,
lưu manh, và bóc lột toàn dân của bọn Việt Cộng. Điều này đă chứng tỏ
toàn dân Việt hiểu rơ bản
chất của bọn Việt Cộng đến độ
thật tinh vi và thấu đáo.
3. Tụi Cộng Sản c̣n lừa bịp dân bằng cách
hô to khẩu hiệu “Không có ǵ quư hơn độc lập
tự do” như lời giả
dối của Hồ tặc đă tuyên bố để che
lấp việc chúng độc tài chuyến chính và làm tay sai
cùng bán nước cho Nga Tàu.
Chính v́ thế mà đă có người
nói rằng Hồ Chí Minh giả quả thật là người
lănh đạo “tài ba” v́ hắn nói 100 câu th́ đúng tới
99 câu là những câu vay mượn của kẻ khác và chỉ
trật có một câu của hắn là “Không có ǵ quư hơn độc lập tự
do!” Người dân dưới
chế độ Cộng Sản đâu có được
hưởng tí tự do là thế
nào mà bảo là quư hay không!
Người dân Miền Nam c̣n nói rằng
Nguyễn Văn Thiệu nói 100 câu th́ trật tới 99 câu
v́ hắn dốt. Hắn chỉ
nói đúng có một câu là: “Đừng nghe những ǵ Cộng
Sản nói mà hăy nh́n những ǵ Cộng Sản làm!” Câu này quả
đă đi vào lịch sử. Thiệu chửi Cộng Sản
đúng quá v́ Cộng Sản chỉ nói thiện trong khi việc
làm của chúng toàn là độc ác gian manh và phản phúc cả.
4. Chính v́ Cộng Sản tuyên truyền
khéo quá nên dân gốc Miền Nam tin chúng. Những tên trí thức
nhưng ngu tối đă tin theo chúng thành lập Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam để làm tay sai cho bọn Cộng
Sản Miền Bắc.
Khi Miền Nam bị Cộng Sản
cưỡng chiếm rồi, nhân dân cả nước
đều sáng mắt ra.. Người dân diễn tả thật
tài t́nh cái ư sáng mắt ra này bằng câu chuyẹân tiếu
lâm “Văn Vĩ Sáng Mắt.” Họ
dùng tam đoạn luận là tất cả nhân dân đều
sáng mắt khi có kinh nghiệm sống với Cộng Sản,
Nghệ Sĩ Văn Vĩ dù bị
khiếm thị mà đă sống với Cộng Sản th́
người nghệ sĩ tài ba này cũng đă sáng mắt
ra dù là vẫn c̣n khiếm thị!
Thật là thấm thiá cho những
ai đă nếm mùi Cộng Sản. Họ sáng mắt ra khi
nghe Cộng Sản nói: “ Bây giờ nước nhà đă
được độc lập, toàn dân được
hưởng mọi quyền tự do” v́ họ hiểu tự
do ở đây là: tự do tin
tưởng vào đường lối và chánh sách phi nhân của
đảng, tự do ca ngợi Hồ tặc và đảng
cướp Cộng Sản, tự do nhường tài sản
cho bọn cướp Việt Cộng để đi “xây
dựng” vùng kinh tế mới, tự do hội họp
để nghe cán ngố chỉ đạo, tự do tố
cáo thân nhân cùng những người chống
đối bọn xâm lăng Cộng Sản, và tự do
đi tù mà bọn Việt Cộng gọi là “học tập
cải tạo” không có ngày về.
Hiểu rơ như thế nên người
dân Miền Nam mới chửi
Cộng Sản rất thâm thúy bằng cách ca tụng
những điều quí báu như: “Ở Thánh Thất Cao
Đài th́ có Tiên, trong chùa có Sư, ở nhà thờ có Cha, và cả
nước có 'Bác Hồ'.” Nếu
ráp 4 điều quí báu đó lại, ta có câu: “Tiên sư cha
Bác Hồ!” Ôi! Đỉnh cao trí tuệ của người
dân Miền Nam quả thật
là vô địch, vô địch hơn cả đỉnh cao
trí tuệ của chế độ phi nhân Cộng Sản
đến cả triệu lần!
5. Hồ tặc c̣n giả đạo
đức hô hào rằng: “Ḿnh v́ mọi người, mọi
người v́ ḿnh.” Người
dân chỉ thấy họ bị tụi Cộng Sản theo
dơi ŕnh rập để bóc lột và ăn cướp hết
ruộng vườn nhà cửa cùng tiền bạc của họ.
V́ thế dân chúng chửi bọn Cộng Sản là bọn:
“Ḿnh ŕnh mọi người, mọi người ŕnh
ḿnh.” quả là chí lư vậy. Cao
quư thay khi ḿnh v́ mọi người và mọi người
v́ ḿnh! Nhưng bọn Cộng Sản dùng ư này để
theo dơi và bắt bỏ tù những người chống chủ
nghĩa phi nhân của chúng.
6. Quân gian manh Cộng Sản c̣n bảo
bọn tư bản ngoại quốc là: “Bọn tư bản
các anh chỉ biết có tiền và chỉ quư trọng đồng
tiền thôi! Bọn Cộng Sản chúng tôi quư trọng con
người hơn tiền bạc và trọng nhân phẩm
vô cùng nên thủ đô Hà Nội của chúng tôi được
mệnh danh là Thủ Đô Nhân Phẩm của loài người.” Tụi tư bản đă chứng
kiến những ǵ xảy ra hàng ngày từ khi Cộng Sản
chiếm trọn Việt Nam
nên đă gật đầu trả lời bọn Cộng
Sản rằng: “Đúng! Đúng lắn! Bọn tư bản
chúng tôi chỉ biết quư tiền nên giữ tiền kỹ lắm. Chúng tôi bỏ
tiền vào tủ sắt khóa lại. Bọn Cộng Sản
các anh th́ quư người lắm nên các anh cũng giữ người rất kỹ. Các anh
đă bắt họ bỏ vào trại tù mà các anh lại gọi
là 'học tập cải tạo,' nhốt họ vào vùng kinh
tế mới, và bán họ
đi làm 'nghĩa vụ lao động' tại các nước
'Cộng Sản anh em' để triệt tiêu sự chống
đối của họ đối với các anh và ngăn
cản họ khi họ bỏ nước đi t́m tự
do.”
Đến như người ngoại
quốc họ c̣n biết cái bộ mặt giả nhân giả
nghĩa của bọn Cộng Sản đến như thế
th́ đủ hiểu bọn Cộng Sản ác độc
như thế nào!
7. Bộ mặt cướp của
giết người của lũ Cộng Sản đă
được dân chúng lột ra qua cách diễn tả ư nghĩa
của chữ “bộ đội” như: “Bộ đội có nghĩa
là đi bộ từ Bắc vô Nam và đội đồ từ
Nam ra Bắc.”
Sở thích của các anh bộ
đội được diễn tả trong câu có 4 chữ
đều bắt đầu bằng mẫu tự “Đ”:
Đạp (xe đạp),
Đồng (đồng hồ), Đài (radio), và Đĩ
(gái điếm).
Theo nghĩa của chữ “giải
phóng” th́ việc bộ đội Việt Cộng đi làm
công việc “giải phóng” tức là làm việc thiện,
nhưng trên thực tế, bộ đội Việt Cộng
đă bị chính quyền Việt Cộng đánh lừa
hàng nửa thế kỷ để đi xâm lăng, cướp
của, và giết hại dân lành mà họ không biết. Măi
đến khi “giải phóng” được Miền Nam (phải
nói là xâm lăng Miền Nam mới đúng) họ mới
sáng mắt ra và hiểu là họ bị đánh lừa quá
lâu rồi. Họ đă làm toàn việc ác mà không biết.
Thật là tội nghiệp cho bộ
đội Miền Bắc. Chính họ là nạn nhân khốn
khổ nhất dưới chế độ Cộng Sản.
Họ thật đáng thương v́ họ là những
người yêu nước chân chính nhưng đă bị bọn
Cộng Sản chóp bu lừa một cách đau đớn
để hy sinh xương máu một cách vô nghĩa. Chính
ví thế mà trong tương lai gần đây, toàn thể bộ
đội Miền Bắc này sẽ nổi dậy dẹp
bỏ chế độ Cộng Sản phi nhân để
chuộc lỗi lầm với tổ quốc và đồng
bào trong hơn nửa thế kỷ qua.
8. Hành động của cán bộ
Cộng Sản sau khi chúng cưỡng chiếm Miền Nam
được diễn tả trong 6 tiếng đều bắt
đầu bằng mẫu tự “V”: “Vào, Vơ Vét, Về
Vui Vẻ.” Toàn dân biết bản chất bọn Cộng Sản
quá rơ nên đă hiểu tiếng đồng nghĩa của
“kiểm kê” và “đổi tiền” là “ăn cướp.”
Người dân Miền Nam của chúng ta thật là thông minh
nhất nhân loại v́ đă hiểu rơ dă tâm và bản chất
của bọn Cộng Sản.
Việc
kiểm kê và đổi tiền là một việc cần
thiết, nhưng trên thực tế, trong trường hợp
của bọn Cộng Sản, đây là một tấm b́nh
phong để bọn Cộng Sản cướp tài sản
và tiền băc của dân. Chính v́ thế mà người dân
đă có những câu cao dao để nói rơ bộ mặt thật
của Cộng Sản như sau: “Giải phóng giờ
đây phỏng giái rồi,/ Chính mi bán nước Chí Minh
ơi!/ Độc lập diễn toàn tṛ đập lột,/
Lộng kính làm chi liệng cống thôi.” Việc “giải
phóng” là việc thiện, nhưng bọn Cộng Sản lợi
dụng từ “giải phóng” để lừa dân hầu
đi xâm lăng cướp của giết người.
Đó là việc ác.
9. Trước đây, tên Hồ tặc
thường tỏ ra yêu mến nhi đồng. Hắn ta
hay ôm hôn nhi đồng nhưng chẳng thèm nh́n vào nhi đồng
mà chỉ nh́n vào ống kính máy ảnh hay mải nói chuyện
với người khác.
Trong một thông điệp gửi
thiếu nhi nhân dịp Tết Nhi Đồng, Hồ tặc
đă viết: “Tết Nhi Đồng năm nay Bác chẳng
có quà ǵ cho các cháu, Bác chỉ tặng các cháu nhiều các
hôn...”
Khi nghe thông điệp này xong, hai em
học sinh bàn chuyện với nhau. Một em nói: “Bác Hồ
sống ở Tây lâu năm nên văn minh như Tây như Mỹ
vậy. Hồi Mỹ c̣n ở đây, đi qua các quán bán
'bar,' tao vẫn thấy lính Mỹ tặng các cô gái bán 'bar'
nhiều cái hôn ngay giữa đường.”
Em khác lại nói: “Mày ngu quá, Bác Hồ
thông minh nhất, tặng thiếu nhi nhiều cái hôn đâu
có tốn tiền. Lính Mỹ ngu như ḅ, tặng hôn các cô
bán 'bar' c̣n phải trả bằng Đô La nữa chứ!”
Việc “ôm thiếu nhi hôn” là thiện, nhưng Hồ tặc
chỉ đóng kịch thôi, đó là ác.
10. Như lời của toàn dân
đă lên án, chế độ XHCN là chế độ “Xuống
Hàng Chó Ngựa,” tham nhũng, hối lộ, và cửa quyền.
Nếu cán bộ Cộng Sản nói: “Hồ sơ của chị
tôi xếp 'đầu tiên' để chờ lănh đạo
giải quyết,” ta phải hiểu là chúng đ̣i hối lộ
bằng cách nói bóng gió bằng hai từ “đầu tiên,” tức
là có ư hỏi “Tiền đâu?” Đây là cách nói lái của từ
“đầu tiên,” tức là “tiền đâu?” Trong trường
hợp này ta phải “x́ Đô La” ra th́ hồ sơ của
ta sẽ được giải quyết. V́ thế, người
dân sống dưới chế độ Cộng Sản chỉ
cần biết 3 nốt nhạc trong bảy nốt “Đô,
Rê, Mi, Pha, Sol, La, X́” th́ làm việc
ǵ cũng xong. Ba nốt nhạc đó là “X́ Đô La”! Việc
hồ sơ được để đầu tiên là thiện,
nhưng ư của chúng muốn hỏi tiền đâu là ác.
11. Từ ngày Cộng Sản chiếm
trọn Việt Nam, mọi người dân từ Bắc
đến Nam đều buồn
rầu năo ḷng, buồn riêng cho phận ḿnh hẩm hiu và buồn
chung cho đất nước gặp đại nạn. Việc
này đă được thổ lộ qua câu chuyện
sau:
Có một anh chàng gốc Miền Nam
tập kết ra Bắc và nay được trở về
quê. Hắn ta đă lâu ngày không được ăn trái sầu
riêng, nay trông thấy sầu riêng vàng nuột, thơm
phưng phức, bèn hỏi mua một quả để
ăn cho đỡ thèm. Sau khi hỏi giá, anh ta than là đắt
quá. Cô bán hàng thấy cái nón cối đă nực cả
người nên cô dùng cách chơi chữ để trả lời:
“Sầu Riêng và Sầu Chung mấy năm nay đều
được mùa cả, nhưng ai cũng phải ăn hết
nên đắt lắm, anh cán bộ ơi!” Ôi! Lũ khỉ rừng mà chực
leo cành liễu rủ th́ có bị nhục chắc cũng
không biết mu tê là ǵ, tội nghiệp!
12. Bản hiến pháp của bọn
Việt Cộng đă được bọn này ăn cắp
cả văn lẫn ư trong bản hiến pháp của Hoa Kỳ
và bản hiến chương của Liên Hiệp Quốc
để viết ra. Đọc qua bản hiến pháp Việt
Cộng này, những người ngây thơ đều tin
là bọn Cộng Sản tôn trọng quyền tự do của
người dân v́ “quyền tự do của công dân đă
được xác nhận trong hiến pháp của bọn
chúng: tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội
họp, biểu t́nh, lập hội, và tự do tín ngưỡng,
v.v.” Bọn chóp bu Việt Cộng c̣n tuyên bố là tất cả
các quyền ấy đều được thi hành nghiêm chỉnh.
Đọc những ǵ mà bọn Cộng
Sản viết và nghe những ǵ bọn Cộng Sản nói,
ta đều thấy đó là các điều thiện.
Nhưng trên thực tế, đó toàn là sự lừa bịp
và giả dối. Quả đúng như lời Nguyên Văn
Thiệu đă nói trước đây là đừng tin những
ǵ Cộng Sản nói ma hăy nh́n những ǵ Cộng Sản
làm.
Bọn Cộng Sản Việt Nam
quả là quân mặt dạn mày dày, gái đĩ già mồm,
và vừa đánh trống vừa ăn cướp! Tất
cả các lời nói của tập đoàn Cộng Sản
đều là bánh vẽ, thực tế cho thấy chúng là
quân cướp của giết người, mặt người
dạ thú, và vô liêm sỉ. Đó mới đích thực là “Bề
ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong nham hiểm giết
người không dao” và “Miệng Nam Mô, bụng bồ dao
găn.” Lời nói thiện mà
hành động ác là bản chất của quân gian manh phản
phúc Cộng Sản.
13. Hiện nay, ngoài mặt bọn Cộng
Sản Việt Nam đă “cởi trói” cho văn nghệ sĩ
và đă nới rộng tự do cho dân chúng. Nh́n bề ngoài
như là có vẻ tiến bộ, nhưng thực ra văn
nghệ sĩ và toàn dân giống như “kiến ḅ miệng chén, cá nàêm trên
thớt” để bọn Cộng Sản muốn sát hại
lúc nào cũng được.
Bọn chóp bu Cộng Sản c̣n thuê
và trả lương rất hậu cho những phường
ham danh quyền lợi bất chính để giả vờ
chống Cộng và giả vờ làm đối lập hay
đối lực cho chúng. Rồi sau này chúng có thể lại
dùng thủ đoạn để giả vờ tuyên bố
giải thể chế độ Cộng Sản hầu
tránh bị dân làm cách mạng lật độ chúng và giết
hại chúng. Lúc bấy giờ chúng sẽ cho tổ chức
bầu cử tự do một cách gian lận để cho
những phường đối lập giả hiệu và
tay sai của chúng lên nắm chính quyền. Sau đó, chính
chúng ta có thể là người ngây thơ đứng ra hỗ
trợ cho bọn Cộng Sản đội lốt dân chủ,
và kết quả là chúng ta sẽ
bị bọn Cộng Sản tiêu diệt dần như
chúng đă làm đối với Chính Phủ Liên Hiệp hồi
1946. Chúng sẽ tiếp tục độc tài chuyên chế một
cách hợp pháp và tiếp tục đầy ải nhân dân xuống
hàng chó ngựa.
14. Có một chân lư không bao giơ sai
là những kẻ lưu manh phản phúc, cướp của
giết người, và bọn Cộng Sản không bao giờ
tự chúng trở thành con người lương thiện
được. Chúng có thể thay đổi thái độ
đôi chút để tồn tại và tự cứu trong
t́nh thế nguy ngập, nhưng bản chất của bọn
này không bao giờ thay đổi được v́ chứng
nào tật đó. Cộng tác hay chơi với bọn này chỉ đem đến việc tự hủy ḿnh mà thôi.
Ở Bắc Mỹ này, người
ta sợ nhất là những kẻ đă có tiền án. Những
kẻ đă có tiền án th́ không bao giờ được
chính phủ tuyển dụng làm công chức, làm thầy cô
giáo, làm nhân viên trông coi và giữ
trẻ, và nhất là làm các chức vụ liên quan tới
việc tài chánh và chỉ huy.
Chế độ Cộng Sản là
chế độ chủ trương đào tạo những
con người phạm pháp, chúng ta phải dứt khoát tiêu
diệt chế độ Cộng Sản bằng mọi
cách. Khi giải thể chế độ Cộng Sản
xong rồi, đối với bọn Cộng Sản và bọn
Cộng nô, nếu có sử dụng bọn chúng, ta cũng
phải hết sức cảnh giác. Không thể để
chúng náêm các chức vụ chỉ huy và tài chánh. Ta phải
coi bọn này là bọn có tiền án về việc cướp
của giết người.
Khi chúng ta nắm được
chính quyền, có quyền có thế, có tiền bạc th́ tụi
phản phúc và phản quốc sẽ không làm ǵ được,
chúng sẽ tỏ ra trung thành với ta, nhưng chúng sẽ
phản lại ta khi ta yếu thế và không thỏa măn
được ḷng tham của chúng. Ta phải hiểu việc
này để đề pḥng khi dùng lại bọn chúng. Cổ
nhân đă có nhận xét về những kẻ tiểu nhân
như sau: “Thuận buồm xuôi gió, chén chú chén anh,/ Lên thác xuống
ghềnh, mày tao chi tớ.”
Ngoài ra, ta luôn luôn phải nhớ rằng bọn Cộng
Sản là bọn ác độc c̣n hơn cả dă thú như
hổ báo sư tử và rắn rết. Ngoài thú tính ra chúng
c̣n có thủ đoạn tàn ác không thể lường
được. Chúng ta phải
luôn luôn cảnh giác khi tiếp xúc với chúng và nhớ thuộc
ḷng câu ca dao sau: “ Từ khi có đất có trời,/ Không ǵ
độc ác bằng loài Cộng nô!”
IV. Những Vấn Đề Thiện
Ác Thông Thường Hàng Ngày
1. Thiện Ác Hỗ Trợ Nhau
Chiến tranh hay thiên tai như băo lụt,
hạn hán, động đất, và dịch tả, v.v.
đă giết hại không biết bao người. Nh́n vào sự
tàn phá của nó, ta cho là ác. Nhưng nếu xét kỹ, chính
cái hại của chiến tranh và thiên tai lại tao sự sống
cho không biết bao người và sinh vật khác. Nếu
không, con người và vạn vật sẽ không có đủ
chỗ ở và thức ăn để sống. Đó là
khía cạnh thiện của vấn đề và đây cũng
là luật của sự đào thải.
Sự kiện kẻ mạnh giết
kẻ yếu và con thú lớn ăn thịt con thú nhỏ,
tuy là ác, nhưng trên thực tế, đây lại là một
việc cần thiết để sinh tồn. Chính v́ thế
mà thiện ác rất cần có nhau và đây cũng là luật
của tạo hóa. Có kẻ làm việc ác th́ những người
làm việc thiện mới có ư nghĩa. Phải có đêm và
ngày th́ vạn vật mới phát triển và tồn tại
được. Phải có âm và dương th́ vạn vật
mới sinh tồn và khoa học mới tiến bộ
được.
2. Thiện Ác Khó Phân
Nếu bảo ăn toàn rau cỏ
hay trái cây là tránh được việc sát sinh th́ e không hẳn
đúng. Việc ăn chay như ăn rau đậu, đúng ra cũng đă phạm giới
sát sinh v́ cây cỏ rau đậu, nói chung, đều có sự
sống, có cảm giác, biết sinh sôi nảy nở, và truyền
tử lưu tôn. Ngay việc hái bông hoa để lễ Phật
cũng đă phạm tội sát sinh rồi. Bông hoa là một
mầm sống và nó cũng là một bộ phận sinh sản
để duy tŕ ṇi giống của cây cỏ. Ta hái bông hoa tức
là ta tiêu diệt sự sống ngay khi nó mới bắt
đầu. Việc này cũng giống như ta giết một
con vật lúc nó có bào thai vậy.
Cây cỏ hoa màu cũng có sự
đau đớn xót xa. Khi ngắt một bông sen, ta thấy
nhựa bông sen ứa ra. Đó là máu của nó vậy. Nếu
xem phim chiếu chậm, ta sẽ thấy sự tăng
trưởng của cây cỏ thật là kỳ diệu, nó
giống như sự tăng trưởng của cơ thể
con người vậy.
Con mắt của chúng ta có giới
hạn, không thể nh́n thấy những côn trùng nhỏ li
ti. Mỗi bước chân thiền hành của ta cũng
đă giết chết không biết bao côn trùng dưới cỏ.
Ngay cả việc dùng thuốc trụ sinh để giết
vi trùng vi khuẩn trong cơ thể cũng là việc sát
sinh vậy.
Nói tới sự thiện ác th́ vô
cùng. Tiếng chuông tiếng mơ giữa đêm khuya đă phá
tan sự yên tĩnh của vạn vật và đă vi phạm
quyền tự do yên nghỉ của thiên nhiên và vạn vật.
Mỗi bước ta đi đều có sự phá hoại
trong đó: phá hoại cây cỏ, làm lún đất xuống,
làm dao động không khí, làm tan màn sương, cản gió,
che mất ánh nắng, và làm đứt màng tơ nhện,
v.v.
Như thế vấn thiện ác quả là phức
tạp vô cùng. Vậy chúng ta phải làm thế nào cho phải?
Xin quư bạn đọc xem lời giải đáp ở phần
3 sau đây.
3. Làm Lợi Cho Ḿnh Cho Tổ Chức
Ḿnh để Hại cho Người Khác và Tổ Chức
Khác Là Ác
a. Xưa có một nhà giáo đă từ
chối lời bà mẹ nhờ gửi gấm cho đứa
cháu gọi bằng chú của ông trong kỳ thi tuyển vào
trường chuyên nghiệp ở Saigon, nơi ông đang dạy
học. Nhà giáo này đă làm một việc thể hiện
tinh thần minh hiếu. Nhưng dưới con mắt của
gia đ́nh, ông ta đă làm một việc, theo họ, không phải
là thiện mà c̣n bất công nữa.
Ở vào thời đó, mọi
người đều gửi gấm chạy chọt cho
con em trúng tuyển, tức là mọi người “đục”
cả mà ông giáo này lại không làm như thế, tức là
“trong ,” th́ quả là ông bất công với gia đ́nh ông thật!
Nhưng xét cho kỹ th́ việc làm của ông giáo này có vẻ
ác với gia đ́nh nhưng lại là một việc đại
thiện đối với cộng đồng đất
nước.
b. Trước năm 1975, có những
trường trung học tư và đại học tư mở
ra chỉ nhắm làm tiền bằng cách bán chứng chỉ
học tŕnh để câu những học sinh phải đi
ṭng ngũ v́ không hội đủ điều kiện miễn
dịch về học vấn.
Mặt khác, những người đă “bị” đi
lính, gia đ́nh lại hối lộ để chồng con
khỏi phải ra mặt trận đánh nhau với quân xâm
lăng Cộng Sản. Tất cả những điều
này đều có lợi cho cá nhân, có lợi cho nhà trường
nhưng nó là một đại họa cho đất nước.
Kết quả là Cộng Sản nhờ đó mà đă chiếm
trọn cả Việt Nam.
Đau đớn hơn nữa khi
chúng ta lại thấy những người trước
đây đă chủ trương mở trường để
bán chứng chỉ học tŕnh
nay lại ra thành lập tổ chức chính trị
để hô hào mọi người giải trừ chế
độ Cộng Sản! Làm sao mà tin họ được
nữa bởi v́ việc làm của họ trước
đây có lợi cho cá nhân nhưng lại làm hại cho quốc
gia dân tộc. Một sự bất tín vạn sự không
tin là vậy!
c. Ngày nay ở hải ngoại, các
đoàn thể chính trị, tổ chức tôn giáo, và tổ
chức cộng đồng đă phát triển như
trăm hoa đua nở. Đây là hiện tượng tốt.
Tuy nhiên, đa số những tổ chức này chỉ lo
cho tổ chức ḿnh mà không lo việc kết hợp để
chiến đấu giải thể chế độ Cộng
Sản Việt Nam. Có một số người và tổ chức
đă lo việc kết hợp, nhưng lại chỉ làm
cho có h́nh thức, chú trọng vào danh hơn thực, đặt
cái “ta” quá lớn để “hô hào mọi người dọn
cỗ cho ḿnh ngồi trên.”
Đấy là chưa nói tới những
tổ chức dựng ra chỉ cốt bịp đồng
bào để lấy tiền, mua danh một cách trơ trẽn,
nhiên hậu làm lợi cho Cộng Sản và làm mất ḷng
tin tưởng của đồng bào hải ngoại. C̣n
có những tổ chức do
bọn Việt Cộng dựng lên mà ngoài mặt chúng đội
lốt người Việt Quốc Gia để phá hoại các tổ chức chống Cộng ở hải ngoại và
làm tiêu tan niềm tin của đồng đối với
các tổ chức chống Cộng này. V́ thế, trong
tương lai, dù ta có xây dựng được một tổ
chức cách mạng có thực lực và chính nghĩa, đồng
bào cũng nghi ngờ mà không hết ḷng yểm trợ. Tội
ác của những đoàn thể bất chính này đă gây ra
thật là vô cùng tai hại cho tập thể người Việt
hải ngoại chúng ta.
d. Ngoài ra c̣n có một số người
mặt dạn mày dày, không biết lẽ phải, và vô liêm sỉ
đến nỗi làm việc phạm pháp, biển thủ
công quỹ, cạo sửa cả điều lệ nội
qui, và tiếm danh xưng để t́m cách ở lại
trong tổ chức thêm nhiều nhiệm kỳ nữa với
mục đích đưa cả tổ chức đi làm tay
sai cho bọn Cộng Sản chỉ v́ tham danh quyền bất
chính. Bọn này quả đă làm lợi cho cá nhân của
chúng mà hại cho toàn thể người Việt hải ngoại.
Những bọn khác lại lợi dụng tổ chức của các
cụ cao niên để ḅn mót tiền của, lừa đảo
các cụ già yếu, và làm kinh tài cho cộng sản. Tụi
này thấy các cụ đa số già yếu và kém ngoại
ngữ nên chúng mặc t́nh thao
túng. Ngoài mặt chúng tỏ ra phục vụ các cụ,
nhưng thực tể là làm hại các cụ và làm suy yếu
tổ chức. Các cụ có biết cũng không làm sao
được v́ ḿnh yếu sức, yếu tiền, và
không có quyền thế nên một số các cụ phó mặc trong khi một số
các cụ khác đă rời bỏ tổ chức nên tụi
này vẫn tiếp tục hoành hành. Quả là đồ vô
liêm sỉ và gian ác! Chúng chỉ v́ danh quyền lợi bất
chính mà làm hại tập thể và làm lợi cho bọn Việt
cộng.
Một số tổ chức khác cũng
có những quân mặt dạn mày dày như vậy, chúng lợi
dụng ḷng tin của hội viên và kẽ hở của
Điều Lệ để khuynh loát tổ chức bằng
cách tổ chức bầu cử gian lận, chẳng hạn
như thâu nhận hội viên bất hợp pháp hay đến
ngày bầu cử họ đưa những người
không có tên trong danh sách hội viên đến đóng niên liễm
và bầu cử, bất chấp cả Điều Lệ Nội
Quy. Nếu có ai đem Điều Lệ và Nội Quy ra chống
đối những hành động phi pháp này th́ tụi này
lại lấy số đông (những người không phải
là hội viên nhưng có mặt ngày hôm đó) để phá rối.
Không muốn tổ chức bị
tan ră, những hội viên có liêm sỉ và là thiểu số
đành phải rời tổ chức. Đây là thỉ dụ
điển h́nh về các việc ác. V́ muốn nhằm thỏa
măn tự ái và làm lợi cho một số cá nhân mà một số
người đă làm hại cho cả tổ chức và cộng
đồng. Đây là việc đại ác.
4. Việc Làm Có Vẻ Ác mà Lơi Cốt
Là Thiện, Có Vẻ Thiện mà Lơi Cốt Là Ác
Việc cha mẹ đánh mắng
con cái với mục đích dạy chúng nên người, trừ
trường hợp gây thương tích, được coi
là thiện. Cha mẹ chiều theo thị hiếu của trẻ
để giúp chúng muốn ǵ được nấy, mặc
chúng lêu lổng chơi bời, để lại nhiều
tiền của cho con mà không lo cho chúng đi học đến
nơi đến chốn, đều là ác cả. Ca dao của
ta có câu: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.”
Nghe nói đến từ “diệt
trư,ø” có người cho là ác, nhưng “diệt trư”ø chế độ
Cộng Sản để cứu dân cứu nước
đó là việc đại thiện. Người
xưa c̣n nói rằng nếu phải
giết những kẻ ngoan cố và không chịu phục
thiện để cứu chúng sinh th́ đó là hành động
của vị Bồ Tát vậy.
Cộng Sản c̣n ngự trị ở
Việt Nam ngày nào th́ hơn 80 triệu đồng bào trong
nước c̣n bị đầy ải ngày đó. Ngược
lại, khi nghe nói đến từ
“cộng tác,” người ta cho là việc thiện,
nhưng nghe lời dụ dỗ của Cộng Sản
để về “cộng tác” hay đem vốn về làm
ăn với Cộng Sản đều là ác cả v́ làm
như thế ta đă mặc nhiên giúp chế độ Cộng
Sản tồn tại lâu hơn để đầy ải
nhân dân nhiều hơn. Đó là việc đại ác.
Giết hay xử tử h́nh những
quân tội phạm chiến tranh, những tên khủng bố,
bắt cóc, tàn sát dân lành, tham ô nhũng lạm đều là
thiện. Chứa chấp hay dung túng cho quân phạm pháp là ác
v́ ta giúp chúng có cơ hội hại nhân dân nhiều hơn.
Khi phê b́nh tác phẩm nào đó của
một nhà văn, ngoài những điều hay, ta phải có
những nhận xét xây dựng để giúp tác giả cải
tiến. Đó là thiện. Nếu v́ muốn chiều
người và không dám nói sự thật mà ta chỉ khen
tưới lên, vuốt ve và nuôi dưỡng ḷng tự cao tự
đại của tác giả bằng những lời giả
dối và khéo léo th́ ta đă làm điều đại ác.
Tuân Tử đă viết về cách
tu thân như sau: “Người chê ta mà chê phải tức là
thầy ta, người khen ta mà khen phải tức là bạn
ta, c̣n người nịnh hót ta lại là người cừu
địch hại ta vậy.”
Việc làm nhục một người
bạn thân trong trường hợp Dương Lễ làm
nhục Lưu B́nh là cốt để khích ḷng tự ái của
bạn trong việc tiến thân là một điều thiện.
Ngược lại, nếu chiều chuộng bạn để
làm nhụt cái chí khí tiến thủ hay khuyến khích và xúi bạn
làm việc ganh đua trục lợi, ta đă làm điều
ác.
V. Quan Niệm Thiện Ác Trong Đạo
Phật
Quan niệm về thiện ác trong đạo Phật
rất khác với thiện ác trong thế tục. Đạo
Phật quan niệm là nhân và ngă không phải là hai. V́ ngu tối
do vô minh gây ra, ta mới nhận là có nhân
và có ngă, tức là phân biệt người và ta, nên mới
có thiện, có ác, có lợi, và có hại. Nếu tất cả là một và
một là tất cả, ta là người và người là
ta, th́ không c̣n có vấn đề thiện ác hay lợi hại
v́ cái hại của kẻ này là cái lợi của người
kia, và ngược lại.
Chữ “Ta” giữ phần quyết
định trong vấn đề
thiện ác. Có lợi cho Ta, cho gia đ́nh Ta, cho bạn
Ta, cho tổ chức Ta, cho nước Ta mà lại hại
cho những ǵ không phải là của Ta, đều là ác cả.
Ngược lại, nếu làm lợi cho hết thảy
nhân loại, không phân biệt kẻ thiện người
ác, thù hay bạn, thân hay sơ, người hay ta, người
Nam hay kẻ Bắc, Âu Mỹ hay Á Đông, da trắng hay da
màu, nam hay nữ, và tôn giáo này hay tôn giáo khác th́ mới
được gọi là thiện.
Tóm lại, ư niệm về thiện
ác trong đạo Phật căn cứ vào tiêu chuẩn của
lợi và hại. Lợi cho tất cả là thiện. Lợi
cho ḿnh mà hại cho người là ác. Chính v́ điểm này
mà Phật Tử chân chính không bao giờ gây khổ đau
cho tha nhân. Những đấng giác ngộ không chấp nhận
luật tử h́nh hay hành hạ tội nhân. Đạo Phật
coi tất cả chúng sinh là một, b́nh đẳng vô nhị.
Một thí dụ về thiện ác hết sức rơ rệt
là chính cuộc đời của đức Phật. Hồi
c̣n nhỏ, Đức Phật là Thái Tử Siddharta, con Vua
Suddhodana và Hoàng Hậu Mahamaya của xứ Sakyas, tức là
phần đất của Nepal ngày nay ở dưới chân
núi Himalayas, tức Hy Mă Lạp Sơn. Trước khi thành
Phật, ngài đă bỏ cha mẹ, bỏ vợ là Yasodhara,
và bỏ cả người con trai duy nhất là Rahula lúc cậu bé vừa mới chào
đời để đi cầu thầy học đạo.
Nếu đứng về quan niệm
trần tục hẹp ḥi và cố chấp, người ta
cho Thái Tử Siddharta là người con bất hiếu,
người chồng bạc nghĩa, và người cha thiếu
bổn phận. Như thế có nghĩa là người ta
cho Thái Tử Siddharta đă làm một việc ác. Tuy nhiên,
trong trường hợp này, Thái Tử Siddharta bỏ gia
đ́nh ra đi không phải để lêu lổng ăn
chơi mà để t́m đường giải thoát cho ḿnh,
cho gia đ́nh ḿnh, và cho toàn thể chúng sinh. Như trên đă nói, lợi cho tất
cả mọi người là việc thiện. Thái Tử
Siddharta đă làm một điều đại thiện là
làm lợi cho toàn thể chúng sinh và nhân loại.
Nếu Thái Tử Siddharta chỉ lo
riêng cho hoàng cung, chỉ lo cho cha mẹ, và chỉ lo cho vợ
con không thôi th́ nhân loại ngày nay đâu có được thấy
ánh sáng Từ Bi của đức Phật. Thái Tử
Siddharta ra đi cầu thầy học đạo năm
ngài mới 29 tuổi, và sau sáu năm tu học, ngài đă tự
ḿnh t́m ra chân lư để giác ngộ thành Phật lúc vừa
được 35 tuổi. Người ta gọi ngài là Phật,
tức là người giác ngộ, v́ ngài đă giác ngộ
được nguồn gốc đau khổ của nhân loại
và đă t́m được cách cứu khổ cho nhân loại. Việc Thái Tử Siddharta bỏ
nhà ra đi t́m con đường giải thoát là cả một
đại hạnh cho nhân loại. Đó là điều
đại thiện vậy.
Chính v́ thế, quan niệm về
thiện ác trong đạo Phật
chú trọng vào cái tâm chứ không chỉ căn cứ vào việc
làm không mà thôi. Có tâm cao thượng
giúp ích cho tất cả mọi người, đó là
thiện . Có tâm ích kỷ, chỉ lo riêng cho gia đ́nh ḿnh,
cho họ hàng ḿnh, cho đất nước ḿnh không mà thôi,
đó là ác.
Việc thiện và ác nhiều khi rất
cần thiết cho nhau như bóng đêm cần thiết cho
ánh sáng và nhờ có người ác ta mới biết thế
nào là người thiện. Nhiều khi ta phải nhờ có
việc ác trước đây mà việc thiện sau này ta
làm mới được viên măn.
Những hàng đệ tử của
đức Phật gồm đủ hạng người từ
kẻ sát nhân, trộm cướp, đến các kỹ nữ.
Ngài không từ chối một ai khi họ muốn xin làm
đệ tử của Ngài.
Nhờ kinh nghiệm nếm đủ
mùi đắng cay, các bậc đại giác mới siêu việt
hóa được cuộc đời ḿnh.
Giáo lư về B́nh Đẳng của
nhà Phật thể hiện đức đại từ bi
và năng hỉ xả. Giáo lư b́nh đẳng chủ
trương không để ư đến thiện ác hay thị
phi mà nhằm vào việc
thường hành b́nh đẳng, tức là việc luôn luôn
thực hiện được cái tâm b́nh đẳng đối
với tất cả muôn loài.
Trong các câu nguyện của Quan Thế
Âm Bồ Tát, có câu: “Nam mô đại từ đại
bi, năng hỷ xả, Quan Âm Như Lai, thường hành
b́nh đẳng nguyện.”
B́nh Đẳng Quan của Đại
Thừa chủ trương thản
nhiên, điềm đạm, và vô tư của bậc đại
giác trước vấn đề thiện ác. Tâm đă b́nh
đẳng th́ không c̣n có sự phân chia thiện ác hay thị
phi nữa. Đây cả là một triết lư cao siêu của
nhà Phật, nó có vẻ khó hiểu và có vẻ vô lư đối
với người thế tục v́ chúng sinh quen với
quan niệm phân chia thiện ác
và cho là kẻ giết người phải đền
tội. Họ kính trọng và muốn gần người
thiện và khinh khi cùng xa ĺa kẻ ác.
Đối với nhà Phật, Phật
nói rằng: “Nếu có kẻ chặt cánh tay ta và một kẻ
khác săn sóc băng bó cho ta,
đối với hai người này ta xem đồng đẳng,
không coi ai là thù và cũng không coi ai là bạn.” Đó là đức
tánh vô lượng xả của các vị Bồ Tát.
Muốn đạt được
vô lượng xả, chúng sinh phải có tâm vô cầu, vô ngă,
và vô niệm. Nếu đi tu để có được
quyền năng thiêng liêng huyền bí phi thường, khác hẳn
với loài người, ta sẽ làm tăng bản ngă rồi
sinh ra kiêu căng và tự cao tự đại. Điều
này trái với chủ trương của Phật. Đạo
Phật đề cao vô ngă, vô niệm, vô cầu, vô tướng,
vô trụ, vô trước và vô thường để đạt tới bát
nhă và giải trừ vô minh, nguồn
gốc của đau khổ. Khi đă chuyển mê khải
ngộ, ta đạt tới đất Phật, tức là
niết bàn.
Trong trạng thái niết bàn, không
c̣n có thiện ác nữa. Nếu
tu thiền định với mục đích ao ước
đạt được sự khang kiện và quyền
phép, ta sẽ đi vào tà đạo hay ác đạo. Thiền
Định phải nằm trong quan niệm vô tướng,
vô niệm, vô ngă, vô cầu, vô trụ, vô trước, và vô
thường mới mong đạt tới tri huệ bát
nhă. Chính v́ thế, khi tu thiện
nghiệp để cầu phúc,
ta sẽ không bao giờ đạt được việc
giải thoát. Cũng chính v́
quan niệm lợi cho tất cả chúng sinh, nên người
tu Phật không bao giờ t́m sự giải thoát chỉ cho
riêng ḿnh mà c̣n giải thoát cho tất cả nhân loại nữa.
Thiện ác cũng giống như
âm dương. Chúng hỗ trợ nhau. Trong vũ trụ,
không bao giờ có thuần dương mà cũng chẳng có
thuần âm. Âm dương cần có nhau và nương dựa
vào nhau để vạn vật sinh sôi nẩy nở. Chính
v́ thế, cũng không bao giờ có thuần ác hay thuần
thiện. Người xưa nói rằng: “Con ngựa bất
kham là con ngựa hay” và “có tài có tật.”
Một người dù là đạo
đức tới đâu cũng có một vài tật xấu
nào đó. Người xưa đă nói“Nhân vô thập toàn” là
như vậy.
Có người chủ trương
lấy việc tu thiện nghiệp để trừ ác nghiệp với mục đích
cầu phúc cho ḿnh. Đây là một sự sai lầm v́ cách
tu này không đi đến giải thoát mà c̣n tạo cho thiện
ác đối đầu nhau và làm cho ác nghiệp càng mạnh
thêm.
Nếu chủ trương tu thiện
nghiệp để cầu phúc, ta lại bị ái, thủ,
hữu, và vô minh che mất Phật tánh của ta, và nhiên hậu
không những không giải thoát được mà c̣n lẩn
quẩn trong ṿng sinh tử luân hồi. Phải vượt
lên trên cả thiện và ác, đừng nghĩ tới thiện
ác, ta mới nhận thấy Phật tánh nơi ta để
có được tri huệ bát nhă và đạt tới cảnh
trí Niết Bàn, nơi không c̣n có thiện ác cùng phiền năo nữa.
VI. Tổng Luận
1. Phát Huy Giáo Lư Các Tôn Giáo và Phát Huy Luật
Pháp Thế Tục để Tạo Hạnh Phúc Cho Dân
Nhà Phật chủ trương
thường hành b́nh đẳng
đối với tất cả vạn hữu nên
không c̣n có phân chia thiện ác hay thị phi. C̣n thế tục th́ theo lư nhị
nguyên, tức là có cái tâm sai biệt, phân biệt người
và ta, nên thiện ác và lợi hại mới có đất phát triển.
Giáo lư nhà Phật là để giáo dục
chúng sinh nhằm giúp họ giải thoát mọi khổ
đau và phiền năo.V́ thế nhà Phật không chủ
trương kết tội ai hay trừng trị những kẻ
phạm tội ác.
Pháp luật của thế tục
th́ khác hẳn. Kẻ có tội phải bị trừng trị
và người làm việc thiện th́ được
thưởng. Chế độ độc ác phi nhân phản
dân tộc như chế độ Cộng Sản phải
được luật pháp thế tục giải trừ.
Quân lừa thầy phản bạn phản quốc phải
bị thế tục nguyền rủa th́ nhân loại mới
yên vui.
Hai khía cạnh này tuy khác nhau mà rất
hỗ trợ cho nhau. Có thế th́ chúng sinh mới có hạnh
phúc. Giáo dục phải đi đôi với thưởng phạt
th́ mới có kết quả.
Thưởng để khuyến
khích người đă đạt kết quả tốt và khuyến
khích mọi người khác noi theo trong khi phạt nhằm
mục đích để giáo dục người đă vi phạm
luật pháp và làm gương cho người khác. Phạt ở
đây không có nghĩa là trả thù. Đối với bọn
Cộng Sản và Cộng nô, ta cũng phải trừng trị
nhưng trừng trị trong ư nghĩa giáo dục chứ
không phải để trả thù.
Cái nh́n thiện ác của đạo
Phật và thế tục là như thế. Chúng ta cần hoằng
dương giáo lư nhà Phật và giáo lư của các đạo
khác để giúp cho toàn thể nhân loại sống trong trật
tự, thương yêu nhau, có
tâm hồn cao thượng, có
ḷng đại từ bi, đức bác ái, và năng hỷ xả th́ vấn đề thiện ác
hay lợi hại ở trên thế gian sẽ không c̣n là vấn
đề nữa. Có như thế, ta mới tạo
được một xă hội nhân bản, trong đó dĩ
nhiên gồm có tự do, dân chủ, và nhân quyền, đúng với
chủ trương của Phật là tạo niết bàn ở
ngay cơi thế gian này.
Song song với việc hoằng
dương giáo lư nhà Phật và giáo lư của các đạo
khác, pháp luật ngoài đời do
chính phủ của các nước tự do đăït
ra cũng phải được duy tŕ và cải tiến
để tạo khung cảnh thuận lợi cho việc
tu tâm dưỡng tánh trong một xă hội nhân bản mà sự
tranh chấp, thiện ác, hay thị phi không c̣n chỗ đứng.
Lúc bấy giờ th́ phiền
năo thành bồ đề và vô minh
thành giác ngộ, nhiên hậu ta sẽ có cuộc sống
vượt lên khỏi thiện ác hay thị phi.
2. Thành Lập Pḥng Thông Tin Phục
Quốc và Hội Đồng Phục Quốc của
Người Việt Hải Ngoại
Muốn xây dựng một xă hội
nhân bản, ta phải loại trừ những chướng
ngại vật của việc xây dựng xă hội nhân bản. Chướng ngại
vật hiện nay là chế độ Cộng Sản, nhất
là Việt cộng. Chế độ Cộng Sản Việt
Nam hiện đang đàn áp các tôn giáo và toàn dân Việt
nơi quê nhà một cách dă man và vô nhân đạo.
Muốn cho giáo lư nhà Phật cũng
như giáo lư các tôn giáo khác có môi trường hoằng
dương, muốn xây dựng xă hội nhân bản pháp trị,
chúng ta phải quyết tâm giải thể chế độ
Cộng Sản nơi quê nhà cho bằng được.
Trong t́nh h́nh hiện nay, chúng ta phải
gấp rút kết hợp để lập thành một tổ
chức qui mô và thống nhất gồm những tổ chức
chân chính chống Cộng bao gồm những tổ chức
chính trị, tổ chức cộng đồng, và tổ chức
tôn giáo của người Việt hải ngoại hầu
gây đại nghĩa làm rường cột cho việc giải
trừ chế độ Cộng Sản xâm lăng nơi
quê nhà. Nếu không, những cố gắng riêng rẽ của
mỗi tổ chức người Việt hải ngoại
sẽ dần dần bị tiêu tan đi.
Nếu không kết hợp
được, chúng ta sẽ
vô t́nh phạm vào tôi ác đối với tổ quốc
và quê hương v́ đă để cho bọn Cộng Sản
và Cộng nô có cơ hội tồn tại lâu hơn ở
Việt Nam và đầy ải hơn 80 triệu dân Việt
trong nước xuống tận cùng của đáy vực
khổ đau.
Để đạt được
mục tiêu kết hợp, một Hội Đồng Phục
Quốc cần phải được các cá nhân chân chính yêu
nước thương ṇi cùng với các tổ chức và
hội đoàn chân chính chống Cộng đứng ra vận
động và tổ chức càng sớm càng tốt.
Nếu không thể tổ chức
được ngay hội đồng này, chúng ta cần
thành lập gấp một Pḥng Thông Tin Phục Quốc với
mục đích giúp vào việc
dùng văn nghệ để vận động phục quốc
bằng cách thu phục nhân tâm,
kết hợp các chiến sĩ có cùng một lập
trường chân chính phục quốc, và tập hợp các
tổ chức cùng các hội đoàn có thành tâm phục quốc. Từ đó, ta sẽ có căn bản
thành lập một Hội Đồng Phục Quốc
để thực hiện bằng được việc
giải thể chế độ Cộng Sản ở Việt
Nam hầu đem lại tự do, dân chủ, và nhân quyền
cho toàn dân Việt. Nếu làm khác đi là ta đă tự huỷ
ḿnh để bọn Cộng Sản trở thành yêu tinh ngàn
đời của dân tộc.
3. Hăy Cố Gắng Duy Tŕ và Phát Huy
Các Thành Quả Đă Đạt Được
Mặc dầu gặp bao khó
khăn, người Việt hải ngoại chúng ta cũng
đă làm được một số việc đáng kể
gây cho bọn Việt cộng trăm cay ngàn đắng. Cộng
đồng người Việt hải ngoại đă
đạt được một số thành tựu đáng
kể từ trước tới nay như đă cảnh tỉnh
thế giới về hiểm họa Cộng Sản và làm
cho Quốc Hội và chính phủ Hoa Kỳ đă chấp nhận
ngày 8 tháng 5 mỗi năm là “Ngày Nhân Quyền Cho Việt
Nam.” Với Quyết Nghị số 322 ngày 10-7-2000, Quốc
Hội Hoa Kỳ đă chính thức công nhận ngày Quân Lực
19-6 và chính thức vinh danh các chiến sĩ Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa.
Hiện nay, lá cờ Việt Nam Tự
Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đă và đang được
tung bay trên khắp những nẻo đường thế
giới tự do. Đặc biệt là vào ngày10- 9 -2000, Liên
Hiệp Quốc đă chấp nhận cho phái đoàn Việt
Nam chống Cộng ở hải ngoại tham dự cuộc
diễn hành văn hoá dưới lá cờ Việt Nam Tự
Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ. Đây là lần thứ
15 và cũng là dịp kỷ niệm lần thứ 55 ngày
Liên Hiệp Quốc được thành lập. Cộng
đồng Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản tại
hải ngoại đă chiếm giải khôi nguyên trong cuộc
diễn hành văn hóa này.
Ngoài ra, các tổ chức chống cộng
của chúng ta đă gửi một số đông cán bộ
về trong nước đặt cơ sở cách mạng
để loại trừ chế độ xâm lăng Cộng
Sản. Chúng ta đă củng cố
được nội bộ của mỗi đoàn thể
và mỗi tổ chức ngày càng mạnh. Nhờ làm việc
chung đụng, chúng ta cũng đă hiểu rơ ai là người
có thật tâm và sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng
giải trừ Cộng Sản, ai là kẻ đón gió trở
cờ, ai là lũ vô liêm sỉ đi làm tay sai cho Cộng Sản,
và ai là người tiền hậu bất nhất và ham danh quyền lợi bất
chính mà nỡ đâm vào lưng chiến sĩ quốc gia.
Chúng ta đă nhận diện rơ bọn ăn cơm quốc
gia thờ ma Cộng Sản ở hải ngoại này.
Và đặc biệt hơn nữa
là hiện này “chính nghĩa đă thắng gian tà” trong việc
Văn Bút Quốc Tế đă hỗ trợ cho Đại
Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại được tổ chức vào
ngày 24 tháng 3 năm 2001 tại Washington D.C. Đại Hội
VBVNHN này đă thành công mỹ măn. Những sự thành công này
đă là đ̣n chí tử đánh vào cân năo tụi Việt Cộng
và lũ Cộng nô, cái bọn vô liêm xỉ, táng tận
lương tâm mặt người dạ thú.
Nghĩa Đích Thực của Qui Y
Tam Bảo
Qui y tam bảo là một trong những cách tu theo
đạo Phật. Trong từ qui y, qui là quay về và trở
về, y là nương tựa và nhờ cậy. Qui y là quay
về nương nhờ và trông cậy. Qui y c̣n đồng
nghĩa với nam mô. V́ thế qui y và nam mô có nghĩa là chí
tâm hướng về, quyết chí, và cung kính nương
theo. Tam bảo là ba điều
quư báu gồm có Phật, Pháp, và Tăng. Vậy qui y tam bảo
có nghĩa là quay về nương nhờ vào Phật, Pháp,
và Tăng. Trong phạm vi bài này, chúng tôi bàn về nghĩa
đích thực của qui y tam bảo.
I. Cách Giải Nghĩa Thông Thường
về Qui Y Tam Bảo
Được tiếp xúc với
các người theo đạo Phật, từ những vị
có chút vốn liếng Phật học cho đến các Phật
tử b́nh dân, chúng tôi nhận thấy hầu hết các
người này đều hiểu Phật là đức Phật,
pháp là kinh Phật hay đạo lư của Phật, và
tăng là các chư vị tỳ kheo và quư vị sư ni
trong đạo Phật.
Có người cho rằng họ hiểu
như thế là đúng với tinh thần của một số
các vị sư đă thuyết giảng cho họ với mục
đích khuyến khích Phật tử có ḷng tin tuyệt đối
vào đức Phật, kinh Phật, và các nhà sư niđể
phục vụ cho Phật sự.
Một số sách về Phật học
cũng nói về tam qui. Chẳng hạn như trong cuốn
Phật Học Tinh Hoa, Một Tổng Hợp Đạo
Lư, do Phật Học Viện Quốc Tế tái bản tại
Hoa Kỳ vào năm 1983, tác giả Đức Nhuận
đă giải thích tam qui một cách hết sức giản
dị là Phật, Pháp, và Tăng, mà không nói ǵ thêm nữa.
Trong một cuốn khác cũng có
tên là Phật Học Tinh Hoa, tác giả Thu Giang Nguyễn Duy
Cần đă giải thích kỹ
hơn một chút như sau: “Qui y Tam Bảo là nguyện trở
về nương dựa vào Phật, Pháp, và Tăng (những
kẻ thay mặt Phật, đem Phật Pháp giảng dạy
cho ta).” Ông Thu Giang c̣n ghi chú thêm: “Qui là trở về, chữ
Phạn gọi là Namo; y là dựa
vào. Phật, Pháp, và Tăng là
ba thứ của quư (báu) của người tu Phật, nên
gọi là Tam Bảo.”
II. Lư
Giải Theo Giáo Lư của Nhà Phật về Qui Y Tam Bảo
Đức Phật đă dạy “Ta
chỉ là vị Phật đă thành, có nhiệm vụ khai thị
Phật tánh cố hữu của các ngươi. Kẻ nào
phát huy được Phật tánh th́ sẽ thành Phật. Ta
là Phật đă thành, các ngươi là Phật sẽ thành.”
Mỗi chúng sinh đều có Phật Tánh và Phật ở
trong ta. Ngoài ra, cổ nhân có câu: “Phụ mẫu tại tiền
như Phật tại thế, ” tức là khi cha mẹ c̣n sống
th́ các người là Phật tại thế gian vậy.
Điều này có nghĩa là ta qui y với Phật tánh ở
nơi ta và qui y với Phật “Phụ Mẫu” để
giác ngộ đi đến giải thoát ngay trong cuộc
đời hiện tại của ta chứ cần ǵ phải
đi t́m qui y với vị Phật nào khác.
Đạo Phật tiêu biểu cho
tinh thần nhân bản, dân chủ, và tự do. Phật không bắt ai phải qui
y theo Ngài. Phật dạy: “Các ngươi là hơn tất cả
v́ các ngươi có thể thực hiện được
tất cả các sự tốt đẹp.” Phật giáo
không dụ ai hay bó buộc ai vào đạo của ḿnh. Vậy
nếu bảo qui y Phật là quay về nương tựa
vào đức Phật th́ quả không đúng với tinh thần
tu trong đạo Phật.
Lục Tổ Huệ Năng đă
dạy trong Pháp Bảo Đàn Kinh như sau: “Nhược bất kiến Phật,
bằng hà sở qui? Ngôn khước thành vọng.” Câu này có
ư nói là bằng không thấy Phật th́ phải lặn lội
t́m kiếm nơi đâu mà qui y. Vậy th́, nếu nói qui y với
Phật, là vọng ngữ rồi đó.
Phật căn dặn các vị t́
khưu là không nên tin vào tất cả những lời Phật
nói mà phải tự ḿnh xét lại, nếu thấy chắc
chắn có giá trị th́ tin theo. Nghi ngờ lớn th́ giác ngộ
lớn, nghi ngờ nhỏ th́ giác ngộ nhỏ, chẳng
nghi ngờ th́ chẳng bao giờ giác ngộ. Đây là tinh
thần của khoa học thực nghiệm. Khoa học
ngày nay tiến bộ vượt bực cũng nhờ lấy
tính nghi ngờ làm tiêu chuẩn.
Hơn nữa, đức Phật
đă nói là trong suốt 45 năm ngài thuyết pháp mà chẳng
nói hay viết ra một chữ nào. Cách thuyết pháp của
Phật là vừa nói ra vừa phủ định ngày.
Đây là cách phủ định để tiến đến
chân lư tuyệt đối. Ư của Phật muốn đề
cập tới tinh thần vô trước hay vô trứ (không mê, không chấp), tức là
không nên để ḿnh bị ràng buộc hay vướng mắc
vào đâu cả, ngay cả với lời Ngài thuyết giảng.
Ngài c̣n dạy: “Giáo lư của ta chẳng khác nào chiếc bè
dùng để chở ta qua sông (đáo bỉ ngạn), chứ
không phải để đội trên đầu, mang trên
vai măi măi. Các ngươi cần phải vứt bỏ giáo
lư ấy như người ta vứt bỏ chiếc bè khi
đă qua mé sông bên kia.”
Phật không có phép thần thông ǵ cả.
Ngài cũng là chúng sinh như ta, chỉ nhờ có giác ngộ
mà thành Phật ngay khi Ngài c̣n tại thế vào lúc 35 tuổi.
Khi giác ngộ, chúng sinh cũng thành Phật v́ mỗi chúng
sinh đều có Phật tánh vốn sẵn tiềm ẩn
trong người. Ta có thể thành Phật ngay trong cuộc
đời hiện tại này nếu ta biết tự giác
và giác tha.
Phật c̣n dạy rằng có người
lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho ta, nếu đă thấy
mặt trăng rồi th́ có thể biết cái để chỉ
mặt trăng (ngón tay) không phải là mặt trăng. Tất
cả lời nói của Như Lai khai thị Bồ Tát cũng
đều như thế cả.Vậy th́ kinh điển
và văn tự có lúc cần phải quên đi và bỏ
đi th́ mới giác ngộ được. Phật tử
phải tự tu và tự t́m hiểu để đi tới
giác ngộ. Không có phép thần thông nào giúp ta giác ngộ
được.
Như vậy, nếu bảo qui y
Pháp là quay về nương nhờ ở đạo lư nhà
Phật, kinh Phật, hay phép thần thông nào của Phật
th́ quả không đúng với tinh thần tu trong đạo
Phật.
Trong những hàng tăng ni của
Phật giáo, có rất nhiều vị đích thực là các
bậc chân tu. Tuy nhiên, trong môi trường nào cũng vậy,
dù ngoài đời hay trong tôn giáo, bao giờ cũng có các phần
tử xấu. Trong thực tế, ta đă từng thấy
một thiểu số tu sĩ phạm ngũ giới và ngụp
lặn trong tam độc tham, sân, và si.” Họ biến
Đạo Phật từ vô ngă, vô thường, vô niệm,
vô trụ, vô trước, và vô tướng sang hữu ngă, hữu
thường, hữu niệm, hữu trụ, hữu
trước, và hữu tướng.”
Ngày nay chúng ta không c̣n thấy
được cảnh vô ngă, vô thường, vô niệm, vô
trụ, vô trước, và vô tướng trong chùa chiền,
thiền viện, và ở nơi các Phật tử nữa.
Vô ngă là không có bổn ngă và không chấp có một cái thể
thường tồn nhất định. Vô thường là
lúc có lúc không, khi này khi khác, và biến chuyển không chừng.
Vô niệm nằm trong nghĩa của câu “Tâm bất nhiễm
trước thị vô niệm,” tức là tâm ta không nhớ
nghĩ đến điều vui buồn hay mừng giận, không trụ chấp về sự
ǵ hay vật ǵ, và cũng không lo điều ích lợi cho
riêng ḿnh hay làm hại người khác, đó là trạng thái
không c̣n ư niệm phân hai và tâm ḿnh không nhuốm lấy hay
dính trết vào điều ǵ th́ gọi là vô niệm. Vô trụ
là chẳng ở yên chỗ nào, tuỳ theo nhân duyên mà biến
chuyển và sanh diệt, không bị trói buộc, và không có
phiền năo. Vô trước là không mê không chấp. Vô tướng là không có tướng
mạo, h́nh dạng, hay thái độ.
Những nhà sư của Miền
Nam trước đây c̣n ở lại với bọn Việt
Vộng rất tham sanh uư tử, đă tu mà không đạt
được hạnh vô uư của nhà Phật mà c̣n bỏ
cả đạo pháp v́ ham danh quyền lợi bất chính
để nhạân lệnh của bọn Việt Cộng
đi ra hải ngoại lập chùa chiền thuyết giảng
phỉnh phờ Phật tử hầu phá hoại tinh thấn
chiến đấu chống Cộng trong các tổ chức
cộng đồng người Việt hải ngoại. Mấy tên “sư quốc doanh” này
tuyên truyền rằng nước Việt Nam Cộng Hoà
đă mất rồi, ta không cần treo cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ nữa.
Một nhà sư có tiếng là chân tu
ở Miền Nam trước đây, khi ra hải ngoại,
đă phải luồn cổng hậu để vào các ngôi
chùa v́ những ngôi chùa này có treo cờ Việt Nam Tự Do ở
cổng chính nhà chùa. Vào năm 1995, một nhà thơ lăo thành ở
Toronto, thi sĩ Vân Hạc, đă làm bài thơ “Thích Cổng
Hậu” sau đây để diễn tả sự kiện
này: “Thanh danh Phó Chủ thành Hồ,/ Từ bi chững chạc
sư mô hiền lành,/ Mà là chẳng phải thiện nhân,/
Thích luồn luồn cổng hậu hiện h́nh Cộng
nô.”
Chúng tôi không nói rơ tên của vị
sư Cộng nô này là ai v́ danh sắc chỉ là hư ảo
mà bản thể mới là quan trong. Tuy nhiên, nếu qúy bạn
đọc ghép những từ in đâm trong bài thơ này th́
sẽ biết tên vị sư Cộng nô này là ai.
Có nhà “sư quốc doanh” khác đi
quyên tiền mặt ở hải ngoại kiếm
được vào khoảng 60 ngàn Mỹ Kim và mang đến
một ngôi chùa nọ rồi kêu lên là có một Phật tử
lấy trộm. Một số Phật tử cho là nhà “sư quốc doanh” này
đă học được tính lừa đảo nói láo của
bọn Việt Cộng nên cố t́nh làm như thế để tẩu tán số
tiền quyên góp được
hầu biến thành của riêng để ăn chơi.
Đúng là thời mạt Pháp!
Nếu có ai vô phúc mà qui y với vị “Tăng” như
thế th́ làm sao có thể giác ngộ được mà lại
c̣n biến thành tên Cộng nô làm hại nước hại
dân và hại chúng sinh nữa.
Ngoài ra, trong tinh thần Phật học,
người học Phật phải có tinh thần tự do
và không lệ thuộc hay ỷ lại vào ai hay bất cứ
một uy lực nào khác để cứu giúp ḿnh. Phật
đă dạy: “Các bậc Như Lai chỉ làm có cái việc
chỉ đường thôi, mỗi người phải tự
ḿnh đi đến chứ không ai đi thế cho ai
được!” Như vậy, nếu bảo qui y Tăng
là trở về nương nhờ vào các vị sư ni th́
chẳng hóa ra vọng ngữ và vô ích lắm sao.
III. Nghĩa Đích Thực của
Qui Y Tam Bảo
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đă thuyết giảng rất rơ
về Qui Y Tam Bảo. Theo ngài,
qui y tam bảo c̣n được gọi là qui y tự tánh
Tam Bảo hay vô tướng tam qui y. Tam bảo bao gồm Phật,
Phát, và Tăng. Tự tánh nghĩa là tự nơi tâm tánh
ḿnh, tức là Phật tánh. Vô tướng là không có h́nh thù sắc
vẻ. Ngài nói: “Phật giả, giác giả; Pháp giả,
chánh giả; Tăng giả, Tịnh giả.”
Qui y Tam Bảo”
là qui y giác, qui y chánh, và qui y tịnh. Hăy lấy giác mà tôn xưng làm thầy.
Hăy dùng Tam Bảo ở nơi tánh ḿnh làm Phật, Pháp, và
Tăng để soi sáng cho ḿnh. Ngài nói rơ là Phật đó là
giác, tức sự sáng suốt,
thông hiểu mọi lẽ, thấy rơ chân lư mà thành quả
Phật.