Pháp đó là chánh, tức là chánh giác,
chánh đáng, và ngay thẳng, trái với tà ngụy. C̣n
Tăng đó là tịnh, tức
là trong sạch, lặng lẽ, tinh anh, và không bợn
nhơ.
Lấy tâm ḿnh qui y giác th́ ḷng ḿnh
không sinh điều mê muội, ít ham muốn, tự cho là
đủ, và xa ĺa của cải tiền bạc nữ sắc.
Lấy tâm ḿnh qui y chánh th́ ḷng ḿnh
không sinh ư bất chánh, không phân nhân tướng ngă tướng,
không tự cao tự đại, không tham lam luyến ái, và
không bị ràng buộc hay câu nệ vào bất cứ cái ǵ.
Lấy tâm ḿnh qui y tịnh th́ ḷng
ḿnh không vướng mắc vào bất cứ cái ǵ, từ sự
khổ ải, sung sướng, thương yêu, đến
mọi sự ham muốn trên đời. Như thế, ta
có thể giữ tâm hồn trong trẻo, lặng lẽ,
không bợn nhơ thế tục, không xao xuyến dao động.
Tất cả ở nơi ḿnh, Phật
ở nơi ḿnh, ḿnh tự qui y với tâm của ḿnh là
đạt tới giác ngộ. Những kẻ phàm phu không hiểu
lư lẽ ấy nên ngày đêm cứ lo t́m qui y ở ngoài
ḿnh. Họ cho rằng qui y với Phật, nhưng chẳng
biết Phật ở nơi mô. Nếu không thấy Phật
th́ đi kiếm Phật ở đâu mà qui y? Chính v́ thế,
bảo qui y với Phật là không đúng với tinh thần
nhà Phật vậy.
Kinh điển có ghi chép rơ ràng là “Tự
ḿnh qui y với Phật nơi ḿnh” chớ đâu có nói “Qui y
với Phật ở ngoài ḿnh” bao giờ. Phật có sẵn nơi ḿnh mà
không qui y theo th́ không có nơi nào có Phật để ta qui y mà đạt tới giác ngộ
được.
IV. Tổng Luận
Mục đích của việc qui y
tam bảo ở nơi ḿnh là để điều hoà tâm
tánh hầu giữ cho ḷng ngay chánh và thanh tịnh không một
chút bợn nhơ để đạt tới minh tâm kiến
tánh và để giữ cho tâm b́nh hạnh trực th́ giác ngộ
tự nhiên thành.
Tôn chỉ của Phật giáo đă
được nói rơ trong câu “Chuyển mê khải ngộ tức
Phật giáo chi tông chỉ.” Câu này nghĩa là đạo Phật
có mục đích giúp chúng sinh đạt đến trạng
thái hết mê để mở trí hiểu biết cho sáng suốt,
tức là giác ngộ vậy. Thoát mê để giác ngộ là
mục đích thực tiễn nhất của Phật giáo.
Phật
chủ trương nhất thiết do tâm tạo, tức
là vạn pháp hay sự sự vật vật trong vũ trụ
đều do tâm biểu hiện. Biểu hiện đúng
hay sai là do chân tâm hay vọng tâm mà ra. Chân tâm là căn bản
của bồ đề và niết bàn. C̣n vọng tâm là căn bản của phiền
năo sinh tử.
Nhằm hóa giải các mối ưu
tư của tâm thức con người và các bế tắc
của xă hội, đạo Phật đă dùng ư thức
trước hành động. Thanh lọc ư thức
đưa đến thanh lọc hành động.
Đạo đức của nhà Phật
là đức thanh khiết. Nhờ đức này chúng sinh mới
thoát được ṿng danh lợi và tham lam thấp hèn.
Qui y giác, chánh, và tịnh để
chuyển mê khải ngộ nhằm
đạt tới tri hành hợp nhất trong việc tự
giác và giác tha. Muốn qui y giác, chánh, và tịnh, Phật tử
nên bỏ ra ngoài những mặc cảm tội lỗi v́ những
mặc cảm này là chướng ngại lớn cho người
tu Phật. Cổ nhân có nói “Hễ bỏ con dao xuống,
người đồ tể có thể trở thành Phật”
là nằm trong nghĩa này. Các
vị Thập Bát La Hán trước khi giác ngộ cũng
đă từng là những tay trộm cướp giết
người.
Ngay trong đạo Thiên Chúa cũng
vậy. Thánh Augustin, trước
khi thành thánh, cũng đă vướng vào ṿng tội lỗi.
Thánh Madeleine cũng thế, trước khi thành thánh, bà
đă là một kỹ nữ đầy tội lỗi.
Điều cần thiết là biết nh́n nhận tội lỗi
rồi ăn năn hối cải để qui y giác, chánh,
và tịnh th́ chúng sinh sẽ
đạt tới tự giác và giác tha.
Ṿng tay Phật rộng mở. Ngài lấy
con người làm cứu cánh và đối tượng
để xây dựng xă hội con người. Đây là sức
mạnh của đạo Phật. Phật là chúng sinh và
chúng sinh là Phật. Ngài dạy chúng sinh cách thoát mọi ràng
buộc, khổ đau, mê tối của nhiên giới, siêu
giới, và tâm giới. Ngài đặt con người
trước trách nhiệm của chính cuộc đời
ḿnh. Hay hay dở là do ḿnh tạo ra. Giải thoát không có nghĩa
ĺa thế gian hay chối bỏ hiện tại mà là chấp
nhận hiện hữu để giải thoát hiện hữu.
Giải thoát bằng cách nhập thế để cứu
thế.
Một trong những điều
căn bản trong giáo lư của Phật là vô ngă. Đạt
đến vô ngă, chúng sinh sẽ không tự cao, tự đắc,
tự phụ, ích kỷ, đố kỵ, và ganh tỵ. Nếu
vướng vào chấp ngă hay
ngă mạn, tức là ḷng chấp có ta, ta sẽ sinh ra kiêu
căng và trở thành u mê, tức vô minh. Vô minh chính là nguồn gốc của
đau khổ. Có được vô ngă, ta mới yêu vũ trụ, xă hội,
và tha nhân. Có được tính vô ngă, ta mới trở thành con người
toàn diện.
Việc tu Phật cốt để
cho tâm b́nh hạnh trực v́ Đức Phật đă dạy:
“Tâm b́nh hà lao tŕ giới, hạnh trực hà dụng tu thiền.”
Điều này có nghĩa là nếu có tâm b́nh đẳng và
phẳng lặng, tức là có ḷng b́nh đẳng đối
với tất cả chúng sinh và vạn pháp, th́ khỏi phải
giữ giới luật mà cũng không hề phạm giới,
và nếu có đức hạnh ngay thẳng th́ không cần
phải tu thiền mà cũng đạt tới giác ngộ
để tự giác giác tha.
Người có tâm b́nh đẳng
th́ coi vật và ta là một, thân và thù như nhau. Chính v́ thế
mà người ta sẽ không giết hại động vật
và đồng loại, nên không cần đến giới
sát. Có tâm b́nh đẳng, người ta không phân biệt của
ta hay của người. Do đó con người không có
ḷng trộm cướp, nên không cần giới đạo. Có tâm b́nh đẳng, người ta không phân biệt nam
giới hay nữ giới nên không cần giới tà dâm. Có tâm b́nh đẳng, người
ta không làm điều lợi cho ḿnh mà hại kẻ khác, nên
không cần giới vọng.
Có tâm b́nh đẳng, người ta không ham muốn
khoái lạc trên đời, nên không cần giới tửu.
Người có hạnh trực th́
không thiên lệch bên nào, dù là thiện hay ác, vinh hay nhục,
thị hay phi, bỉ hay ngă, nội hay ngoại, và tâm hay vật nên họ không vọng động,
đèo bồng, hay ham muốn. Chính v́ thế họ không cần
phải tu thiền. Qui y giác, qui y chánh, qui y tịnh là nhằm mục đích giúp cho tâm
b́nh hành trực ngơ hầu giác ngộ để giải
thoát đạt tới cảnh niết bàn. Niết Bàn không phải là nơi
chốn hay tước vị mà là tâm trạng của những
người đại giác, tức là thoát ly hết phiền
năo, không c̣n hôn mê, thung dung tự tại, tâm hồn hoàn toàn
trong sáng, và thoát khỏi tham, sân, và si. Ta có thể đạt tới Niết
Bàn ngay khi c̣n sống tại thế
gian này mà không phải mơ ước xa xôi.
Hiểu giáo pháp là một chuyện.
Thực hành giáo Pháp mới là điều chính yếu. Các tu
sĩ có nhiều vị rất giỏi về giáo lư mà rất
ít người có được tri hành hợp nhất.
Chúng ta thấy rất rơ là đă có nhiều vị chân tu
mà không mấy vị tu sĩ
nào đạt tới tŕnh độ vô úy thí trong Phép tu Lục
Độ, tức là 6 phép tu để độ ta qua bờ
bên kia của chánh giác. Đó là bố thí ba la mật, tŕ giới
ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba
la mật, và trí huệ ba la mật.
Trong phép tu Lục Độ,
có phép bố thí ba la mật là gay go hơn cả. Bố
thí ba la mật gồm có ba cách: tài thí, pháp thí, và vô úy thí.
Chúng sinh thường chấp có một
cái ta, tức là ngă chấp, nên họ đă t́m đủ cách để bảo
tồn cái ta và do đó sinh ra sợ, sợ chết ham sống,
và đâm ra hèn nhát. Cái sợ là
địa ngục của tâm hồn. Người học
Phật ai cũng cần tu hạnh vô úy thí để độ
ḿnh, độ chúng sinh, tự cứu, cứu người,
và cứu đời. Người tu được hạnh
vô úy thí rồi th́ nhất quyết
coi thường sinh tử, xem mạng sống như lông hồng
để ra tay cứu khốn pḥ nguy, và trấn an ḷng sợ
hăi của chúng sinh. Thi ân không cầu báo, không cầu danh lợi,
và không sợ cường quyền. Họ làm theo tiếng gọi
của lương tâm, ḷng thương, trí sáng suốt, và
óc vô cầu. Đó là thể hiện ḷng từ bi hỷ xả.
Tu vô úy thí khó là như vậy, nên một
thiểu số tu sĩ tuy có tiếng là chân tu mà vẫn
không thực hành được vô úy thí. Họ sợ bọn Việt Cộng như gà sợ
cáo, thậm chí c̣n cam tâm làm tay sai cho bọn Cộng Sản
xâm lăng để đầy ải Phật tử xuống
tới chín tầng địa ngục.
Qua bài thơ “Lời Mẹ Dặn”
của nhà thơ Phùng Quán, chúng tôi thấy tính vô úy thí đă
được biểu lộ một cách rơ rệt trong các
câu mà chúng tôi c̣n nhớ được như sau: “Yêu ai cứ
bảo là yêu,/ Ghét ai cứ bảo là ghét,/ Dù ai ngon ngọt
nuông chiều,/ Cũng không nói yêu thành ghét,/ Dù ai cầm dao dọa
giết,/ Cũng không nói ghét thành yêu.” Nhà thơ Phùng Quán quả
đă thấm nhuần hạnh vô úy thí này của Phật
Giáo và đă có hành động cao thượng hơn những
vị chân tu rất nhiều.
Tóm lại, tam bảo quả là ba
điều quí báu để các Phật tử qui y. Có qui y
Tam Bảo, tức là qui y tự tánh Tam Bảo hay vô tướng
tam qui y đúng cách, chúng ta chắc
chắn sẽ đạt tới cảnh Niết Bàn ở
ngay cơi thế này để giải thoát cho ḿnh và giải
thoát cho dân tộc Việt khỏi ách khổi ải trầm
luân của bọn Việt Cộng, một lũ vô tôn giáo,
vô tổ quốc, vô gia đ́nh, và vô liêm sỉ. Có như thế
chúng ta mới đem lại tự do, dân chủ, và nhân quyền
cho toàn dân Việt.
Luận
Về Bát Nhă
I. Bát Nhă
Từ bát nhă được trích
trong câu kinh “Ma ha bát nhă ba la mật” mà nguyên gốc ở tiếng
Phạn là “Maha prajna paramita.” Ma
ha bát nhă (maha prana) có nghĩa là
đại trí huệ, tức là rất sáng suốt, rất
thông minh, và am hiểu mọi lẽ. Ba la mật hay “ba la dà”
(paramita hay paraga) có nghĩa đen là đến bờ bến
bên kia (đáo bỉ ngạn) và có nghĩa bóng là thoát khỏi
sự sống chết và mọi phiền năo. Bỉ ngạn
(bờ bên kia, niết bàn) hay giác ngạn (bờ giác, giác ngộ)
theo nghĩa của nhà Phật là
nơi không c̣n phiền năo của đời người,
nơi mà người ta vượt khỏi bến mê để
đến bờ giác ngộ, tức là cơi Phật, niết
bàn, đất Phật, tịnh thổ, hay tịnh độ.
Thiền Tông ở Trung Quốc có
sáu vị Tổ Sư. Huệ Năng là vị Tổ Sư
thứ sáu. Sáu vị Tổ Sư
kể theo thứ tự gồm: Bồ Đề
Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng
Nhẫn, và Huệ Năng.
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ
Huệ Năng đă nói rơ là tâm của con người giống
như chân không, nó có sức chứa thật là bao la. Tánh linh
diệu của người đời cũng trống
không. Bầu thế giới tuy trống nhưng có chứa
vạn vật. Cái tâm của con người cũng giống
như vậy. Tánh con người rộng lớn và linh diệu
có thể chứa muôn điều. Chính v́ thế, muôn điều
đều do tánh của con người mà có. Nếu ta thấy
thiện, ác, tốt, hay xấu mà không khen chê, không ưa
không ghét, không đón nhận, không xua đuổi, hay không bắt
chước, th́ tâm ta là hư không và được gọi
là ma ha, tức là rộng lớn.
Khi dùng cái tâm chân không bao la đó
để xét đoán mọi vật, ta sẽ hiểu thấu,
phân biệt được rơ ràng, và thông suốt mọi lẽ.
Tất cả là một và một là tất cả. Có như
thế, ta sẽ cảm thấy thư thả thanh nhàn và
không bị điều ǵ làm cho phiền năo.
Việc phá màn vô minh (ngu tối)
để mở trí cho thông hiểu là hạnh bát nhă. Bát nhă
là do nơi tánh của ḿnh hay Phật tánh sanh ra, chẳng phải
từ bên ngoài mà có. Nói cách khác, muốn có được hạnh
bát nhă, ta phải tự vận
dụng cái tánh tự nhiên chân thật do trời phú cho mà
người xưa gọi là “nhân sinh tính bổn thiện.”
Cái tánh tự nhiên chân thật đó c̣n được gọi
là chân tánh, chân như, hay Phật tánh. Nó giúp ta thoát ly được những
tư tưởng trần tục thấp hèn và làm tiêu tan sự
ngu mê của ḿnh.
Bát nhă c̣n gọi là trí huệ. Nó có
nghĩa là thông minh và am hiểu mọi lẽ. Nếu cái tâm
của ḿnh luôn luôn tưởng đến việc cứu
nhân độ thế và nghĩ tới việc từ bi bác
ái th́ bát nhă xuất hiện và người ta thấu đáo
mọi lẽ để làm việc ích lợi cho cộng
đồng xă hội.
Khi cái tâm chỉ nghĩ đến điều
lợi, ganh ghét, oán thù, gian tham, xảo trá, và độc ác
th́ bát nhă sẽ biến mất
đi và con người trở thành u mê tăm tối và làm
nhiều điều tội lỗi.
II. Tâm Tánh
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có dậy
rằng người học Phật pháp mà nhận biết
được bổn tâm và nhận thấy bổn tánh mới
có chí khí cao, có tài học xuất chúng, và đạt tới
bậc toàn giác tức là Phật (Kiến tánh thành Phật).
Tâm có nghĩa là trái tim. Nghĩa bóng của nó để chỉ
tinh thần, sự thông minh, và tư tưởng giúp ta cảm
thông, suy nghĩ, hiểu biết. Tánh c̣n gọi là tính, tức
là cái nết tự nhiên trời phú cho con người khi
sinh ra và sẽ tùy hoàn cảnh mà phát triển và thay đổi.
Tuy nhiên, bất cứ ai dù thiện hay ác cũng đều
có tính bản nhiên hiểu biết sáng tỏ, tức là Phật
tánh.
Theo nhà Phật th́ con người bị
ngũ uẩn, lục căn,
lục thức, và lục trần không chánh đáng
đă làm cho tối tăm mê muội nên không nhận thấy
rơ Phật tánh của ḿnh. Ngũ uẩn là năm cái nguyên tố
hợp lại tạo thành tinh thần thể xác con người
gồm: xác thịt, cảm giác, tư tưởng, hành vi,
và ư thức; lục căn là sáu cái cội nguồn mà con
người cảm nhận và hiểu biết gồm: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ư; lục thức là sáu
tri thức của lục
căn gồm nhăn thức (thấy), nhĩ thức (nghe), tỵ
thức (ngửi), thiệt thức (nếm), thân thức (cảm
nhận), và ư thức (hiểu biết bằng trí óc); và lục
trần là sáu nguyên nhân quyến rũ con người vào ṿng
tội lỗi gồm: h́nh dáng, âm thanh, hương vị,
mùi vị, cảm giác, và nhận thức. Lục trần c̣n được
gọi là lục tặc (sáu kẻ cướp) hay lục
đại tặc ví chúng nó cứ t́m dịp mà xâm nhập
vào lục căn của ta để cướp mất những
công đức của ta.
Điều cốt yếu của
đạo Phật là làm sao tu được cái tâm để
thấy rơ Phật tánh của ḿnh. Nguyễn Du cũng đă
diễn tả cái quan trọng của chữ tâm qua câu: “Thiện
căn bởi tại ḷng ta, / Chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài.” Thiện căn
là bổn tánh hay căn tánh làm điều lành. Tâm của
người ta là tất cả.
Tâm là chỗ để người ta tu đạo và
làm sáng tỏ thiện căn. Đó là đất của Phật,
tức là tịnh thổ hay tịnh độ. Tâm vốn
sáng suốt trong trẻo, mọi thứ đều do tâm tạo
ra, chỉ có tâm là thực tại. Phật vốn không do
đâu mà đến, chẳng đi đâu, và cũng không
sanh không diệt. Kinh Phật dạy rằng Phật do tâm
sanh, Phật tức là tâm, hay Phật ở tại tâm cũng
vậy.
Cái tâm ví như trường dạy
đạo. Giữ cho cái tâm thanh tịnh trong sạch, yên lặng,
không xao xuyến, và không nhiễm bụi trần th́ tâm sẽ
trở thành đất Phật, tức là cơi cực lạc
thế giới. Nếu tâm bị
dấy lên, bị xao xuyến, và bị dao động do tam
độc (tam ác), lục dục, và thất t́nh gây ra th́ tâm
không c̣n thanh tịnh nữa v́ bị cái màn vô minh (ngu tối)
che lấp Phật tánh và bát nhă (trí huệ). Do đó sự
sáng suốt thông hiểu của ta không c̣n nữa.
-Tam độc hay tam ác là ba điều
độc hại làm cho con người vướng vào phiền
năo. Tam độc bao gồm: tham (ham muốn không chính
đáng), sân (tức giận), và si (ngây dại và mê muội).
- Lục dục là sự ham muốn
quá độ do lục căn và lục trần sinh ra.
- Thất t́nh là bảy thứ t́nh cảm
của con người gồm: mừng (hỷ), giận (nộ),
thương xót (ai), sợ sệt (cụ), yêu (ái), ghét ( ố),
và muốn (dục).
Khổng Tử cũng đề cập
đến chữ tâm và tính sáng suốt tự nhiên có sẵn
trong tâm người ta. Ngài cho đó là minh đức c̣n gọi
là lương tri hay trực giác. Đó là cái khiếu tri giác
rất mẫn tiệp để khi xem xét điều ǵ là
ta có thể đạt ngay đến cái tinh thần và chân
lư của sự vật. Cái khiếu tri giác ấy ở
trong tâm của người ta.
Chữ tâm của Nho Giáo phải
được hiểu là cái thần minh chủ tể cả
tư tưởng cùng hành vi con người. Hễ ta giữ
được cái tâm hư tĩnh, không để cho vật
dục che tối mất cái sáng suốt tự nhiên, th́ khi
đó hễ có vật ǵ cảm đến là nó ứng ngay
được và biết rơ ngay các lẽ. Tâm của con
người mà tĩnh bao nhiêu th́ cái trực giác lại càng
mẫn nhuệ bấy nhiêu.
Trong Ngụy Thư Từ Tuân Minh
Truyện có kể câu chuyện về việc Từ Tuân
Minh đi t́m thầy học. Từ Tuân Minh quê ở Hoa Âm
đời hậu Ngụy về thời Tam Quốc bên Tàu.
Ngay từ hồi c̣n nhỏ, Từ Tuân Minh đă rất hiếu
học và đă từng theo học hết ông thầy này
đến ông thầy khác nhưng trong bao năm không thấy
ông thầy nào xứng đáng là ông thầy cả. Cuối
cùng, Từ Tuân Minh nhận thấy “tâm” của ḿnh mới
đích thực là ông thầy v́ cội rễ muôn điều
phải và điều lành đều do ở tâm mà ra cả.
Từ đó, Từ Tuân Minh tự học, hết sức
suy nghĩ, sáu năm không ra khỏi nhà. Sau Từ Tuân Minh
đă trở thành một bực đại nho đời hậu
Ngụy.
III. Tại Sao Mà Một Số
Người Có Tiếng Tốt, Được Gọi Là Mô
Phạm, Được Coi Là Trí Thức Hay Bậc Chân Tu
như Các Nhà Giáo, Tu Sĩ, Bác Sĩ, Luật Sư, Văn Sĩ,
và Kỹ Sư , v.v. mà Họ Vẫn Làm Những Điều
Ngu Xuẩn và Vẫn Vướng Vào Ṿng Tội Lỗi?
Trong thực tế, chúng ta quả
đă thấy nhiều người tuy học thức c̣n ít
nhưng rất thông minh và có tài đức hơn những
người có bằng cấp cao hay có chuyên môn nổi tiếng.
Trong khi đó, chúng ta cũng chứng kiến một số
tu sĩ phạm giới luật mặc dầu họ
đă sống cuộc đời tu hành nhiều năm, một
số các nhà giáo dục làm điều phạm pháp, và một
số trí thức làm điều xằng bậy ngu xuẩn.
Mặc dầu chúng tôi có những bằng chứng cụ thể,
nhưng thể theo tinh thần nhà Phật, chúng ta không nên
nêu rơ danh tánh hay dẫn chứng từng trường hợp
mà chỉ tạm đưa ra nhận xét chung mà thôi.
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ
Huệ Năng đă giảng rất rơ rằng muốn học
đạo cho tới bậc Vô Thượng Bồ Đề,
tức là bậc toàn giác th́ chẳng nên khinh người học
thức c̣n sơ thiển. Có những người ở bậc
rất thấp hèn mà cũng được thông minh trí tuệ
hơn kẻ thượng trí. Trái lại, cũng chẳng
thiếu chi người ở địa vị tối cao
mà ư thức và trí tuệ c̣n tŕ trệ.
Nói chung, người đời v́ bị
danh quyền lợi bất chính, ngu si mê muội, ngạo mạn
lừa dối, và ganh ghét đố kỵ do tam độc,
tứ tướng, thập ác, bát tà, và thập bát giới
gây ra nên Phật tánh của họ
đă bị màn vô minh che lấp đi. Chính v́ thế
mà con người đă vướng phải bao nhiêu điều
tội lỗi.
- Tam độc là ba thứ phiền
năo lớn: tham, sân, và si. Tam độc phá hũy các thiện
căn và làm hại đời sống của chúng sinh.
- Tứ tướng là bốn cái
thói xấu của con người để tạo ra phiền
năo cho ḿnh và cho người. Tứ tướng bao gồm:
nhơn tướng, tức là tính khinh khi người cùng
tính tranh quyền đoạt lợi; ngă tướng, tức
là cái tính chỉ biết có ta và ta là tất cả; chúng sinh
tướng, tức là cái tính chỉ biết ngụp lặn
trong tham sân si và mê man trong thất t́nh lục ducï; và thọ
giả tướng, tức là cái tính thích khoái lạc,
hưởng thụ, và ham sống dù là sống hèn sống
nhục.
- Thập ác là mười tội ác
do thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp gây ra (xem phần
sau).
- Bát tà là tám điều tà vạy
trái với bát chánh đạo: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ,
tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tiến, tà niệm, và tà định.
- Thập bát giới là mười
tám điều giới do lục căn, lục thức, và
lục trần (đă nói ở trên) tạo ra để hạn
chế, ngăn cản, che mất cái chân như hay Phật
tánh, và nhiên hậu làm cho con người tăm tối ngu muội.
IV. Làm Sao Có Được Trí Bát Nhă
để Nhận Thấy Phật Tánh Của Ḿnh và Để
Tu Thân Nhiên Hậu Giúp Ḿnh và Giúp Tha Nhân?
1. Chuyển Mê Khải Ngộ
Phần nhiều con người chỉ
hướng việc học vào mục đích kiếm lợi
và đạt được quyền hành danh vọng. Rất
ít người nghĩ tới việc học để
thành con người toàn diện. Chính v́ thế, tuy có kiến
thức rộng và có bằng cấp cao mà một số
người vẫn bị mê muội ngu tối dẫn
đường để làm những điều tội lỗi.
Một số người tu hành chỉ
biết tụng kinh niệm Phật mà không thực hành những
điều tụng niệm hay ḷng vẫn nghĩ tới những
điều quấy trái th́ không bao giờ đạt
được bát nhă, tức là có trí tuệ minh mẫn và
nhận xét sáng suốt tṛn đầy.
Theo như Lục Tổ Huệ
Năng đă dạy, điều
chủ yếu là làm sao dấy lên cái trí bát nhă của ḿnh
để làm ngọn đuốc xua đuổi những
tư tưởng đen tối tà vạy th́ ta mới hiểu rơ bổn tâm bổn tánh của
ḿnh. Việc hiểu rơ bổn tâm và bổn tánh là gốc của
sự giải thoát. Khi được giải thoát là ta
đạt được bát nhă, tức là ta định
được tâm vững vàng, nhận thức thông suốt,
không chấp nhất, và không làm điều lợi cho riêng
ḿnh để hại người. Khi đạt được
bát nhă, ta giống như bông sen, gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn. Có được như thế th́ khi đă làm việc
ǵ hay nghĩ việc ǵ, ta luôn luôn giữ được
ngay chánh, và việc ta làm mới có chánh nghĩa, ích quốc
lợi dân, và cứu nhân độ thế.
Việc tu thân cốt ở cái
tâm. Không nhất thiết phải
đến chùa hay làm lễ qui y mới gọi là tu. Người
xưa đă nói: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nh́
tu chợ (ngoài đời), thứ ba tu chùa./ Tu đâu bằng
tu tại gia,/ Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.”
Dù là tu ở chùa hay tu ở nhà, khi tụng kinh th́ ta phải hiểu
và thực hành những điều tụng niệm và giữ
cho con tâm ngay chánh. Có như thế th́ việc tu của ta mới
có ích lợi cho ḿnh và cho người.
Đừng coi việc tu là một
cái mốt để ḷe đời và trốn tránh phận sự.
Việc quan trọng là tu tại gia, tức là tu làm sao để
có hiếu với cha mẹ, có đễ với anh chị
em, và có nghĩa đối với họ hàng và bà con lối
xóm. Tuy nhiên, không phải ai cũng tự tu hay tu tại gia
được. Nhiều người phải cần sự
hướng dẫn, khuôn phép tu, khung cảnh tu, và bạn tu
mới tu được. Chính v́ thế mà người ta cần
nhiều chùa hay thiền viện cùng các vị sư ni để
giúp vào việc tu hành cho được viên măn. Đấy mới
chỉ là lư thuyết.
Trên thực tế chúng tôi đă chứng
kiến có một số Phật tử vẫn đọc
kinh Phật và vẫn đến chùa lễ bái mà trong khi đó họ lại là
con người bất hiếu, không thương không giúp
đỡ anh chị em, và bất nghĩa với bằng hữu.
Họ không những không đóng góp ǵ vào công việc xây dựng
cộng đồng người Việt hải ngoại mà
c̣n đi làm tay sai cho Việt Cộng ở trong nước.
Không những thế, một số chùa ở hải ngoại
lại được dựng lên là do tiền của Việt
Cộng cung cấp và do sư “quốc doanh” của Việt
Cộng gửi sang để trông coi chùa. Những ngôi chùa
này đều không treo cờ Việt Nam Tự Do nền
vàng ba sọc đó.
Đối với những tăng
ni và Phật tử chân chính, ngoài việc tu để giải
thoát cho ḿnh, việc ta tu của họ chính yếu là để
giúp cộng đồng đất nước, giúp chúng
sinh, và giúp cho nhân loại chứ không phải đến
chùa ăn nhờ cửa Phật để đợi ngày
chết. Tu như thế mới đúng với tinh thần
nhà Phật là tự giác giác tha để cứu khổ cứu
nạn cho toàn thể chúng sinh.
Có một số người chỉ
biết tụng niệm nào là qui y Phât, qui y Pháp, và qui y
Tăng, tức là qui y Tam Bảo mà thực sự họ
chưa hiểu ǵ về những qui y này. Như chúng tôi
đă tŕnh bày trong bài “Luận Về Qui Y Tam Bảo,” qui y Phật
có nghĩa là quay về nương nhờ vào tánh sáng suốt
thông hiểu mọi lẽ của ḿnh. Phật ở đây
là giác, tức là sự hiểu biết tṛn đầy và là
Phật tâm hay Phật tánh của ḿnh, chứ không phải
là vị Phật được thờ ở ngôi chùa nào
đó; qui y Pháp có nghĩa là qui y theo đạo lư ngay thẳng,
tức là những điều chân chánh và chánh đáng, chứ
không phải là kinh Phật, phép màu nhiệm, hay một nguyên
ủy nào khác; và qui y Tăng có nghĩa là qui y sự trong sạch
thanh tịnh, tức là sự trong trẻo lặng lẽ, sự
gột rửa hết các tư tưởng trần tục,
và sự không xao xuyến dao động, chứ không phải
qui y với thầy hay vị sư nào đó.
Đây là căn bản giáo lư của
nhà Phật. Nếu chưa hiểu nghĩa đích thực
của “Qui y Tam Bảo,” tức là “qui y tự tánh Tam Bảo”
hay “vô tướng tam qui y” th́ làm sao mà tu hầu đạt
tới bát nhă để thành Phật được. Chính v́
các Phật tử đă được các “nhà sư vô minh”
thuyết giảng Phật là đức Phật, Pháp là kinh
Phật, và Tăng là các vị sư ở chùa nên đạo
Phật mới tới thời mạt pháp như ngày nay.
Phật đă dạy là tất cả
do tâm tạo ra, vạn hữu trong vũ trụ đều
do tâm biểu hiện, tất cả đều do con người
sáng tạo và đặt định mà có. Hăy quay về với
ḿnh, phụng sự lư tưởng, thắng dục vọng,
và chiến thắng ḿnh.
Sức mạnh của đạo
Phật là lấy con người làm trung tâm điểm
để xây dựng xă hội loài người. Phật
đă dạy rằng con người là hơn cả v́ con
người có thể thực hiện được tất
cả những sự tốt đẹp. Chúng ta phải tự
đốt đuốc lên mà đi và tự t́m hiểu để
tu thân. Phật không chấp nhận ḷng tín ngưỡng v́
ngài cho là tín tức là chưa thấy. Điều này có nghĩa
là ta phải nhận thức rơ mới tin. Chính v́ thế, mà
tôn chỉ của Phật giáo nhằm vào việc chuyển
mê khải ngộ.
2. Cách Thức Tu Thân
Không có lúc nào gọi là muộn hay trễ
để mà tu thân. C̣n sống phút nào ta tu tâm dưỡng
tánh phút đó. Như thế, không những ta cứu
được ta thoát khỏi bể khổ mà c̣n có thể
cứu giúp chúng sanh khỏi cảnh trầm luân nữa.
Ngay bây giờ, chúng ta, kể cả
người phàm tục lẫn bậc tu hành, kẻ trí
người ngu, kẻ sang người hèn, và người có bằng cấp
cao hay không cũng vậy, hăy cố gắng chuyên cần thực
hiện các điều sau để đạt được
hạnh Bát Nhă ngơ hầu cứu ḿnh và cứu chúng sanh thoát
khỏi phiền năo.
a. Hướng tâm suy tưởng những
điều ngay chánh để tẩy trừ phiền năo.
Nhà Phật có 8 con đường ngay chánh để d́u dắt
kẻ tu hành thành Đạo, gọi là bát chánh đạo.
Đó là chánh kiến (ngay chánh trong hiểu biết), chánh
tư duy ( ngay chánh trong trong suy nghĩ tưởng niệm),
chánh ngữ (ngay chánh trong lời nói), chánh nghiệp (ngay
chánh trong công việc làm), chánh mạng (ngay chánh trong cách sống
mưu sinh), chánh tinh tiến (ngay chánh trong việc cầu tiến),
chánh niệm ( ngay chánh trong ư niệm, nhớ, và nghĩ), và
chánh định (ngay chánh trong việc đem hết tâm thần
vào đạo lư). Nếu chúng
sanh học hỏi và làm được những điều
ngay chánh trong bát chánh đạo th́ cuộc đời hết
phiền nào và thế giới sẽ thành cơi cực lạc.
b. Phải đại lượng với
tha nhân để khỏi gây tội lỗi và phiền năo
cho ḿnh và mọi người. Tuy nhiên, ta phải biết
phân biệt điều nghĩa với điều bất
nghĩa. Phải khen và giúp
đỡ người làm điều nghĩa, phải chê
và kết tội những kẻ làm điều bất nghĩa. Đại lượng không có nghĩa
là theo, khen, hay về hùa với những kẻ làm điều
bất nghĩa, phản phúc, và phản quốc như bọn
Việt Cộng và Cộng nô. Nếu có ḷng đại lượng với
bọn này, ta đă nối giáo cho giặc để khuyến
khích chúng càng làm điều phản phúc và phản quốc
nhiều hơn.
c. Cố gắng tự tiết chế,
tự biết là đủ, và chịu nhịn nhục hầu
dẹp bỏ được ḷng ham muốn về danh quyền
lợi bất chính để bớt tội lỗi. Cổ
nhân đă nói rằng trên đời có hai cái khó là lên trời
đă khó mà nhờ cậy ở người ngoài càng khó
hơn. Ở đời có hai cái đăùng là củ hoàng
liên đă đắng mà nghèo khổ khốn cùng càng đắng
hơn. Nhân gian có hai cái mỏng là giá mùa xuân đă mỏng mà
thói đời c̣n mỏng hơn. Thiên hạ có hai cái hiểm
là núi sông đă hiểm mà ḷng người c̣n hiểm
hơn. Biết được cái khó, chịu được
cái đắng, quen được cái mỏng, và ḍ
được cái hiểm là người có chí tự lập,
có tâm kiên nhẫn, có bụng độ lượng bao dong,
và có óc thông minh hiểu được nhân t́nh thế thái.
Đạt được đến mức như thế,
tức là làm cho bát nhă của ta sáng ngời và chắc chắn
ta sẽ thành công mỹ măn trong việc giúp ḿnh, giúp người,
và giúp đời.
d. Học hỏi sự khiêm tốn
nhún nhường trong việc xử thế tiếp vật,
trau giồi chữ lễ để thực hiện điều lễ phép kính
trọng với tha nhân, và tôi luyện ḷng yêu quí chúng sanh
để đối đăi với họ một cách dân chủ,
b́nh đẳng, và chánh trực. Đấy mới là công
đức tạo phước cho chúng sanh. C̣n nếu chỉ
làm việc bố thí, lễ bái, hay xây dựng chùa chiền
để cầu được phước th́ ta không tạo
được công đức đâu. Có khiêm tốn, kính trọng,
cùng yêu quí chúng sanh trên tinh thần dân chủ, b́nh đẳng,
và chánh trực, ta mới tạo được công đức
và sự ḥa thuận. Nhờ đó ta mới không làm những
điều ác đức, và cuộc sống của ta cũng
như cuộc sống của nhân loại mới yên vui thái
ḥa.
đ. Cố loại trừ thập
ác (mưới tội ác) để giữ ḷng ḿnh cho thanh tịnh
hầu tạo được cơi Tây phương cực lạc
ngay ở trần gian này. Đó chính là chỗ chúng ta ở
hàng ngày chứ không cần phải cầu văng sanh về cơi
bên kia. Thập ác gồm 3 tội ác của thân nghiệp, 4 tội ác của khẩu nghiệp, và 3 tội ác của ư nghiệp. Ba tội ác do thân nghiệp gây ra gồm
có: giết hại sinh vật (sát sanh), trộm cướp
(du đạo), và dâm dục (tà dâm). Bốn tội ác do khẩu
nghiệp gây ra gồm có: lời nói bậy bạ lếu
láo (vọng ngữ), lời nói khéo mà có ác ư (ư ngữ), lời
nguyền rủa chửi bới người (ác khẩu),
và dùng miệng lưỡi để giết người
(lưỡng thiệt). Ba tội ác do ư nghiệp gây ra gồm
có: tham muốn (tham), giận ghét (sân), và ngu muội, tức
là không thấy lẽ chánh và dễ bị sa ngă cùng sai lạc(si).
Ḷng thanh tịnh là đất Phật.
Nếu ta noi theo điều ngay nẻo chánh và có ḷng từ
bi hỉ xả th́ con người ở đâu, đất
Phật ở đó. Chúng ta không cần phải đi t́m Phật
ở măi đâu đâu v́ chính tâm ta là Phật.
Nếu có ḷng từ bi cứu khổ,
ta là Phật Quan Thế Âm; nếu có ḷng hỉ xả, ta là
Thế Chí Bồ Tát; nếu có
ḷng thanh tịnh và không có tư tưởng trần tục,
ta là Phật Thích Ca; và nếu
có ḷng công b́nh chánh trực, ta là Phật Di Đà.
e. Hăy cố ăn ở sao cho thật
tốt với cha mẹ hầu làm tṛn chữ hiếu v́ hiếu
là rường cột của mọi nết ăn ở
trên đời. Người xưa đă nói “Phụ mẫu
tại tiền như Phật tại thế” (cha mẹ c̣n
sống tức là Phật ở thế gian). Phật là cha mẹ, ta chẳng cần
t́m Phật và đi lễ Phật ở đâu xa.
Đức Phật đă dạy:
“Tâm b́nh hà lao tŕ giới, hạnh trực hà dụng tu thiền.”
Điều này có nghĩa là ta hăy cố giữ tâm ḿnh cho
b́nh đẳng và giữ phẩm
hạnh cho chính trực th́ chẳng cần chi để ư
đến giới luật mà vẫn giữ được
giới luật và chẳng cần phải đến chùa mới
tu được v́ chùa là nhà ta, Phật là cha mẹ ta, và Phật
cũng là tâm của ta nữa.
g. Ăn ở phải có nghĩa và
làm việc nghĩa, tức là sống cuộc đời cộng
tác thương yêu, đoàn kết, và ḥa thuận với tha
nhân, đời sống của ta và mọi người mới
có ư nghĩa. Làm việc nghĩa tức là làm việc phải,
làm việc thiện, làm việc ích chung, và làm việc công
b́nh nhân đức.
h. Phải quyết tâm trừ bỏ
bằng được sự ngu si mê muội, ngạo mạn
lừa dối, và ganh ghét đố kỵ nếu ta đă
và đang mắc phải. Những điều này ai cũng
mắc phải. Muốn tu tâm dưỡng tánh, ta phải tự
kiểm điểm, ăn năn hối cải, tự thức
tỉnh, và nguyện chẳng bao giờ tái phạm. Có
như thế ta mới mong cứu được ḿnh và
giúp chúng sanh thoát khỏi bể khổ.
i. Khi tu tâm dưỡng tánh, ta phải
nhất thiết không nên tranh đua hơn kém với ai một
cách bất chính và không nên nóng tính tranh luận với người
nào để đến nỗi tức giận. Nếu có
người đồng hành hưởng ứng việc tu
tâm dưỡng tánh với ta, ta nên cùng họ luận bàn học
hỏi. Nếu thấy ai chống báng, ta nên chắp tay cung
kính và giữ thái độ ôn ḥa để tránh hiềm
khích cùng nghiệp báo.
k. Phải luyện tập và bồi
dưỡng cơ thể cho khỏe mạnh th́ mới có
ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh v́ người
xưa có dạy rằng: “Tinh thần minh mẫn trong một
thân thể tráng kiện.” Có khỏe
mạnh mới tu dưỡng và hành đạo được.
Chính v́ lư do này mà vị Sơ Tổ, tức là Đức Đạt Ma
Tổ Sư, trong khi chứng kiến các đệ tử
không đủ sức tu luyện v́ cơ thể yếu
kém, đă sáng chế ra môn Dịch Cân Kinh để áp dụng
vào việc tập luyện thân thể nhằm phát huy sức
mạnh gân thịt và đả thông kinh mạch để
đưa khí huyết sung măn vào các tạng phủ. Do
đó, môn Dịch Cân Kinh không những làm cho cơ thể
cường tráng mà c̣n giúp ta tiêu trừ các chứng bệnh
trong lục phủ ngũ tạng nữa.
V. Kết Luận
Bát nhă là sự minh mẫn, thông hiểu,
và sáng suốt. Nó là điều quí trọng hơn hết thẩy,
vượt cao hơn tất cả, và có một địa
vị tối thượng trong việc tu tâm dưỡng
tánh. Có sáng suốt thông hiểu th́ ta mới luôn luôn làm
điều ngay chánh, không vướng vào điều xằng
bậy v́ ngay trong lúc ḿnh hiểu biết và tỉnh ngộ
th́ ḿnh liền trở về được với bổn
tâm, tức là tánh Phật và tánh thiện của ḿnh.
Kiến tánh thành Phật quả là một
triết lư cao siêu để tu thân của Đạo Phật.
Mạnh Tử cũng dạy “Nhân tính chi thiện dă, do thủy
chi tựu hạ dă.” Điều này có nghĩa là tính người
ta ai cũng thiện giống như nước bao giời
cũng chảy xuống chỗ thấp. Chỉ cần t́m hiểu và làm
sáng tính thiện của ḿnh cũng đủ làm cho đời
bới phiền năo.
Socrates, một nhà hiền triết
Hy Lạp cũng đă nói “Connait toi toi même.” Câu này có nghĩa
là hăy tự biết và tự t́m hiểu ở chính bản
tính ḿnh.
Trong một truyện ngụ ngôn Tây
phương nhan đề là “Con Cáo Khôn và Hoàng Tử Tí
Con,” con cáo nói với Hoàng Tử
rằng: “One can only see well with the heart, what is essential is
invisible to the eyes.” Câu này có ư nói là người ta chỉ có thể
nh́n rơ sự vật bằng trái tim v́ những ǵ cốt yếu
và tinh tế nhất th́ mắt ta không nh́n thấy được
v́ nó vô h́nh. Sau này Nguyễn Du cũng quan niệm “Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài.”
Tất cả đều do tâm và
tính thiện của ḿnh tạo cho cuộc sống thành thế
giới cực lạc nếu ta biết làm theo chánh đạo,
hay địa ngục nếu ta bị lôi cuốn theo bát tà
và tam độc. Bát tà là tám
điều người ta làm trái với bát chánh đạo
đă nói ở trên.
Những ai đă đọc kinh Phật
và thực hành những điều tụng niệm đều
thấy rơ đạo Phật là đạo nhập thế
để giúp con người thoát phiền năo khổ
đau. Đạo Phật là đạo của tự do,
dân chủ, nhân quyền, và b́nh đẳng chân chính.
Thật tuyệt vời trong ư nghĩa
dạy người ta trở về với bổn tâm và bổn
tánh của ḿnh để tu thân, trở về gia đ́nh
để tu thân, trở về t́m Phật nơi mẹ cha,
và trở về với sự khiêm tốn, nhún nhường,
lễ phép, và kính cẩn để tạo công đức.
Đạo Phật ở Việt
Nam trước đây là đạo gắn liền với
sự thịnh suy cũa dân tộc ta hơn bất cứ
đạo nào khác. Câu tục ngữ “Mái chùa che mát hồn dân tộc” quả
đúng với quá khứ của đạo Phật ở
nước ta.
Chùa và của cải nhà chùa là của
bá tánh. Cửa chùa luôn rộng mở đón khách thập
phương. Người ta thường nói: “Cửa chùa rộng
mở” là vậy. Bất cứ ai đến lễ chùa, nếu
muốn, đều được mời ở lại thụ
trai (ăn cơm chay). Ta có thành ngữ: “Của chùa” và
“Cơm chùa” là để diễn tả ư này.
Trong thực tế có nhiều
người chỉ lo tu cho ḿnh, có nhiều chùa dựng ra v́
phe này nhóm kia, và nhiên hậu chùa không phải là nơi tu hành
mà là nơi chứa đầy tranh chấp. Chính v́ thế,
để giúp cho người tu đạo một cách chính
đáng và đúng theo tinh thần nhà Phật hầu cứu
nhân độ thế và tự giác giác tha, một nhà nghiên cứu
về Phật học đă nhận định rằng tu
không những để giải thoát cho ḿnh mà c̣n để
tế độ chúng sanh và giúp cộng đồng đất
nước cho chóng thoát được ách khổ ải trầm
luân do bọn Việt Cộng và Cộng nô gây ra.
Tu không phải để trốn
tránh trách nhiệm, ăn nhờ bá tánh, thu gọn trong chùa
hay thiền viện để t́m lợi ích cho riêng ḿnh hay
chùa ḿnh. Mục đích chính của việc tu hành là để
cứu khổ cứu nạn và giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ của cuộc
đời hầu mọi người được thấy
đất Phật ngay tại thế gian này. Đó mới
đích thực là tu tâm dưỡng tánh và bát nhă sẽ măi
sáng ngời khắp nẻo thế gian.
Cứu nhân độ không có nghĩa
là đồng lơa với tội ác và tội phạm mà cũng
không có nghĩa là chấp nhận và dung dưỡng cho những
quân phản quốc, phản phúc, và hại dân hại nước.
Đối với loại phản quốc, phản phúc, và
hại dân hại nước như bọn Việt Cộng
và Cộng nô, ta phải t́m cách kiềm chế chúng trước rồi mới cải hóa chúng để giúp chúng quay về với chánh
đạo. Khi chúng đă biết
hối cải và trở về với chánh đạo, ta mới
lấy đức báo oán để giúp chúng tu tâm dưỡng
tánh. Nếu không kiềm chế
được bọn Việt Cộng trước mà
dùng việc lấy đức báo oán để áp dụng với
bọn chúng th́ chỉ làm
tăng thêm ḷng phản quốc, phản phúc, và hại dân hại
nước của bọn chúng mà thôi. Kết quả là nhân
dân Việt Nam vẫn tiếp tục bị bọn Việt
Cộng đầy ải xuống chín tầng địa
ngục.
Vậy
phải làm sao tu tâm dưỡng tánh để cố
chuyển mê khải ngộ và
đạt được hạnh bát nhă, chúng ta mới
không bị bọn Việt Cộng
mê hoặc và lừa đảo. Làm được như thế,
chúng ta mới mong giải thể chế độ Cộng
Sản Việt Nam hầu đem lại tự do, dân chủ,
nhân quyền, và b́nh đẳng cho chúng sinh. Có được
như vậy, đất nước Việt Nam mới trở
thành Niết Bàn ngay tại thế gian này.
Việc Liên Quan Đến Ngày Từ Giă Cuộc Đời
I. Dẫn Nhập
Đành rằng chết là hết.
Tuy nhiên vẫn có nhiều người muốn làm đám ma
cho thân nhân thật linh đ́nh. Trong khi đó lại có một
số người khuyên con cháu nên tổ chức đám ma
cho thật giản tiện và tránh nhận đồ phúng
điếu v́ sợ làm phiền người sống.
Ở Bắc Mỹ này đă có một
số người tự lo đám ma cho ḿnh trước
để không phải làm phiền đến ai bằng
cách trả tiền trước cho nhà đ̣n mà tiếng Anh
gọi là "Prepaid Funeral" và để chúc thư nhờ
bạn bè hay một người tin cậy đứng ra lo
cho họ. Đây là trường hợp của những
người không có con cháu hoặc thân nhân, hay có con cháu
nhưng tụi con cháu này là loại bất hiếu. Trong
trường hợp này người quá cố thường
để lại di chúc là không đăng cáo phó, không tổ
chức thăm viếng, không cầu siêu, hay bất cứ
một nghi lễ tôn giáo nào mà chỉ làm thủ tục chôn
hay thiêu một cách giản dị ngay sau khi chết. Thật
là văn minh, tân tiến, giản tiện, và không phiền
hà tới cơ quan xă hội hay bất cứ ai.
Trong khi có người không muốn
thân nhân tổ chức đám ma linh đ́nh cho ḿnh mà tại
sao lại có một số thân nhân
cứ muốn làm đám ma cho cho người quá cố
một cách thật linh đ́nh? Câu trả lời hết sức
giản dị là việc tổ chức đám ma cho linh
đ́nh cốt để giúp người sống yên ḷng và
để cho “quan trên trông xuống người ta trông
vào."
Người xưa có nói chết là
hết. Tuy nhiên, những thân nhân của người chết
vẫn phải lo cho họ từ khi họ bị bệnh
đến khi mồ yên mả đẹp. Vậy những
việc liên quan tới ngày từ giă cuộc đời vẫn
là những vấn đề cần phải biết để
chuẩn bị cho tang lễ thật chu đáo.
Việc tang lễ của người
Việt rất phúc tạp. V́ thế, chúng ta cần phải
biết phong tục của ḿnh để tùy cơ áp dụng
một cách hợp cảnh hợp t́nh và hợp luật pháp
ở Bắc Mỹ này mà vẫn giữ được nét
đặc thù của phong tục Việt.
II. Những Điều Tổng Quát
Liên Quan Đến Ngày Từ Giă Cuộc Đời của
Ḿnh và Thân Nhân :
1. Chọn Lựa Để Chết
trong Nhà Thương hay Chết ở Nhà Ḿnh
Ở Bắc Mỹ người ta
có thể chọn chết ở nhà hay trong nhà thương
là tùy theo ư muốn của họ. Khi bác sĩ báo cho thân nhân
biết là có thể đưa người bệnh về
nhà chăm nom v́ không có hy vọng chữa lành bệnh nữa,
thân nhân phải hiểu là người bệnh chỉ chờ
ngày chết mà thôi. Nếu thân nhân không chịu mang bệnh
nhân về, bác sĩ sẽ chuyển bệnh nhân vào nằm
trong khu Palliative Care Unit mà Bác Sĩ Đặng Bạch Tuyết, một
nữ bác sĩ gia đ́nh ở Toronto, gọi là khu y khoa giải
kho,å tức là nơi dành để săn sóc những bệnh
nhân đang chờ chết.
Theo phong tục và đức hiếu
thảo của người Việt Nam, khi cha mẹ hay ông
bà bị bệnh sắp qua đời lại là cơ hội
tốt để con cháu tỏ ḷng biết ơn và
thương tiết đối với cha mẹ ông bà. Nếu
có thể hăy mang thân nhân về nhà để săn sóc, tỏ
ḷng thương mến, an ủi, và cho thân nhân ăn uống
bất cứ thứ ǵ mà họ
đă phải kiêng cữ trước đây như hút thuốc
lá hay uống rượu chẳng hạn.
Trong lúc này, thân nhân có thể lắng
nghe những nguyện vọng của người sắp mất,
ôn lại chúc thư, hay làm chúc thư nếu chưa có.
Hăy cố gắng dành th́ giờ cho
người sắp mất trong lúc này v́ nó giá trị vô cùng,
gấp ngàn lần hơn là khi ta đến viếng người
qua đời ở nhà quàn hay tại phần mộ. Làm
được như thế, ta cảm thấy thoải
mái rất nhiều về sau này.
2. Xin Tiền Trợ Cấp Để
Lo Đám Ma
Trong trường hợp nhà nghèo,
khi có người chết, thân nhân hay bạn bè có thể
liên lạc với cơ quan xă hội gần nhà (General
Welfare Assistance, GWA), dù người quá cố trước
đây có hưởng tiền trợ cấp xă hội hay
không, để xin tiền chôn cất. Muốn biết
địa chỉ văn pḥng General Welfare Assistance, ta có thể
t́m ở sổ niên giám điện thoại hay nhờ pḥng
thông tin (information office) ở địa phương t́m hộ.
Thân nhân hay người chịu trách
nhiệm về sự chôn cất phải điền
đơn xin mới được. Muốn chôn, thiêu, có nhờ
nhà sư hay mục sư làm lễ hay không, và nếu người
chết to lớn quá khổ cũng phải báo cho người
ta biết. Những chi tiết này giúp cơ quan xă hội
chu cấp đủ số tiền cần thiết để
mua ḥm (quan tài hay săng) và tổ chức đám ma.
Nên nhớ rằng cơ quan xă hội
chỉ cấp một món tiền đồng đều cho
những ai cần đến, nếu hợp lệ, để
lo việc tang ma tùy theo thiêu hay chôn. Một khi đă định
xin tiền xă hội để làm đám ma cho người
quá cố, bạn bè hay thân nhân của người quá cố
không được trả thêm tiền để làm đám
ma cho to hơn hay linh đ́nh hơn. Lư do là chính phủ muốn
tránh phiền phức về việc có người khiếu
nại về sau. Thân nhân có thể liên lạc với nhà
đ̣n trước khi liên lạc với cơ quan xă hội,
nhưng đừng có đặt tiền hay trả tiền
trước v́ nếu đă trả tiền cho nhà đ̣n rồi th́ chính phủ không cấp tiền
ma chay nữa.
Nếu đă nhờ chính phủ trả
tiền đám ma th́ mọi thứ tiền mà người
quá cố có quyền được hưởng như chi
phiếu cuối cùng của tiền trợ cấp xă hội,
tiền già, tiều hưu, tiền gửi ngân hàng, tiền
bảo hiểm đời sống, tiền tử tuất,
tài sản trong nhà như đồ đạc, hay nữ
trang, v.v. đều được chính phủ chuyển
thành tiền mặt để trừ đủ vào số
tiền đă cấp. Số tiền c̣n dư sẽ
được hoàn lại cho thân nhân nào hợp lệ
được hưởng.
Nếu người quá cố có
hưởng tiền hưu, thân nhân của họ có quyền
được hưởng tiền tử tuất (Death
Benefits). Số tiền này được nhiều hay ít là
tùy theo số tiền mà người quá cố đă đóng
vào quỹ hưu trí của nhà nước trước
đây. Hiện nay số tiền tử tuất này
tương đương với 6 tháng tiền hưu mà
người quá cố đă lănh khi c̣n sống. Thân nhân có thể
nhờ nhà đ̣n hay tự ḿnh đứng ra làm đơn
xin tiền tử tuất.
Nếu ở Canada, người nhà
có thể liên lạc với cơ quan Human Resources Development
Canada, Income Security Program ở địa phương để
xin tiền tử tuất Death Benefits. Ta có thể t́m địa
chỉ của văn pḥng này ở sổ điện thoại
hay trên internet. Nếu đă nhờ
cơ quan xă hội lo đám ma th́ họ sẽ đứng
ra xin số tiền này để trừ vào tiền đă cấp.
Những người sống trong
viện dưỡng lăo mà chết, viện dưỡng lăo
sẽ lo đám ma cho họ.
3. Những Khoản Tiền mà Thân
Nhân Người Chết Có Thể Được Hưởng:
Khi người chủ gia đ́nh
qua đời, vợ hay chồng và con cái có quyền
được hưởng các khoản tiền sau:
- Tiền trợ cấp mồ côi
(Orphan's Benefits ) dành cho các con
dưới 19 tuổi. Nếu các con của người quá
cố c̣n đi học, chúng sẽ được hưởng
tiền trợ cấp mồ côi tới năm 25 tuổi.
- Tiền sống sót (Survivor's
Benefits) dành cho vợ, chồng,
hay người sống chung (common-law) của người
quá cố.
Muốn có các khoản tiền này,
những người hội đủ điều kiện
phải làm đơn xin tại cơ quan Human Resources
Development Canada, Income Security Program ở địa
phương.
-Tiền bảo hiểm nhân mạng:
Nếu người quá cố trước đây có mua bảo
hiểm đời sống, thân nhân phải chờ có giấy
khai tử mới thông báo cho cơ quan bảo hiểm để
đ̣i tiền. Có khi phải nộp thêm một giấy xác
nhận việc khai tử ở tỉnh bang để
đ̣i tiền bảo hiểm đời sống. Thời
gian đợi lănh có khi kéo dài tới một hai tháng là
thường.
-Tiền bồi thường tai nạn:
Nếu người quá cố chết v́ tai nạn xe
hơi, ta phải nhờ luật sư lo cho việc bồi
thường tai nạn này. Luật sư chỉ lấy tiền
dịch vụ khoảng 15 % của số tiền bồi
hoàn được lĩnh. Khi nhờ luật sư lo việc
này, ta không phải trả tiền trước.
4. Những Nơi Phải Thông Báo
Sau Khi Người Nhà Qua Đời:
Nếu thân nhân người quá cố
có đủ tiền chôn cất mà không phải nhờ
cơ quan xă hội và nếu người quá cố trước
đây có nhận tiền hàng tháng của hăng bảo hiểm,
tiền hưu, tiền già, hay tiền trợ cấp xă hội,
sau khi lo tang ma xong xuôi, người nhà phải báo ngay cho các
cơ quan cấp các khoản tiền này để họ
ngưng gửi tiền. Địa chỉ của các cơ
quan này có ghi trong hồ sơ lưu của người quá
cố. Nếu không t́m thấy các địa chỉ này,
chúng ta có thể nhờ các cơ quan xă hội và các tổ
chức hội đoàn để họ chỉ dẫn
cho. Nếu không báo cho các cơ
quan đă nói ở trên mà người nhà vẫn tiếp tục
nhận những khoản tiền của người chết
th́ khi người ta khám phá ra, họ sẽ đ̣i lại số
tiền không hợp lệ mà người nhà đă nhận.
Trong trường hợp này, người nhà có thể c̣n bị
lôi thôi về mặt pháp lư nữa.
Nếu người quá cố có gửi
tiền ở ngân hàng, thân nhân nhớ ra đó làm thủ tục
để điều chỉnh hồ sơ và lănh tiền.
III. Những Nơi Cần Liên Lạc
và Thông Báo khi Nhà Có Người Nằm Xuống:
Những nơi sau cần liên lạc
và thông báo khi nhà có người qua đời:
- Báo cho bà con thân nhân biết để
mọi người có dịp chung lo đám ma.
- Liên lạc với cơ quan xă hội
ngay để xin tiền chôn cất, nếu cần.
- T́m nhà quàn hay nhà đ̣n (Funeral Home)
gần nhà để họ lo việc tẩm liệm, khai tử,
và chôn cất. Nên nhớ rằng không phải nhà quàn nào cũng
giống nhau. Có nơi đắt có nơi rẻ, phải
tùy túi tiền mà t́m nhà quàn cho hợp với hoàn cảnh. Nếu
tin về địa lư (phong thủy), nên nhờ người
cùng đi với đại diện nhà quàn đến nghĩa
trang chọn nơi đất tốt để chôn cất
cho người nhà.
- Đối với những người
theo đạo Phật, nếu tin vào việc cầu siêu,
hăy liên lạc với nhà chùa để thu xếp việc cầu
siêu cho người quá cố.
- Nếu muốn bạn bè của
người quá cố biết để họ đến
nh́n mặt và tiễn đưa người quá cố lần
chót, hăy liên lạc với báo chí Việt ngữ để
đăng “cáo phó” (thông báo việc tang chế). Nhà báo có sẵn
mẫu cáo phó. Tuy nhiên, nên nhờ người biết về
việc này để họ thảo giùm bản cáo phó
trước khi gửi đăng báo. Nếu muốn
đăng ở báo tiếng Anh hay Pháp, ta nhờ nhà quàn họ
sẽ giúp cho.
Trong cáo phó, ngoài các chi tiết
thường lệ, nên ghi rơ giờ hành lễ, giờ
thăm viếng, nơi chôn cất, và ngày giờ đưa
đám. Nếu không muốn nhận tiền hay đồ
phúng điếu, ta cũng nên nêu rơ trong cáo phó này. Sau đó,
ta làm bản sao dán tại nhà quàn một bản để
thông báo cho những người đến phúng điếu.
Nếu đă đăng cáo phó, nhớ
khi xong mọi việc phải đăng lời cảm tạ
để cám ơn đại diện các cơ quan và hội
đoàn, các chùa hay nhà thờ đă giúp vào việc cầu
siêu và hành lễ, cùng thân bằng quyến thuộc đă
đến phúng điếu và tiễn người quá cố
tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Lư do chính để người ta
không nhận tiền phúng điếu là v́ nhận tiền
phúng điếu cũng giống như việc đi vay nợ
vậy. Có vay th́ phải có trả. Sau này khi người
phúng điếu có thân nhân chết, ta phải đi phúng trả
lại bằng hay hơn số tiền mà họ đă phúng
điếu cho thân nhân của ta trước đây.
Có một số người khuyên
là cứ nhận tiền phúng điếu để rồi nếu ḿnh không cần tới
th́ cúng vào nhà chùa hay các cơ quan từ thiện. Phải suy
nghĩ kỹ trước khi làm việc này. Ḿnh có muốn
th́ làm, đừng nghe người ta xúi dại để
mang nợ về sau. Thật là vô lư khi đi mượn tiền
hay lấy tiền của người khác để cúng vào
chùa hay một cơ quan từ thiện.
Có người tin là nhận tiền
phúng điếu th́ sau này con cái không khá được mà chỉ
mạt thôi. Điều này rất đúng về mặt thực
tế. Đă phải nhờ đến tiền phúng điếu
để chôn cất cha hay mẹ ḿnh và nhờ tiền
phúng điếu để có tiền sinh sống th́ dĩ
nhiên là không khá giả và ngóc đầu lên được.
Ở Bắc Mỹ này, nếu không
có đủ tiền chôn cất th́ đă có chính phủ giúp
cho, việc ǵ đến nỗi ta phải làm phiền
người khác. Nếu v́ người chủ gia đ́nh
qua đời mà gia đ́nh gặp khó khăn trong cuộc sống,
chính phủ cũng sẵn sàng giúp đỡ dưới
h́nh thức tiền trợ cấp xă hội.
IV. Tang Lễ
Tang lễ hay tang chế là lễ tiết,
nghi lễ, hay phép để tang và tổ chức chôn cất
khi nhà có người qua đời. Việc tang lễ rất
quan trọng, nhất là khi có đại tang. Nó long trọng
và phức tạp hơn việc tổ chức đám
cưới nhiều. Sau đây là một số điều
về phong tục của người Việt liên quan tới
tang lễ mà đă là người Việt chúng ta cần phải
biết. Tuy nhiên, việc áp dụng được những
điều này hay không lại là việc khác.
1. Tên Cúng Cơm, Hồn Bạch, và
Phạn Hàm hay Ngậm Hàm
a. Tên Cúng Cơm
Khi cha hay mẹ gần mất,
người ta có tục đặt tên cúng cơm cho cụ
để dùng vào việc cúng giỗ sau này. Tên cúng cơm có
hai loại: tên thụy và tên hèm. Tên thụy là tên vua ban cho những
người có chức tước sau khi chết. Tên hèm là
tên con cái chọn cho bố hay mẹ lúc gần chết và
thưa với quí cụ biết để dùng vào việc
cúng giỗ.
Ngày nay rất ít người c̣n theo
tục lệ chọn tên cúng cơm cho người quá cố.
b. Hồn Bạch
Lúc thân nhân hấp hối, người
nhà lấy mảnh lụa trắng dài đắp vào cho họ.
Sau khi người ấy mất, người nhà kết mảnh
lụa trắng này thành h́nh người đặt lên bàn thờ
để cho hồn người chết nương tựa
vào đó. H́nh người kết bằng miếng lụa
trắng này đặt trên bàn thờ để hồn
người chết nương tựa vào gọi là Hồn
Bạch. Tục lệ này ngày
nay cũng không có mấy người theo.
c. Phạn Hàm hay Ngậm Hàm
Ngay khi người nhà vừa mới
tắt thở, người ta thường có tục lệ
bỏ ít gạo và tiền cắc vào miệng người
quá cố trước khi liệm. Tục lệ này gọi
là phạn hàm hay ngậm hàm.
Muốn thực hiện việc việc
phạn hàm hay ngậm hàm, ta lấy chiếc đũa
để ngang hàm răng của người vừa mới
qua đời rồi bỏ ít gạo nếp và ba đồng
tiền kẽm (bạc cắc) vào miệng người chết.
Sở dĩ phải lấy chiếc đũa để
ngang hàm răng người vừa mới mất là tránh cho
hàm khỏi cắn chặt lại sau khi đă chết và tiện
việc bỏ gạo hay tiền vào. Nhà giàu, người ta
bỏ ba miếng vàng sống và chín hạt châu vào miệng
người chết. Sau đó người ta lấy một
chiếc khăn trắng hay miếng giấy trắng phủ
trên mặt người chết.
Tục lệ phạn hàm mang ư nghĩa
là mong cho người chết được no ḷng mát dạ
và để cho người sống gặp được
nhiều may mắn. Tục lệ này vẫn thịnh hành
cho tới ngày nay.
2. Khâm Liệm
Khâm liệm nghĩa là gói hay bọc
người chết. Ở Bắc Mỹ này, việc khâm liệm
đă có nhà quàn lo. Nếu muốn nhà quàn mặc thêm quần
áo ǵ đặc biệt cho người quá cố, chẳng
hạn như áo thọ, th́ ta
phải mua sẵn đưa cho họ. C̣n về nghi lễ
theo Phật Giáo hay Thiên Chúa giáo, ta có thể nhờ các nhà
sư hay các cha đảm nhận cho.
Nếu ai theo Phật Giáo nên nhớ
yêu cầu nhà quàn kê sẵn cho ta một cái bàn dùng làm bàn thờ
Phật ở bên phải của quan tài theo hướng từ
ngoài đi vào chỗ đặt linh cữu v́ nhà quàn họ
không tự động chuẩn bị cho ḿnh nếu họ
không được yêu cầu.
Hai b́nh bông (hoa) cũng phải
được chuẩn bị sẵn sàng dùng để bày
ở bàn thờ Phật và bàn thờ linh cữu. Bát nhang thờ
Phật và bát nhang thờ linh cữu cũng phải
được chuẩn bị trước.
Trước đây ở Việt
Nam, người ta khâm liệm người chết theo cách
tiểu liệm và đại liệm. Tiểu liệm là dùng một mảnh vải bọc
lấy xác theo chiều dọc và ba mảnh bọc theo chiều
ngang. Sau khi tiểu liệm là đại liệm, tức là
bọc xác lần nữa bằng một mảnh vải dọc
và năm mảnh ngang. Mục đích của tiểu liệm
và đại liệm là dùng vải bọc lấy xác người
chết cho thật kín.
3. Cưới Chạy Tang
Theo tục lệ của ta th́ khi có
đại tang, trong suốt 27 tháng, con cái không được
phép làm đám cưới đám hỏi hay làm tiệc ăn
mừng về bất cứ việc ǵ. Người có
đại tang, không được đi dự đám
cưới, đám hỏi, tế lễ, làm chủ tế,
hay đi dự bất cứ tiệc tùng nào khác.
Ngày xưa, người ta coi trọng
việc để tang đến nỗi nếu có đại
tang, con cái có làm quan cũng phải xin nghỉ để ở
nhà cư tang cha mẹ. Con cái c̣n kiêng chửa đẻ trong
thời gian có đại tang nữa. Ngày nay th́ khác hẳn,
không ai để ư về việc này, có lẽ v́ công danh sự
nghiệp và tiệc tùng cưới hỏi được
coi trọng hơn việc tang ma, dù là có đại tang.
Chính v́ muốn tránh cho đôi trẻ
một khi đă yêu nhau không phải chờ đợi hết
đại tang của cha mẹ mới được làm
đám cưới nên tục lệ của ta cho phép cưới
chạy tang. Cưới chạy tang có nghĩa là nếu ông
bà hay cha mẹ mất, con hay cháu có thể làm đám cưới
nội trong một hay hai ngày trước khi làm lễ phát
tang.
Thường th́ đám cưới
chạy tang chỉ làm cho có lệ và rất giản tiện. Đây là điều rất phù hợp
với chữ hiếu và ḷng nhân của dân tộc ta. Tuy
nhiên, cũng do chuyện này mà có người lợi dụng
đám tang để tổ chức đám cưới chạy
tang cho đỡ tốn kém ngay cả khi đôi trẻ mới
quen nhau và chưa có lễ chạm ngơ hay lễ chạm mặt và lễ ăn hỏi.
Thật là tội nghiệp cho cô dâu
v́ đời người con gái chỉ có một lần lên
xe hoa cho linh đ́nh để hănh diện và khoe khoang với
chị em mà cũng bị người ta tước đoạt
đi.
Trường hợp gia đ́nh định
cư ở các nước trong khi ông bà bố mẹ c̣n kẹt
ở Việt Nam, nếu ông, ba,ø bố, hay mẹ qua đời
và nếu con cái hay cháu đă đính hôn, người ta cũng
thường tổ chức đám cưới chạy tang
trước rồi mới làm lễ phát tang sau.
Xét cho kỹ th́ việc cưới
chạy tang có chỗ không ổn v́ gia đ́nh đang có chuyện
đau buồn và người mới mất c̣n nằm
đó mà lại đi tổ chức đám cưới th́ tự
nó đă không ổn. Ta phải xem lại việc giữ tục
lệ này xem có hợp t́nh lư không. Việc tốt nhất là
đă tổ chức đám ma th́ cứ tổ chức. Nếu
cần phải tổ chức đám cưới cho đôi
trẻ th́ ta chờ sau khi chôn cất người chết rồi
th́ độ một tháng, ta làm lễ cưới cũng
được.
Việc không được tổ
chức đám cưới cho con cái trong thời gian có tang cũng
là điều bất tiện. Chỉ v́ có tang mà người
ta không được phép lấy nhau, phải chờ cho hết
27 tháng mới được làm đám cưới th́ quả
là một điều không hợp t́nh lư. Ta cũng cần phải
xét lại tục lệ này v́ nó có vẻ vừa bất nhân
vừa bất hiếu ở chỗ nó làm cho con cháu oán thoán
ông bà cha mẹ trong vấn đề cản trở hạnh
phúc lứa đôi. Nếu theo đúng tục lệ này, ta có
thể phạm vào tội bất hiếu v́ là ngu hiếu.
Nhớ thương cốt là do ở trong ḷng chứ không
phải ở bề ngoài. V́ người đă chết mà ta làm cản trở
cho tương lai cùng hạnh phúc cho con cháu th́ đó là một điều không
được ổn thỏa.
Ngày xưa người ta giầu
có, nhân tài hiếm hoi, nên khi có đại tang họ mới
dám xin nghỉ để ở nhà cư tang cha mẹ. Ngày
này, nếu có đại tang mà xin nghỉ ở nhà cư
tang th́ chỉ có nước mất việc v́ nhân tài nhan nhản
như lá mùa xuân. Người này nghỉ đă có người
khác thay thế ngay. V́ chữ hiếu mà mất công ăn việc
làm và đói khổ th́ đó là ngu hiếu.
Tóm lại, mỗi thời mỗi
khác, ta nên giữ những điều hay trong phong tục cũ
của Việt Nam ta và nên sửa đổi những ǵ quá
g̣ bó và gây phiền phức cho mọi người mà không ích
lợi ǵ cho ai. Hiếu cốt ở tấm ḷng kính ái cùng sự
trông nom săn sóc ông bà cha mẹ cho chu đáo khi các người
c̣n sống.
H́nh thức chỉ là điều phụ
thuộc. Làm được càng tốt, không thể làm
được cũng không sao. Ta phải du di, tùy thời,
và tùy nơi để áp dụng phong tục sao có được
một cuộc sống thoải mái cho mọi người.
4 Tang Phục
Theo phong tục, tang phục của
Việt Nam màu trắng. Tang phục của Tây phương
màu đen. Lúc trước đây ở Việt Nam, khi cha mẹ
mất, con trai, con gái, và con dâu mặc đồ may bằng
vải gai dệt thưa và thô (không mịn) gọi là đồ sô gai. Thứ vải này dệt ra
chỉ dùng để may tang phục mà thôi. Lúc ở bên quan
tài, lúc đưa đám ma, và lúc tế lễ, con trai đội
mũ cuộn bằng rơm và con gái đội mũ làm bằng
vải sô gai. Cả con trai lẫn con gái dùng dây bện bằng
bẹ thân chuối khô để thắt lưng.
Nếu cha mất, các con trai chống
gậy tre, nếu mẹ mất
th́ con trai chống gậy làm bằng gỗ vông. Tất cả
người c̣n lại trong họ đều chít khăn trắng
và mặc áo trắng.
Tại Việt Nam, ở một vài
nơi mà chúng tôi đă chứng kiến, có gia đ́nh đông
con nhiều cháu, chắt, và chút mà lại giầu có, người
ta c̣n bày ra cách để tang đặc biệt. Chẳng hạn
như khi ông bà mất, hàng cháu để tang bằng
khăn đỏ, hàng chắt để tang bằng
khăn vàng, và hàng chút để tang bằng khăn xanh.
Đây chỉ là cách bày vẽ để khoe khoang là có
đông cháu, chắt, và chút. Thực ra, phong tục của
ta chỉ có lệ để tang bằng màu trắng mà thôi.
Ngày nay ở Bắc Mỹ, ai theo
được phong tục Việt càng tốt. Nếu
không, để giản tiện, khi nhà có người mất,
các con cháu cùng mọi người thân thuộc trong gia
đ́nh đều đội khăn và mặc quần áo trắng
là được. Thân nhân người chết phải chuẩn
bị trước số khăn tang cho đủ với số
người để tang rồi chờ đến khi làm
lễ phát tang mới phân phát cho mọi người để
đội vào.
Việc chống gậy cũng ít
c̣n được người ta áp dụng cho đám ma tại
hải ngoại này. Nếu muốn chống gậy cho
đúng phong tục th́ cũng dễ. Ở đây có rất
nhiều thứ gậy làm sẵn bán ở cửa tiệm.
Rất tiện lợi lại dễ kiếm. Những
người con trai nên theo tục lệ này v́ nó vừa không
có ǵ bất tiện mà lại giữ được phong tục
Việt Nam.
5. Lễ Phát Tang
Trước khi phát tang, bàn thờ
phải được bày ở trước linh cữu
(quan tài, săng, ḥm, hay áo quan đựng thây người chết
chưa chôn). Trên bàn thờ có bày
hồn bạch, bài vị và tấm h́nh người
quá cố, lư hương, bát nhang (hương), hai cây nến
trắng, b́nh bông, và mâm hoa quả bày theo lối “đông b́nh
tây quả,” tức là b́nh bông bày ở phía đông và đĩa
trái cây bày ở phía tây. Nếu theo đạo Phật, ta phải
bày bàn thờ Phật như đă nói ở trên.
Khi phát tang, người ta thường
nhờ thày cúng hay mời một nhà sư đứng ra làm
lễ. Con cháu và họ hàng đều mặc đồ tang
như đă tŕnh bày ở trên, vừa cúng vừa khóc.
6. Cúng Cơm, Cầu Siêu, Phúng Điếu
Sau khi phát tang, mỗi ngày vào buổi
sớm và buổi chiều đều phải cúng cơm gọi
là chiêu tịch điện. Ở hải ngoại, v́ linh cữu
được để ở nhà quàn nên việc cúng
cơm chỉ có thể được thực hiện vào
buổi trưa và buổi tối cho đến khi
đưa đám mà thôi.
Ở Việt Nam trước
đây, người ta c̣n thuê phường bát âm thổi sáo
gảy đàn và phường tang nhạc thổi kèn
đánh trống. Con cháu mỗi người nhờ phường
kèn thổi một bài để khóc người quá cố rồi
thưởng tiền cho họ. Kèn càng sầu thảm,
người thổi kèn càng được nhiều tiền
thưởng. Ngày nay ở hải ngoại không có sẵn
phường kèn, người ta chỉ nhờ nhà sư làm
lễ cầu siêu và tụng kinh báo hiếu.
Phong tục ở Bắc Mỹ này
cho phép nhà quàn được mở một phần nắp
quan tài, tức là mở một phần của tấm thiên,
từ lúc phát tang cho đến giờ đưa đám nếu
người chết không có bệnh truyền nhiễm.
Những người đến
phúng điếu, sau khi dự lễ cầu siêu và lễ Phật
xong, đến chỗ đặt linh cữu để
chiêm ngưỡng mặt người quá cô lần chót. Sau
đó, khách đến thắp hương cúng trước
bàn thờ người quá cố.
Về việc phúng điếu,
người ta thường đặt ṿng hoa để
đi phúng điếu. Có người đi phúng bằng tiền,
nếu tang chủ nhận tiền. Quần áo mặc đi
phúng điếu thường màu đen hay trắng, giản
dị nhưng trang nghiêm. Không mấy ai đánh phấn bôi
son ḷe loẹt hay mặc quần áo diêm dúa, và kỵ nhất
là mặc quần áo màu đỏ.
7. Tục Lệ Vái Lạy Tại Đám Tang
a. Người Đến Phúng
Điếu Cúng Người Quá Cố: Khi đến phúng
điếu, người ta thường đốt
hương cúng người quá cố. Khi cúng người
ta có lệ lạy hay vái. Người ta thường dùng 2
vái hay 2 lạy để cúng người quá cố khi quan
tài chưa hạ huyệt. Sau khi thắp hương ở
bàn thờ trước linh cữu, khách đến phúng
điếu nên vái 2 vái hay lạy
2 lạy.
Những người ở vai
dưới của người quá cố như con cháu nên lạy 2 lạy.
Những vị già cả, ở vai trên của người
quá cố, chỉ nên đứng và vái 2 hai vái để thế
cho hai lạy mà thôi.
Theo nguyên lư âm dương, khi
chưa chôn, người quá cố được coi như
c̣n sống nên khách đến phúng điếu chỉ
vái 2 vái hay lạy 2 lạy mà
thôi. Hai vái hay hai lạy tượng trưng cho âm
dương nhị khí ḥa hợp trên dương thế.
Vái là chắp hai bàn tay lại để
trước ngực rồi đưa lên ngang đầu rồi
hơi cúi khom lưng xuống để vái theo nhịp khi
lên khi xuống tùy theo lúc khom hay đứng thẳng trong khi
cúng. Thế vái thường dùng để người vai
trên cúng người vai dưới như cha mẹ ông bà
cúng con cháu (chết yểu). Vái c̣n được áp dụng
khi không thể thực hiện được thế lạy.
Lạy là hành động bày tỏ
ḷng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể
xác đối với người trên hay người quá cố
vào bậc ông bà cha mẹ ḿnh. Thế lạy thường
dùng để người vai dưới cúng người
vai trên như con cái cúng cha mẹ ông bà.
Có hai thế lạy: thế lạy
đàn ông và thế lạy đàn bà (xin xem bài “Những Ngày
Tết và Nghi Thức Thờ Cúng Tổ Tiên” có đăng
trong tác phẩm này để biết về thế lạy
của đàn ông và đàn bà cùng tục lệ vái và lạy
của người Việt).
Khi quan tài đă hạ huyệt rồi,
ngưới ta dùng 4 vái hay 4 lạy. Bốn vái hay bốn lạy
dùng để cúng người đă được chôn rồi.
Chính v́ thế mà người ta dùng 4 vái hay 4 lạy để
cúng người quá cố như tổ tiên và thánh thần.
Bốn lạy hay bốn vái tượng trưng cho tứ
thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc
dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc:
thuộc âm), và tứ tượng (Thái Dương,Thiếu
Dương, Thái Âm, Thiếu Âm).
Nói chung, bốn lạy hay bốn
vái bao gồm cả cơi âm lẫn cơi dương mà hồn ở
trên trời và phách hay vía ở dưới đất
nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.
b.Tang Chủ Đáp Lễ: Trong khi
người đến phúng điếu vái hay lạy
trước linh cữu của cha mẹ th́ người con
trai trưởng nam hay thứ
nam và người con rể trưởng phải vừa
khóc vừa đáp lễ lại, nhưng chỉ đáp có một
nửa mà thôi. Thí dụ, người ta vái 2 vái hay lạy 2
lạy th́ ḿnh vái lại 1 vái hay lạy lại 1 lạy,
người ta vái 4 vái hay lạy 4 lạy th́ ḿnh vái lại
2 vái hay lạy lại 2 lạy.
8. Lễ Chuyển Cữu
Trước khi đưa đám,
vào đêm hôm trước hay sáng ngày đưa đám,
người ta làm lễ chuyển cữu, nghĩa là lễ
xoay quan tài. Lư do là hồi xưa người ta có lệ tổ
chức rước quan tài sang chầu tổ miếu
trước khi đem chôn, nhưng sau này v́ quá rườm
rà người ta chỉ xoay quan tài đi một ṿng rồi
đặt trở lại chỗ cũ. Chính v́ thế mà
người ta gọi việc xoay quan tài một ṿng này là lễ
chuyển cữu.
9. Lễ Phát Dẫn
Lễ tiễn đưa người
quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng được
gọi là lễ phát dẫn hay đưa đám. Ở Bắc
Mỹ này, nhà quàn chịu trách nhiệm lo chở linh cữu
và ṿng hoa đến nghĩa địa. Những người
đi đưa đám gồm cha mẹ, ông bà, con cháu, anh chị
em, họ hàng, bạn bè, và hàng xóm đều phải đi
bằng xe riêng của ḿnh. Nhà quàn gắn cho mỗi xe một
tấm bảng h́nh chữ nhật với chữ “Funeral”
để có quyền ưu tiên trong khi đi đường.
Những nghi lễ theo phong tục và tôn giáo có thể
được áp dụng ở nhà quàn, từ nhà quàn rước
ra xe tang, và từ xe tang tới huyệt, tức là cá hố
đào lên để chôn người.
Mặc dầu ở hải ngoại
ngày nay người Việt chúng ta không tổ chức lễ
phát dẫn giống như hồi c̣n ở Việt Nam
trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta cũng nên t́m hiểu
về lễ phát dẫn theo phong tục Việt Nam khi
xưa để khi giải thể được chế độ
Việt Cộng ở quê nhà rồi, chúng ta sẽ áp dụng.
Trước ngày 30-4-1975, khi đi
đưa dám, các con trai đều phải chống gậy,
cha chết th́ chống gậy tre, mẹ mất th́ chống
gậy vông (thứ cây có hoa đỏ, gỗ xốp).
Người con trai trưởng phải chống gậy
đi giật lùi phía trước quan tài, với ư là ngăn
cản việc đem chôn cha hay mẹ ḿnh. Người con
trai nào đă chết trước cha mẹ th́ con trai của
người ấy (cháu người quá cố) phải chống
gậy thay cho cha. Nếu con trai nào đi vắng th́ người
nhà treo cái gậy vào đầu đ̣n lúc khiêng quan tài để
cho người ngoài biết là người quá cố c̣n có
con trai nhưng vắng mặt.
Nếu người mất không có con trai th́ người
nào được ăn thừa tự phải chống gậy.
Con gái và con dâu th́ lăn đường
cho cha mẹ lúc đưa đám. Điều này ngụ ư là
thương tiếc cha mẹ và cản đường
không muốn người ta đem chôn cha hay mẹ. Có
như thế họ mới được gọi là
người con có hiếu.
Có người căn cứ vào câu tục
ngữ cha đưa mẹ đón để áp dụng vào
việc đưa đám. Họ cho là khi cha mất th́ con
trai chống gậy đi sau quan tài (tiễn đưa), khi
mẹ mất th́ con trai chống gậy đi giật lùi
trước quan tài (đón). Như thế, chỉ nh́n vào
cách đi này người con trai, người ta biết
đám tang đó là đám tang của bố hay mẹ.
Chúng tôi thấy cần phải ghi lại
lời góp ư này để rộng đường tham khảo.
Tuy nhiên, theo chỗ chúng tôi được biết th́ câu tục
ngữ cha đưa mẹ
đón là để áp dụng trong việc rước dâu và
đón dâu. Khi rước dâu về
nhà chồng th́ cha chú rể đi đưa cô dâu về, c̣n
bà mẹ chú rể không đi mà phải ở nhà đợi
khi đám rước dâu về tới đầu ngơ th́ bà mẹ
ra âu yếu cằm tay con dâu dắt vào nhà(đón). Đây là
một vinh dự của cô dâu. Có như thế vợ chồng
người con trai mới ăn ở với nhau lâu dài và hạnh
phúc. Nếu bà mẹ chồng không chịu ra đón cô dâu th́ đó cả là
điều không tốt cho cô dâu.
Tục lệ ta c̣n có người hộ
tang, tức là một vài người thân đi bên cạnh
linh cữu lúc đưa đám. Tất cả những
người đi đưa đám đều được
gọi là người tống tang.
Trong Lễ Phát Dẫn c̣n có phần
nghi trượng đi đường, tức là đồ
trần thiết trang trí nghiêm trang trong lúc đưa đám
gồm có: hai Thần Phưong Tướng (làm bằng giấy,
có bốn mắt, h́nh thù dữ tợn, mang giáo mác, do hai
người cằm rước đi mở đường),
Minh tinh (mảnh lụa bằng vải hay giấy đề
danh hiệu và chức tước người chết), thể
kỳ (cờ thêu nhiều màu), câu đối, ṿng hoa, bàn thờ (gồm hương án và thực
án có bày hương hoa, hai cây nến, lư hương, mâm
ngũ quả, lễ tam sinh hay heo quay, và bánh trái), linh xa
rước Hồn Bạch, phường bát âm hay đội
kèn đồng, và vau cùng là kiệu hay xe chở linh cữu.
Trên linh cữu có nhà táng giấy, tức là nhà làm bằng giấy
úp lên quan tài khi đưa đám ma. Tiếp sau linh cữu là
con cháu cùng bạn bè đi đưa đám.
Dọc đường đưa
đám, người ta c̣n rắc vàng thoi làm bằng giấy,
có nơi gọi là vàng vó hay vàng hồ. Trong truyện Kiều
có câu thơ (câu 49-50) nói về vàng hồ (vó) như
sau:"Ngổn ngang g̣ đống kéo lên,/ Thoi vàng hồ (vó)
rắc tro tiền giấy bay.”
Người ta tin rằng có quỉ
đè vào quan tài trong khi đưa đám nên phải rắc
vàng hồ (vó) để tống quỉ ra kẻo quan tài nặng
khó đi.
Trên hương án có bày bộ tam sự
gồm hai cây đèn làm bằng đồng để cắm
đèn cầy (nến) và cái lư hương. Trên thực
án có bày lễ tam sinh, tức là lễ dùng thịt của ba
loài sinh vật là trâu, dê,và heo (lợn) để cúng. Thường
th́ người ta chỉ dùng thịt heo quay là đủ.
Những nhà giầu sang phú quí,
người ta c̣n làm nhà trạm ở khoảng giữa trên
đường từ nhà đến huyệt để dừng
linh cữu lại mà tế. Đây là trường hợp
phú quí sinh lễ nghĩa.
10. Lễ Hạ Huyệt
Trước khi hạ huyệt,
người ta thường làm lễ cúng thổ thần và
nhờ nhà sư làm lễ trong lúc linh cữu được
hạ huyệt. Những người trong ban lễ đi
quanh mộ vừa cằm hương vừa tụng niệm.
Làm lễ xong người ta trải minh tinh trên mặt quan
tài rồi cho lấp mồ.
Sau này có người cho rằng làm
như thế không đúng. Họ
quan niệm rằng khi hạ huyệt, chiếc minh tinh chỉ
được để xuống trên nắp quan tài độ
một phút rồi nhấc lên trước khi lấp đất.
Họ căn cứ vào câu tục ngữ 'Mai cốt bất
mai danh' để nói rằng trên minh tinh có viết tên tuổi chức
tước và công đức của người chết
nên ta không thể chôn nó được. Tấm minh tinh phải được
mang về nhà để người thân chép những chi tiết
này sang bài vị để thờ, c̣n minh tinh được hóa (đốt)
trong một buổi cúng cơm sau đó.
Chúng tôi xin ghi lại ư kiến này ở
đây để tiện việc tham khảo. Tuy nhiên, Theo
chỗ chúng tôi được biết th́ câu "mai cốt
bất mai danh” có nghĩa là con người có danh tiếng
dù khi họ đă chết và được chôn cất rồi
th́ danh tiếng và tên tuổi của con người đó sẽ
lưu lại ngàn sau. Chính v́ thế, ta phải cẩn thận,
đừng tưởng chết đi là hết. Nếu làm
những điều buôn dân bán nước và làm Cộng nô,
con người sẽ để lại ô danh ngàn đời.
Trong khi hạ huyệt và lấp mồ,
mỗi người đi đưa đám thường cầm
một ḥn đất hay nhánh hoa ném xuống mộ để
tỏ ḷng luyến tiếc và cầu mong người quá cố
được mồ yên mả đẹp. Đó là tục
dong nhan.
Nếu bạn của người
quá cố là các nhà văn, nhà thơ, hay nhà giáo, người
ta thường có bài điếu văn, tức là bài văn
khóc người chết, để đọc trong buổi
lễ hạ huyệt để nói lên những kỷ niệm
giữa người quá cố và bạn bè, công danh sự
nghiệp của người quá cố, và ḷng thương
tiếc của bạn bè đối với người quá
cố.
Sau khi lấp huyệt, một đại
diện của tang gia nên có đôi lời cám ơn ban tế
lễ, quan khách, và thân bằng đă đến tiễn
đưa người quá cố đến nơi an nghỉ
cuối cùng. Sau đó, đại diện của tang gia
đứng ra tiễn quan khách và thân hữu ra về.
Sau khi mọi việc xong xuôi,
người ta rước ảnh người quá cố,
bát hương, và hồn bạch (nếu có) về nhà để
thờ. Có người rước bát hương và ảnh
người quá cố về thẳng nhà chùa để linh
hồn người chết được nương nhờ
cửa Phật.
V. Tục Lệ Sau Tang Lễ
1. Lễ Cầu Cho Hồn Phách của
Người Mới Mất Đưọc Yên Ổn: Có quan
niệm cho rằng người mới chết hồn phách
chưa được yên nên sau khi an táng, tức là sau khi
chôn cất xong, con cháu phải làm lễ kéo dài trong ba ngày
để cầu cho hồn phách của người quá cố
được yên ổn. Lễ này gọi là ngu tế (ngu
nghĩa là yên). Lễ ngày thứ
nhất là sơ ngu, ngày thứ
hai la ø tái ngu, và ngày thứ ba là tam ngu. Mỗi lần lễ
như vậy, con cháu lại khóc.
2. Lễ Mở Cửa Mả, Viếng
Mộ, Đắp Mộ, và Dựng Bia: Sau khi chôn cất
được ba ngày, con cháu phải ra mộ làm lễ, gọi
là lễ mở cửa mả.
Lễ mở cửa mả
gồm có hương hoa và trái cây là đủ. Điều
chính yếu là đi thăm mộ, sửa sang mộ cho
đẹp, và cho dựng bia trước ngôi mộ. Cũng
có người nhờ thầy làm lễ trong dịp này
để yểm trừ hung thần khỏi làm phiền
nhiễu người mới chết.
Mỗi ngày, con cháu đều phải
cúng cơm ở nhà, ngày hai buổi, ăn ǵ cúng cái đó,
cho tới một trăm ngày mới thôi.
3. Cúng 49 Ngày: Cứ bảy ngày th́
tang gia nhờ nhà sư làm lễ cầu siêu ở chùa, gọi
là cúng thất thất lai tuần. Được 49 ngày th́
làm lễ gọi là lễ tuần thất thất hay tuần
chung thất. Vào dịp này người ta thường nhờ
nhà sư tụng kinh sám hối
ba đêm. Đối với những nhà giầu
có, người nhờ nhà
sư tụng kinh cả bảy ngày đêm để cho vong
hồn người quá cố được siêu thăng tịnh
độ.
4. Cúng Cơm Trong 100 Ngày: Nhà có cha hay
mẹ mất, con cháu thường cúng cơm ngày hai bữa.
Lúc cúng cơm, con cháu đều khóc. Cúng như thế cho tới
đủ 100 ngày mới thôi cúng và thôi khóc. Tuần lễ
chót của 100 ngày là tuần tốt khốc (tốt có nghĩa
là cuối cùng và khốc là khóc),
tức là thôi khóc. Sau khi cúng 100 ngày th́ không cúng cơm
hàng ngày và không khóc nữa.
5. Cúng Giỗ và Đoạn Tang: Sau
ngày thân nhân chết, cứ mỗi năm người ta có tục
làm giỗ, tức là lễ cúng kỷ niệm ngày chết. Nếu người nhà chết
được một năm (12 tháng), người ta làm giỗ
đầu gọi là lễ tiểu tường. Sau giỗ
đầu, con cái không c̣n phải mặc đồ sô gai nữa,
nhưng vẫn mặc đồ tang cho đến hết
hạn để tang. Sau giỗ
đầu một năm (12 tháng), người ta tổ chức
giỗ thứ hai gọi là giỗ hết hay là lễ đại tường. Sau lễ đại tường
3 tháng, tức là tính từ ngày chết đến sau lễ
đại tường 3 tháng, tổng cộng là 27 tháng,
người ta làm lễ măn
tang gọi là lễ trừ phục hay đàm tế. Từ
đấy trở đi con cháu không phải mặc đồ
tang phục nữa.
Sau lễ đại tường,
con cháu vẫn phải làm giỗ cho cha mẹ hàng năm
đến khi người chết lên tới bậc tổ
ngũ đại (tổ năm đời). Nếu lấy
con làm chuẩn th́ trên có cha mẹ, ông bà, cụ, và kỵ. Vậy
hàng con không phải làm giỗ
cho kỵ. Lúc bấy giờ bát hương của kỵ được đưa vào từ
đường họ để thờ chung ở đó.
6. Cải Táng: Cải táng c̣n gọi
là cải mả, tức là dời mả hay bốc mả
đi chôn lại ở nơi khác. Sau khi đoạn tang ba
năm hay lâu hơn nữa, người ta thường lo
việc cải táng cho thân nhân.
a. Cách Thức Cải Táng: Trước
hết là khai mả để lấy hài cốt, tức là
xương, xếp vào một cái tiểu sành rồi tẩy
(rửa) xương bằng rượu đế hay
nước vang (thứ nước lấy ra từ cây vang,
thứ cây có vỏ màu đỏ). Sau khi tẩy sạch hài
cốt, ta đậy kín tiểu sành lại rồi đem
chôn sang chỗ đất khác có địa thế và phong thủy
tốt hơn.
Việc chôn cất phải nhờ
thầy địa lư (phong thủy) giúp cho để chọn
nơi đất tốt. Thế đất tốt là chỗ
cao ráo, khô nước, không bị lở hay bị soi ṃn khi
trời mưa, và phía mặt tiền không bị án ngữ bởi
bất cứ cái ǵ. Người ta tin là thế đất
hàm rồng là tốt nhất, nên mới có câu “mả tổ
tiên táng hàm rồng” để khen những ai có con cháu học
hành thành đạt.
b. Lư Do Cải Táng: Người ta cải
táng trong các trường hợp sau:
- Trong trường hợp cha mẹ
chết và được chôn ở xứ người, khi
có điều kiện thuận tiện th́ con cháu cải
táng để mang hài cốt về quê quán chôn cất lại.
- Trong trường hợp nhà nghèo
và lúc cha mẹ chết không có đủ tiền mua ḥm tốt
nên khi có điều kiện con cháu cải táng để
tránh việc ḥm hư nát làm hại tới hài cốt.
- Do dị đoan mê tín, người
ta thường cải táng mộ người thân và đem
chôn ở nơi đất tốt để cầu may mắn,
đạt công danh sự nghiệp, và giầu sang phú quí.
Người ta tin là nếu chọn được thế
đất tốt để cải táng th́ con cháu sẽ khá
giả. V́ thế người ta nhờ thầy địa
lư để chọn đất kỹ lưỡng trước
khi cải táng.
- Ở nước ta, nhiều
người tin là tổ tiên và con cháu có huyết mạch
quan hệ mật thiết với nhau. V́ thế nếu hài
cốt ông bà cha mẹ có tốt lành và ấm cúng th́ con cháu mới
khá được. Hễ hài cốt không yên th́ con cháu sẽ
gặp phải nhiều tai ương. Chính v́ lư do này mà
người Việt Nam tin vào tục cải táng.
Tuy nhiên, việc cải táng không phải
là điều cần thiết phải theo. Có người cải
táng có người không. Tùy theo hoàn cảnh từng người
và tùy theo sự mê tín mà xét có nên cải táng hay không.
7. Tảo Mộ: Hàng năm cứ
vào dịp Thanh Minh, ngày giỗ, và vào dịp lễ Vu Lan, con cháu thường ra thăm mộ,
sửa sang và đắp mộ cho cao và đẹp. Việc
thăm mộ, sửa sang mộ, và dọn sửa mộ gọi
là tảo mộ. Sau khi sửa
sang mộ xong, con cháu đốt hương, cắm hoa, và
bày lễ vật để cúng.
Trong
Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cũng có hai câu thơ (câu 43-44) nói
về việc Thanh Minh như sau:
"Thanh minh trong tiết tháng Ba,/ Lễ là tảo mộ,
hội là đạp thanh."
VI. Thời Gian Để Tang hay Hạn
Để Tang
Việc để tang ở nước
ta chia ra đại tang và tiểu
tang. Về tiểu tang có 4 bậc,
đại tang chỉ có 1 bậc.
Đại tang và tiểu tang gồm tất cả 5 bậc,
gọi là ngũ phục.
1. Đại Tang: Để Tang 3
Năm: Thời gian để đại tang là 3 năm,
nhưng trên thực tế, người ta chỉ để
đại tang có 27 tháng. Trong thơ bà Hồ Xuân
Hương cũng đă nói tới điều này. Khi ông Phủ
Vĩnh Tường mất, bà làm bài thơ để khóc
ông ta trong đó có hai câu nói về việc để tang:
"Hai bảy tháng trời là mấy chốc,/ trăm
năm ông Phủ Vĩnh Tường
ơi!"
Đại Tang dành cho con để tang cha mẹ
ruột và cha mẹ nuôi, nàng dâu để tang cha mẹ chồng,
vợ để tang chồng, cháu đích tôn thừa trọng
(thay cha khi cha mất) để tang ông bà, và chắt thừa
trọng (thay cha và ông khi cha và
ông đều mất) để tang cụ ông cụ bà.
2. Tiểu Tang: Theo tục lệ, tiểu
tang có nhiều loại với tên khác nhau và thời gian
để tiểu tang cũng khác nhau tùy theo thân sơ.
a. Cơ Niên: Để Tang Một
Năm: Để tang một năm c̣n gọi là cơ niên.
Để tang một năm dành cho cha mẹ để tang
cho con trai, con dâu trưởng, và con gái (chưa đi lấy
chồng); chồng để tang cho vợ; con rể để
tang cho cha mẹ vợ; anh em và chị em (chưa đi lấy
chồng) kể cả anh chị em cùng cha khác mẹ để
tang cho nhau; em để tang cho chị dâu trưởng; cháu
trai và cháu gái (chưa đi lấy chồng) để tang
cho ông bà nội; cháu để tang cho chú bác ruột và cô ruột
(chưa đi lấy chồng); cháu dâu để tang cho ông
bà nhà chồng.
b. Đại Công: Để Tang 9
Tháng: Để tang 9 tháng c̣n gọi là đại công. Để
tang 9 tháng dành cho cha mẹ để tang con gái (đă đi
lấy chồng) và con dâu thứ; chị em ruột (đă
đi lấy chồng) để tang cho nhau; anh em con chú con
bác ruột để tang cho nhau;
chị em con chú con bác ruột (chưa đi lấy chồng)
để tang cho nhau.
c. Tiểu Công: Để Tang 5 Tháng:
Để tang 5 tháng c̣n gọi là tiểu công. Để tang
5 thánh dành cho anh chị em cùng mẹ khác cha để tang cho
nhau; chị em con chú con bác ruột (đă đi lấy chồng)
để tang cho nhau; con để tang cho d́ ghẻ; cháu
để tang cho ông chú, bà bác, và bà thím; cháu để tang cho bà cô (chưa
đi lấy chồng), chú họ, bác họ, thím họ, cô họ
(chưa đi lấy chồng), ông bà ngoại, cậu, và d́
ruột; và chắt để tang cho cụ ông cụ bà bên nội.
d. Ti Ma: Để Tang 3 Tháng: Để
tang 3 thánh c̣n gọi là ti ma. Để tang 3 thánh dành cho cha mẹ
để tang cho con rể; con cô con cậu và đôi con d́
để tang cho nhau; cháu để tang cho ông chú họ, ông
bác họ, bà cô họ (chưa đi lấy chồng), bà cô
(đă đi lấy chồng), và cụ cô (chưa đi lấy
chồng); chắt để tang cho cụ chú cụ bác; và
chút để tang cho kỵ ông kỵ bà bên nội.
Chúng ta nhận thấy một
điều nổi bật nhất trong việc để
tang của người Việt là quan niệm "trọng
nam khinh nữ," chẳng hạn
như thời gian vợ để tang chồng là 27 tháng, tức
là đại tang. C̣n chồng để tang vợ chỉ
có một năm và được coi là tiểu tang mà thôi. Một
điều đặc biệt nữa là khi người con
gái đă đi lấy chồng th́ bị coi là ngoại tộc,
đúng với quan niệm “nữ nhân ngoại tộc" và "dâu
là con rể là khách.” Người
đàn bà, nếu đă đi lấy chồng, khi mất
đi, được thân nhân để tang một thời
hạn ngắn hơn là lúc chết mà chưa có chồng.
Việc để tang của ta
đă thể hiện một nền văn minh lâu đời,
có tôn ti trật tự, có phép tắc hẳn hoi, và thân sơ
phân biệt rơ ràng.
Việc để tang cần phải
học hỏi và được giáo dục mới biết
và thực hiện đúng theo phong tục được. Nh́n
vào việc con cái để tang ông bà hay cha mẹ mà người
ta biết được gia đ́nh đó có giáo dục theo
nếp Việt hay không.
Để tiện công ăn việc
làm và lo cho đời sống hằng ngày, ngày nay đồ
tang phục chỉ được mặc cho đến khi
chôn cất thân nhân xong. Sau đó, người ta đeo một
cái băng màu đen ở tay áo trái rộng độ 10 phân
đối với đàn ông trong trường hợp đại
tang, và đeo một miếng vải đen nhỏ bằng
đầu ngón tay cái ở nẹp áo trước ngực
hay ở trên mũ trong trường hợp tiểu tang. C̣n
đàn bà, người ta thường vấn khăn trắng
hay cài miếng vải đen ở trước ngực phía
trái khi mặc áo dài.
Để hiểu rơ về một
số cách xưng hô trong liên hệ gia đ́nh của bài này,
xin quư vị xem bài "Cách Xưng Hô Bằng Tiếng Việt
Áp Dụng Trong Gia Đ́nh" có đăng trong tác phẩm
này.
VII. Kết Luận
Dù muốn dù không, đă là người
Việt chúng ta cần phải biết phong tục Việt.
Vấn đền duy tŕ và áp dụng phong tục và tập
quán được hay không lại là một việc khác. Nó
cần đ̣i hỏi một sự uyển chuyển hợp
t́nh hợp lư và tùy cơ ứng biến. Vấn đề
chính là làm sao vẫn áp dụng được phong tục của
ḿnh mà không làm phiền hà người khác cũng như không
vi phạm luật pháp ở nơi quê người.
Việc giữ ǵn phong tục và tập
quán của ḿnh một cách thông minh và hợp t́nh hợp lư sẽ
làm cho người ngoài khính phục ta và ta mới có cơ hội
hănh diện là con dân đất Việt.
Vấn đề hiếu thảo rất
quan trọng khi ông bà và cha mẹ c̣n sống. Nên đối
xử với ông bà và cha mẹ cho tṛn chữ hiếu trong
lúc các người c̣n sinh tiền. Một khi các người
đă nằm xuống rồi, ta nên làm tang ma cho giản tiện
th́ hơn.
Để tang cốt ở trong
ḷng, c̣n h́nh thức, có th́ càng quí, không có cũng xong. Đừng
có quá câu nệ để gây phiền phức cho ḿnh và cho
người. Cần nhớ rằng phong tục và tập
quán do người đặt ra th́ nó cũng vẫn có thể
do người thay đổi. Mỗi nơi mỗi khác và mỗi
thời mỗi khác. Cần phải giữ cái hay cái đẹp,
c̣n những ǵ gây phiền hà quá, chúng ta nên sửa lại
để cho thích hợp với con người mới và
thời đại mới.
Đối với ông bà cha mẹ,
chúng ta cần phải phụng dưỡng săn sóc cho chu
đáo về tinh thần và thể chất khi các người
c̣n sống, nhất là miếng cơm manh áo, để khỏi
phải hối hận về sau.
Ca dao ta có những câu để diễn
tả cái ư là khi cha mẹ c̣n sống các con chẳng săn
sóc nhưng đến khi cha mẹ chết lại bày vẽ
cúng tế: "Sống thời con chẳng cho ăn,/ Chết
thời xôi thịt làm văn tế ruồi" hay "Sống
th́ chẳng cho ăn nào,/ Chết th́ cúng giỗ mâm cao cỗ
đầy."
Sống Lâu, Sống Vui, Sống Khoẻ,
và Sống Có Ích
I. Giới Hạn Tuổi Thọ
Con Người
Theo các nhà nghiên cứu tuổi thọ,
con người càng về già th́ sức khỏe càng hao ṃn và
có thể nguy hiểm đến tính mệnh nếu không
được duy tŕ và bồi dưỡng đúng cách, nhất
là đối với những người từ 50 tuổi
trở lên.
Ở Việt
Ở Á đông ta, con người sống
tới 70 tuổi đă được cho là hiếm quí
(nhân sinh thất thập cổ lai hy). Tuy nhiên, tuổi thọ
của con người do “trời” ấn định là vào
khoảng một trăm tuổi là đáo hạn "về
trời" (Nhân sinh bách tuế đáo vi kỳ).
Ở Bắc Mỹ, theo thống kê
Canada đăng trên The London Free Press ngày 15 tháng 02 năm
1997, tuổi thọ trung b́nh của đàn bà là 82 tuổi và
đàn ông là 74.8 tuổi. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy có
nhiều người sống trên trăm tuổi.
Theo bản tin ngày 22-02-97 của tờ
báo trên, người có tuổi thọ vào bậc nhất thế
giới, 122 tuổi, là bà Jeanne Calment, sinh ngày 21 tháng 2, 1875. Bà
ta là người Pháp, sống ở
Theo tờ báo The Toronto Star, số ra
ngày thứ tư, 25 -4-2001, ở Canada, vào năm 2001, bà Zelda
McCague đă thọ tới 113 tuổi và được coi
là người thọ nhất ở Canada. Bí quyết sống
lâu của bà là ăn những bữa ăn nhỏ, tránh nghiện
rượu và thuốc lá.
Sự thật th́ khi con người
mới được sinh ra đă bắt đầu già rồi.
V́ thế trong tiếng Anh người ta mới dùng từ
“year old” để nói về tuổi. Chẳng hạn đứa
trẻ được một tuổi, người ta nói là
“He is one year old.” Người Việt ḿnh cũng có câu tục
ngữ và ca dao diễn tả
sự già mỗi khi người ta được thêm một
tuổi: “Mỗi năm mỗi tuổi như đuổi
xuân đi” và “Mỗi năm mỗi
tuổi mỗi già,/ Chẳng lo liệu trước ắt
là lụy sau.”
Thường th́ khi c̣n ít tuổi, nhờ
có sức khỏe, người ta mới vượt qua các
chứng bệnh. Càng nhiều tuổi, tế bào của con
người bị hủy hoại đi là do bệnh tật
và tuổi già. Nếu biết bồi dưỡng cho cơ
thể bằng cách sống điều độ, dùng đồ
ăn có lợi cho cơ thể, tập thể dục, dùng
thuốc bổ, và có thái độ sống vui tươi, tức
là giữ sức khỏe về thể chất và tinh thần
cho khỏe mạnh và thoải mái, th́ con người có thể
đạt tới tuổi thọ vào khoảng 100 tuổi
hay hơn mà vẫn sống khỏe, sống có ư nghĩa, tức
là sống có ích cho mọi người.
II. Thọ Và Yểu
Theo quan niệm Á Đông, sống chết
đều do số trời đă định. Tới số
th́ phải chết. Mọi thứ đều do tiền
định cả. Chữ tiền
định diễn tả một triết lư vừa siêu
h́nh (metaphysical) vừa nhân quả (cause and effect). Tính chất
siêu h́nh diễn đạt định luật của tạo
hóa và vượt khỏi ư muốn của con người.
Tuy nhiên, con người vẫn góp phần quyết định
về thành quả của cuộc đời ḿnh theo định
luật nhân quả, tức là gieo nhân nào th́ được
quả nấy.
Tính chất nhân quả đă
được Nguyễn Du diễn tả trong truyện Kiều
như sau: “ Sư rằng phúc họa đạo trời,/ Cỗi
nguồn cũng ở ḷng người mà ra. / Có trời
mà cũng có ta,/ Tu là cơi
phúc t́nh là dây oan (câu 2655-2658)/...Xưa nay nhân định thắng
thiên cũng nhiều.” (câu 420)
Trong phạm vi thọ và yểu,
chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề
nhân quả thuộc phạm vi mà con người có thể
hiểu được và có thể kiểm chứng
được như trong câu ca dao “Trồng cây có ngày ăn
quả” hay “Gieo gió gặt băo.”
Y học thời nay đă khám phá ra
tuổi thọ của con người có thể đạt
tới mức tối đa vào khoảng 120 tuổi (luật
tạo hóa) hay không là do chính ḿnh quyết định. Tuổi
già mà trở thành yếu đuối không phải do năm
tháng tạo thành mà do chính bệnh hoạn và thái độ sống
do con người gây ra (nhân quả).
Thái độ sống tích cực và
yếu tố giầu sang cũng là điều kiện làm
cho con người sống lâu. Theo báo Toronto Star, số ngày
19-8-99, trong bài “GTA's Wealth Contributes to Low Death Rates, Report
Claims,” tác giả Elaine Carey có viết đại ư rằng
t́nh trạng kinh tế giữ vai tṛ quan trọng trong vấn
đề sức khỏe, tức là giầu có th́ tốt
cho sức khỏe. Nếp sống, thói quen, và thái độ
của con người cũng giữ một vai tṛ trong vấn
đề sức khỏe nữa. Chẳng hạn như tỷ
lệ những người hút thuốc lá càng cao th́ số
người mắc bệnh ung thư phổi càng nhiều.
Ngoài ra, cổ nhân ta c̣n cho là người
khôn th́ sống lâu. Trong Hàn Thi
Ngoại Truyện, tác giả Hàn Thi có viết: “Người
ta có ba thứ chết, tự ḿnh làm cho ḿnh chết chứ
không phải số mệnh đáng chết mà chết:
- Ăn uống không có chừng mực,
thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó
nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người
như thế phải chết về bệnh tật.
- Phận là người dưới
mà can phạm người trên, ḷng tham muốn không chừng,
tính yêu cầu không chán, người như thế th́ chết
về h́nh pháp.
- Ḿnh ngu mà ḱnh địch người
khôn, ḿnh yếu mà khinh bỉ người mạnh, không biết
lượng sức ḿnh mà cứ giận dữ làm liều,
người như thế th́ chết về binh đao.
Không ai thoát được tuổi
già và sự chết. Tạo hóa đă ấn định cho
mỗi giống vật một thời hạn tối
đa để sống hầu tránh nạn “vật măn” hay
“nhân măn,” tức là nạn quá nhiều giống vật và quá
nhiều người sống trên trái đất khiến
người và vật không đủ đồ ăn và
đất sống. Đây là trật tự của thiên
nhiên.
Con người chúng ta có một thời
hạn tối đa để sống là vào khoảng trên
dưới 100 năm. Nếu biết cách duy tŕ và bồi
dưỡng sức khỏe, thể chất cũng như
tinh thần, ta sẽ sống được tới mức
tối đa mà tạo hóa đă dành cho ta. Không chịu
chăm nom sức khỏe mà c̣n dày ṿ hủy hoại nó th́
đương nhiên ta phải mắc bệnh mà chết yểu.
Ta có thể nhiều tuổi,
nhưng không nhất thiết phải bị bệnh hoạn
hay suy yếu v́ tuổi già. Nhiều tuổi mà vẫn khỏe,
vẫn trẻ, và vẫn làm được những ǵ mà hồi
hai ba mươi tuổi ta đă làm. Sau đây là một số
thí dụ cụ thể:
- Theo như bản tin của The
London Free Press ngày 12-12-95, tài tử điện ảnh nổi
tiếng của Hoa Kỳ, Frank Sinatra, ở cái tuổi 80
vào năm 1995, vẫn làm được những ǵ đă
làm khi c̣n trẻ, tức là ông ta vẫn c̣n cái sinh lực của
đàn ông con trai, vẫn làm việc hăng say, và vẫn tiếp
tục thành công về những ǵ ông ta theo đuổi.
- Theo tin của The London Free Press ngày
16-1-96, vua hài hước George Burns của Hoa Kỳ,
được tṛn 100 tuổi vào ngày thứ bẩy 13-1-96
mà vẫn sung sức như hồi c̣n trai trẻ. Ông vẫn
c̣n dồi dào khả năng chăn gối với những
cô gái trẻ, vẫn uống rượu Martinis hàng ngày, và vẫn
hút thuốc lá x́ gà khoảng từ 10 tới 15 điếu mỗi
ngày. Ông nói rằng ông ta không những làm được tất
cả những ǵ ông đă làm hồi 18 tuổi mà c̣n làm hay
hơn thế nữa, nhất là vấn đề chăn gối.
Thật đúng với câu ca dao của Việt Nam ta: “Càng
già càng dẻo càng dai,/ càng lệch chân chơng, càng sai chân
giường.”
Ông George Burns đă qua đời vào
ngày thứ bẩy 9-3-96, thọ 100 tuổi và 55 ngày. Nhận
xét về sức khỏe của George Burns, một số
người cho rằng lư do chính để ông ta sống lâu
là v́ ông ta có óc khôi hài và sống
một cuộc đời thật thoải mái. Nếu không
hút thuốc lá nhiều như thế, ông ta chắc c̣n sống
lâu hơn nữa.
- Theo tin của The London Free Press ngày
25 tháng 10, 1996, bà Florence Boyd-Graham ở London, Canada, được
tṛn 83 tuổi vào tháng 12, 1996. Bà ta đỗ bằng cử
nhân triết học (Bachelor's degree in philosophy) tại đại
học University of Western Ontario vào mùa thu năm 1996. Ở cái
tuổi 83, bà Boyd-Graham vẫn khỏe mạnh và minh mẫn.
Bà c̣n dự định lấy bằng cao học và cả
bằng tiến sĩ triết học trong tương lai nữa.
Triết lư của bà là giữ cho trí tuệ luôn luôn linh hoạt.
Bà trở lại nhà trường cốt để cho trí tuệ
tiếp tục minh mẫn. Ngồi chơi và đợi
ngày tàn của cuộc đời trong lúc tuổi già không phải
là thái độ của bà.
- Theo báo The London Free Press, số ra
ngày 11-11-96, ông Romeo Masse và bà Victoria Marentette ở Windsor,
Canada, đều đă 85 tuổi vào năm 1996. Hai ông bà này
đă làm đám cưới vào ngày 9-11-96, có khoảng 150 bạn
bè và người quen biết tham dự. Hai ông bà đă
đi hưởng tuần trăng mật ở Niagara Falls
và Florida. Thật là tuổi già không kém vẻ thanh xuân.
Những trường hợp cụ
thể kể trên đă chứng tỏ rằng con người
dù có nhiều tuổi nhưng vẫn khỏe, làm được
những việc mà hồi c̣n trẻ người ta vẫn
làm. Ngày nay, khoa học đă minh chứng rằng người
ta chết yểu là do bệnh hoạn và không biết cách
duy tŕ cùng bồi dưỡng sức khỏe, thể chất
cũng như tinh thần. Có người tin là tuổi thọ
do trời cho ai người ấy được hưởng.
Điều này chỉ đúng có một phần. Phần lớn
là do ḿnh định đoạt tuổi thọ của ḿnh.
III. Cuộc Cách Mạng Lật
Đổ T́nh Trạng Già Yếu Bện Hoạn của Con
Người
Các nhà cách mạng sức khỏe gồm
các vị chuyên khảo cứu về nguyên do bệnh hoạn
và t́nh trạng già yếu của con người đă t́m ra
kẻ thù phá hoại các tế bào và gây ra t́nh trạng già yếu.
Các nhà cách mạng này cũng đă t́m ra những vũ khí hữu
hiệu để tiêu diệt kẻ thù của sức khỏe
con người. Nay chỉ c̣n việc dễ dàng là ta đem
những vũ khí này ra sử dụng chống quân thù làm hại
tế bào th́ ta sẽ trường thọ mà c̣n khỏe mạnh
và vui tươi.
Dr. Bruce N. Ames thuộc trường
đại học University of California, Berkeley, đă viết
bài “Oxidants, Antioxidants and The Degenerative Diseases of Aging”
đăng trên báo Proceeding của The National Academy of Sciences,
số tháng 9, 1993. Ông quả quyết là sự ốc-xy-hóa
(oxidants) đă phá hủy các phân tử di truyền DNA của
tế bào và gây ra các chứng bệnh suy thoái tuổi già
như bệnh ung thư, bệnh tim, t́nh trạng mất khả
năng chống bệnh hoạn của cơ thể, cũng
như bệnh rối loạn hệ thống thần kinh
và năo bộ.
Cần biết rằng cơ thể
con người do tế bào (cells) cấu tạo. Đó là
các tế bào da, tế bào xương, tế bào sụn, tế
bào óc, tế bào thần kinh, tế bào bắp thịt, tế
bào gan, tế bào phổi, tế bào ruột, tế bào thận,
và tế bào mỡ, v.v. Nếu các tế bào này bị phá hủy,
con người phải chết.
Hiện tượng oxidants làm hại
tế bào được giải nghĩa là tế bào bị
những độc tố hóa học “ free radicals” tước
mất điện tử (electrons) và bị hủy hoại
do sự ốc-xy-hóa. Do đó, ta phải dùng các thức
ăn hay thuốc bổ để tạo ra chất chống
lại sự ốc-xy-hóa có tên là “antioxidants” để giúp cơ thể khỏe
và trẻ lâu hơn.
Khi tuổi càng cao, máu trong cơ thể
con người có khuynh hướng sinh ra một chất gọi
là “homocysteine.” Chất này có tác dụng làm cho máu đông
đặc lại thành cục và gây ra bệnh tim. Nếu ta
ăn các thứ rau có chất “folic acid” như rau dền
(spinach) hay uống sinh tố B6 th́ chất “homocysteine” trong
máu sẽ giảm xuống rất nhanh và ta có cơ hội
tránh được sự đe dọa của bệnh tim
cũng như tránh được bệnh già.
Một số các cụ thường
có tính lẩm cẩm và lẫn lộn do sự mất khả
năng nhạy bén về trí tuệ gây ra. Các nhà y học
đă khám phá ra việc mất trí nhớ, mất khả
năng tập trung tư tưởng, cũng như sự
rối loạn tâm trí như trường hợp những
người mắc bệnh “alzheimer” là do thiếu sinh tố,
nhất là B12, B6, và folic acid.
Dạ dày của những người
từ 50 tuổi trở lên có thể không c̣n tiết ra
đủ chất dịch vị hay chất men “enzyme” dùng vào việc tiêu hóa đồ
ăn và hấp thụ sinh tố B12 có chứa trong đồ
ăn để đưa vào máu nuôi cơ thể. V́ thế,
các nhà bào chế thuốc đă sản xuất loại
đa sinh tố và khoáng chất gọi là “50+ complete
multivitamin-mineral supplement” đặc biệt dành cho những
ai từ 50 tuổi trở lên. Thế cho nên, những
người từ 50 tuổi trở lên cần phải uống
thêm sinh tố loại này để chắc chắn có đủ
số sinh tố cần thiết hằng ngày giúp cho cơ
thể khỏe mạnh măi măi.
A. Kẻ Thù Của Sức Khỏe
1. Kẻ Thù Thứ Nhất
Đă Phá Hủy Các Tế Bào
Con Người: Mỡ Động Vật, trừ Mỡ
Cá, Thuốc Lá, và Môi Trường
Sống Ô Nhiễm.
Việc ăn uống thiếu bổ
dưỡng, ăn nhiều mỡ động vật, và sống
trong môi trường bị ô nhiễm là các nguyên nhân chính làm
cho cơ thể chúng ta tạo ra những quân khủng bố
“free radicals” phá hoại dần các tế bào để làm cho
ta mau già, bệnh hoạn, và chết yểu. Nói chung, mỡ
của các động vật đều có hại cho cơ
thể nếu ta ăn nhiều. Tuy nhiên, mỡ của các
loại cá th́ không sao.
Ăn nhiều chất béo mà lại
không hoạt động, ta sẽ béo mập. Béo mập lại
dễ sinh bệnh tật. Theo báo Toronto Star, số ra ngày
20-8-99, trong bài “A Heavy Burden: Half The Nation Is Fat,” tác giả
Tanya Talaga đă nêu ra một trong những lư do tại sao ta
béo mập. Đó là v́ con người kém hoạt động,
ngồi nhiều, làm cái ǵ cũng bằng máy móc, và đời
sống bận rộn làm ta có cớ không tập thể dục.
Càng béo mập người ta càng có
nhiều vấn đề kinh niên về bệnh tật.
Béo mập có liên hệ với bệnh suyễn, bệnh
sưng khớp xương, bệnh đau lưng, và bệnh
tràng nhạc mà tiếng Anh gọi là thyroid disorders (bệnh
sưng tuyến giáp trạng ở cổ). Người béo
mập dễ dàng mắc bệnh đái đường và
bệnh cao áp huyết.
a. Quân
Khủng Bố Free Radicals: Mỡ Động Vật và Thuốc
Lá
Theo hóa tính, “free radicals” chỉ là những
phân tử (molecules) trong cơ thể con người. Các
phân tử này v́ thiếu mất một điện tử
(electron) nên đă đi chiếm bằng được một
điện tử của các phân tử khác qua hiện
tượng ốc-xy-hóa nhằm phá hủy các tế bào con
người. V́ thế, “free radicals” trở thành những
quân khủng bố nằm vùng để phá hoại các tế
bào của ta.
Để chế ngự quân khủng
bố “free radicals” này, người ta phải dùng chất
“antioxidants,” một hợp chất có thể nhường
các điện tử của ḿnh cho quân khủng bố “free
radicals” mà không có hại ǵ. Khi được thêm điện
tử, quân khủng bố “free radicals” trở lại trạng
thái ôn ḥa không làm hại tế bào mà c̣n hữu ích cho cơ
thể trong việc chống nhiễm độc và chống
bệnh già yếu. Tóm lại, “free radicals” tạo ra
“oxidants” để phá hủy các tế bào qua hiện tượng
oc-xy-hóa. Các nhà y học dùng chất
chống ốc-xy-hóa tức là “antioxidants” để chặn
đứng sự phá hủy này.
Con
người thọ hay yểu là do có quân khủng bố “free radicals” nằm vùng trong tế
tào nhiều hay ít. Khi quân khủng bố này nằm vùng trong
tế bào để phá hoại th́ tế bào không thể chống
chơi được mà phải đầu hàng. Tế bào bị
hủy hoại, con người bị bệnh mà chết. Mỡ
động vật và thuốc lá đă tạo ra quân khủng
bố “free radicals” và “oxidants” để phá hoại tế
bào làm cho con người già yếu.
Để dễ hiểu, chúng ta có
thể so sánh quân khủng bố “free radicals” với những
tên Việt Cộng nằm vùng trong cộng đồng
người Việt hải ngoại, và chất “antioxidants”
cũng giống như những chiến sĩ chân chính và
kiên cường chống Cộng.
Những thức ăn có chứa mỡ
động vật như: thịt heo, thịt gà, thịt
ḅ v.v. Nếu ăn nhiều mỡ động vật loại
này, ta sẽ tạo môi trường để quân khủng
bố Việt cộng “free radicals”
có dịp phá hủy các tế bào của thân thể. Kết
quả là ta mắc các chứng bệnh tim, ung thư, bệnh
run rẩy tay chân, bại liệt, bệnh cao áp huyết, bệnh
tiểu đường, bệnh kinh phong, v.v.
Mỡ có trong các đồ ăn bán
ở siêu thị như thịt heo, thịt ḅ, thịt gà,
phó mát (cheese), bơ, margarine, dầu bắp, dầu sunflower,
dầu safflower, dầu đậu phọng, trứng, hot
dogs, ham, bacon, sausage, bánh cookies, crackers, cakes, chips, donuts,
muffins, peanut butter, vegetable cooking oils, salad dressings, mayonnaise,
pizza,homomilk, thịt rán, thịt quay, v.v. Ăn nhiều những
thứ này cũng giống như ăn thuốc độc.
Thỉnh thoảng ăn một ít th́ không sao.
Việc nghiện thuốc lá hay x́
gà đă rước quân khủng bố “free radicals” xâm nhập
vào cơ thể để chúng tác hại ta. Có người
cho là thỉnh thoảng gặp bạn bè hay sau mỗi bữa
cơm, ta hút thuốc lá để gây hứng thú đều
không có hại mà c̣n là một điều hữu ích cho sức
khỏe tinh thần lẫn thể chất. Điều này
cũng có cái lư của nó. Tuy nhiên, khi đă hút thuốc,
người ta khó mà giữ được chừng mực
và sẽ nghiện lúc nào không biết. Việc uống
rượu cũng thế. Uống rượu có chừng
mực, mỗi ngày độ hai ly rượu vang đỏ
th́ thật là tuyệt vời cho sức khỏe. Tuy nhiên,
khi đă uống một ly rượu th́ ta dễ bị
lôi cuốn vào khoái lạc mà khó có thể ngừng được.
Những người làm chủ được ḿnh th́ ít mà
kẻ bị sa ngă lại nhiều. V́ thế, việc uống
rượu và hút thuốc, đối với nhiều
người, là một điều tai hại cho cơ thể
là vậy.
Các cuộc khảo cứu đă cho
biết rằng những người có thai mà hút thuốc
lá không những làm hại ḿnh mà c̣n hại cả đứa
trẻ sắp được sinh ra. Kết quả cuộc
khảo cứu về t́nh trạng đàn bà có thai trong thời
gian hút thuốc lá của Joseph Difranza thuộc tường
đại học University of Massachusetts Medical Centre và Robert
Lew thuộc nhà thương Brigham and Women's Hospital ở
Boston đă được công bố trên báo Pediatricts của
viện American Academy of Pediatrics, số tháng 4, 1996, với
các chi tiết sau:
Trong số những bà mẹ khi mang
thai mà hút thuốc lá th́ có 50 phần trăm cơ hội
sinh những đứa con mắc bệnh tŕ độn
(ngu ngốc, đần độn).
Trong số những bà mẹ khi mang
thai mà hút một bao thuốc lá mỗi ngày th́ có 85 phần
trăm cơ hội sinh con tŕ độn.
Theo The London Free Press, 21-03-97, một
cuộc khảo cứu do Laurence M. Galanti của Mont-Godinne
Uuniversty Hospital ở thành phố Namur thuộc Belgium (Bỉ)
đă khám phá ra rằng những trẻ sơ sinh do bà mẹ
nghiện thuốc lá sinh ra thường nhỏ bé hơn những đứa
trẻ khác, dễ bị bệnh phổi, và dễ bị
chết yểu. Máu của các trẻ này có số lượng
“nicotine” giống như lượng “nicotine” của người
lớn nghiện thuốc.
Theo báo The London Free Press, số ra
ngày 22-04-96, kết quả của cuộc nghiên cứu về
việc hút thuốc lá có liên quan tới các bệnh ung
thư do cơ quan American Health Foundation và trường đại
học University of Chicago phụ trách đă được
công bố vào ngày 21-4-96 tại buổi họp của
American Association for Cancer research ở Washington D.C.
Kết quả của cuộc nghiên
cứu này cho thấy rằng
trong máu của các bà mẹ hút thuốc đều có chất
“carcinogens,” một chất gây
bệnh ung thư. Chất “carcinogens”
cũng có trong tế bào ở đầu tử cung nữa.
Trong trường hợp các bà có thai, những tế bào của
bào thai cũng có chất “carcinogens.” Tóm lại, đàn bà hút
thuốc lá rất dễ bị ung thư tử cung.
Theo bản tin của The London Free
Press ngày 9-10-96, một cuộc nghiên cứu khác của chính
phủ Hoa Kỳ cũng cho thấy rằng nếu hút thuốc
lá một bao mỗi ngày, quí cụ tuổi từ 65 trở
lên có nguy cơ mù mắt v́ sự hút thuốc gây ra t́nh trạng
suy thoái vơng mạc và tác hại đến điểm vàng,
tức là phần cảm nhận ánh sáng trong mắt ở
phía đằng sau con ngươi. Hút thuốc lá c̣n làm giảm
lượng máu và giảm lượng khí ốx-xy
đưa lên nuôi mắt nữa. Những người hút
thuốc có nguy cơ đưa đến việc nghiện
rượu, một thứ thuốc độc nếu ta uống
quá độ.
b. Không Khí Ô Nhiễm
Không khí ô nhiễm ở ngoài trời
cũng như ở trong nhà, rất có hại cho cơ thể.
Trên báo The London Free Press, các số ra ngày 19-10-95, 25-9-96, và
17-12-1996, có đăng những bài nghiên cứu: “Bad Air
Gathers Indoors in Winter” của Marlene Habib, “Mouldy Homes May Be
Sickening” của Debora Van Brenk, và “Humidifiers Can Be Source of Many
Contaminants” của Pamela Phayerman th́ không khí trong nhà rất có
thể độc hại và gây ra nhiều bệnh hoạn,
nhất là về mùa đông.
Ta sống được là nhờ
có không khí trong lành để thở. Thời gian ta cần
không khí nhiều nhất để sống là thời gian ở
nhà. Không khí ở trong nhà, nhất là nhà ở Bắc Mỹ,
thường độc hại hơn không khí ở ngoài trời
từ hai tới năm lần. Chính v́ thế mà những
người già hay trẻ em thường hay bị bệnh,
có khi nguy đến tính mạng mà ít ai nghĩ tới những
điều này, ngay cả các bác sĩ gia đ́nh cũng
không ngờ tới.
Không khí trong nhà độc hại,
nhất là nhà ở Bắc Mỹ, là v́ nhà bí hơi, khói thuốc
lá, bụi bặm, các chất hóa học từ thuốc tẩy
trùng và lau chùi trong nhà bốc hơi, hơi đốt,
hơi mốc v́ sự ẩm thấp trong pḥng tắm, từ
các chậu cây cảnh và từ tầng hầm basement xông
lên, v.v. Chính máy làm ẩm không khí dùng trong nhà về mùa
đông như máy humidifiers cũng có thể là nguồn gốc
gây độc hại v́ nó tạo ra ẩm thấp và mốc
để nuôi sống những thứ nấm độc
trong nhà.
Người ta ví t́nh trạng nhà ở mà có mùi mốc meo (mould), nấm (fungus), vi khuẩn (bacteria) và ẩm thấp như “những quân ăn cắp sức khỏe con người.” Mới đầu chúng gây cho ta các