Diễn đàn Liên mạng Trí thức VN:
Tư liệu về nhà thơ
Trần Dần
* * *
Ông mới xuất hiện là một nhà thơ th́ cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Trở về Nam Định ông tham gia kháng chiến và đảm nhận công tác tuyên truyền. Sau khi Nam Định thất thủ, ông xung phong gia nhập bộ đội và được cử lên mặt trận Sơn Lạ ở đây, ông phụ trách điều khiển đoàn văn công, được các văn nghệ sĩ trong Trung đoàn rất quư mến và được kết nạp làm đảng viên. Nhưng là một văn nghệ sĩ, ông không chịu nổi sự chèn ép của các cán bộ chính trị cấp Trung đoàn, nên đến năm 1951, ông xin về Trung Ương. nhận công tác viết báo cho cục Quân Huấn .
Trong thời kỳ này, ngoài việc viết báo, ông conÀ phụ trách giảng về văn nghệ nhân dân và chính sách lănh đạo văn nghệ của Đảng đối với văn nghệ sĩ trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê b́nh là giảng sai đường lối của Đảng, ông tức ḿnh xin đi công tác tiều tuyến và được cử lên mặt trận Điện Biên Phủ. Xúc cảm trước sự tấn công ào ạt của quân đội kháng chiến vào thành lũy của Pháp, nhất là trước cái chết thê thảm của Tô Ngọc Vân, bạn đồng hành của ông. Trần Dần sáng tác cuốn Người Người Lớp Lớp. Nhờ cuốn sách này ông được Đảng yêu chuộng trở lại và năm 1954 được cử đi Trung quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim "Chiến thắng Điện Biên Phủ" là cuốn phim Việt Minh đóng lại trận Điện Biên Phủ do cán bộ Trung cộng sang quay và mang sang Tàu thu thanh .
Nhân chuyến du hành này, Trần Dần được tiếp xúc với nền văn hóa của Trung Cộng. Ông lấy làm thất vọng nên khi trở về, ông nói nhỏ với bạn bè : "Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc".
Cùng đi với ông sang Trung quốc có một cán bộ chính trị phụ trách về đường lối giải thích , nhưng tên cán bộ này mặc dầu dốt đặc về văn chương nhưng cũng cứ nhất định dùng quyền lực chính trị của ḿnh để sửa chữa từng câu, từng chữ của Trần Dần, mà có khi ngang nhiên đọc lời giải thích của ḿnh cho Trần Dần viết. Ông lấy làm bất măn, nên khi về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh và Đỗ Nhuận, cùng trong cảnh ngộ, viết kiến nghị lên cấp trên yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lănh vực văn nghệ .
Kiến nghị c̣n đang được cứu xét th́ xẩy ra một việc quan trọng hơn. Đó là việc Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của Đảng. Theo một đạo luật bất thành văn mà Đảng đă đặt ra, các đảng viên cấp xă phải báo cáo cho cấp trên biết trước mỗi khi dự định lấy vợ, lấy chồng ; các đảng viên huyện (trường hợp của Trần Dần) phải xin phép Đảng mới được cưới xin hoặc yêu đương, c̣n về phần các đảng viên cấp tỉnh trở lên th́ việc dựng vợ gả chồng là đo Đảng quyết định .
Trần Dần tuy là đảng viên ,nhưng vẫn giũ tính chất văn nghệ sĩ, không chịu nổi luyến ái quan Mác Xít. Hồi ở chiến khu bao nhiêu lần Đảng "xây dựng" cho ông với các nữ đồng chí , ông dều không chịu và khi ḥa b́nh trở lại, ông t́nh cờ gặp và mê ngay một thiếu nữ tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một ḿnh, v́ bố mẹ họ hàng di cư vào Nam không kịp mang theo .
Trần Dần xin phép Đảng để cưới người yêu, nhưng Đảng nhất định không cho v́ một lư do căn bản : người con gái đó theo đạo Thiên Chúạ Tuy vậy, Đảng không nêu lên lư do tôn giáo để từ chối mà chỉ giải thích rằng người con gái đó sống về tiền thuê nhà mà bố mẹ để lại nên thuộc vào thành phần bóc lột, và một đảng viên không thể lấy vợ giai cấp "địch".
Trần Dần không chịu cắt đứt t́nh yêu nên khuyên ư trung nhân mang nhà cửa bố mẹ để lại giao cho ủy ban quản trị tài sản của những người vắng mặt trông coi và thu hoa lợi; hai người đều cam chịu sống trong cơ cực để yêu thương nhaụ Đảng bèn rẽ duyên bằng cách điều động Trần Dần lên Việt Bắc công tác, nhưng Trần Dần lấy cớ ốm đau xin về Hà Nội nghỉ dài hạn và tự ư xin ra khỏi Đảng, ngang nhiên đến phố Sinh Từ sống với t́nh nhân không cần cưới xin. Đảng toan trừng trị, nhưng ngặt v́ lúc đó đang có phong trào di cư, nên không dám khủng bố bất cứ ai sợ làm náo động nhân tâm khiến cuộc di cư bành trướng thêm. Đảng bèn nuốt giận làm lành, chỉ gây dư luận là Trần Dần đă sa đọa, rơi vào hố tư sản phản động .
Nhưng sau khi đóng cửa Hải Pḥng, Trần Dần lại làm một việc táo bạo thứ hai là phê binÀh đả kích cuốn "Thơ Việt Bắc" của Tố Hữu, một thi sĩ giữ chức trung ương ủy viên, phụ trách lănh đạo văn nghệ. Tố Hữu liền ra lệnh bắt cóc Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc. Vợ Trần Dần lại sống bơ vơ giữa Hà Nội một lần nữa, hỏi thăm chồng ở đâu, không ai biết, vẫn thất nghiệp, lại thêm bụng mang dạ chửạ Bạn bè của Trần Dần phải chung tiền giúp đỡ và thay phiên đến thăm hỏi nâng đỡ tinh thần .
Tin Trần Dần bị bắt mang đi biệt tích lan ra khắp Hà Nội và gây dư luận sôi nổi trong giới trí thức kháng chiến. Để dẹp yên dư luận, Đảng bèn sửa sai bằng cách đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Đảng cũng gọi vợ Trần Dần đến cho công việc may vá cho Mậu Dịch .
Không được bao lâu, xẩy ra vụ Krushchev hạ bệ Stalin. Nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Đảng bằng cách xuất bản tập Giai Phẩm 1956 (sau này gọi là Giai phẩm mùa Xuân). Lúc này Trần Dần không có mặt ở Hà Nội, nhưng Hoàng Cầm là bạn thân, biết Trần Dần hồi 1954 có viết bài "Nhất định thắng" có giá trị , nên đến nhà bảo vợ Trần Dần đưa bản thảo và mang in trong tập Giai Phẩm .
Tờ tạp chí vừa in xong th́ bị tịch thu ngaỵ Đảng ngờ rằng Trần Dần đă bị nằm tù mà c̣n dám viết bài chống Đảng nên gọi Trần Dần về, mang ra đấu giữa một cuộc hội nghị của đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần vào tội phản động, lấy cớ là trong các bài thơ ông có dùng chữ "Người" viết hoa nên gán cho ông có ư đả kích cụ Hồ và ra lệnh tống giam vào nhà pha Hỏa-ḷ ở Hà Nộị Trần Dần uất ức quá dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết, sau này vẫn mang cái sẹo ở cổ .
Năm tháng sau, Việt cộng tuân theo chỉ thị của Đệ Tam Quôc' Tế phát động phong trào sửa sai . Giới trí thức được dịp phát động phong trào đấu tranh chống Đảng. Họ xuất bản tờ Giai Phẩm muà Thu và tờ Nhân Văn, lên tiếng phản đối vụ tịch thu tờ báo Giai Phẩm Mùa Xuân và việc khủng bố Trần Dần .
Cụ Phan Khôi có nêu hai vấn đề này trong bài "Phê b́nh lănh đạo Văn Nghệ" đăng trong Giai Phẩm mùa Thu và Hoàng Cầm viết một bài nhan đề "Con Người Trần Dần" đăng trong tờ Nhân Văn số đầụ Bị công kích không có thế đỡ, Đảng bèn thả Trần Dần về và phục hồi danh dự bằng cách ra lệnh cho Hội Văn Nghệ viết bản tự kiểm thảo đăng trên các báọ Nhóm Giai Phẩm bèn tái bản tờ Giai Phẩm mùa Xuân trong đó có bài thơ "Nhất Định Thắng" của Trần Dần .
Nhưng sau khi Nga Sô đàn áp cuộc khởi nghĩa Budapest th́ Việt cộng cũng đóng cửa tờ Nhân Văn và Giai Phẩm. Một lần nữa, Trần Dần lại bị quy là phản động và bị "treo gị" không được viết văn. Nhưng đến tháng cuối năm 1957, nhân báo Văn trở lại chống Đảng, Trần Dần gửi đăng một bài thơ nhan đề là "Hăy Đi Măi" nói lên ư chí cương quyết đấu tranh đ̣i tự do đến cùng .
Về thơ, ông c̣n sáng tác những bài :
"Nói thật" trong đó ông lư luận rằng chỉ v́ cán bộ hèn nhát không dám nói thật với Đảng nên mới xảy ra vụ "sai lầm" trong cải cách ruộng đất.
"Nhân Văn làm lớn con người" trong đó ông đề cao nhân văn .
"Một bài thơ chưa có đề" trong đó ông ám chỉ Tố Hữu là nhà thơ "ti tỉ đờn bầu"
Về truyện, ông viết :
"Chú bé làm văn" để chỉ trích nền giáo dục Cộng sản chuyên môn tập cho trẻ em nói dối từ thuở bé để sau này nói dối thuê cho Đảng .
"Mâu thuẫn với cả nước" tả một nhạc sĩ bất tài (ám chỉ Lương Ngọc Trác) dùng thế lực Đảng, quy cho một nhạc sĩ có tài hơn ḿnh vào tội "mâu thuẫn với cả nước".
"Lăo Rồng" tả một nông dân hiền lành bị bọn "lư trưởng mới" chà đạp .
Nhưng đặc biệt hơn cả là truyện Anh C̣ Lắm, tả sự khổ cực của nông dân trong cải cách ruộng đất. Trong đó có đoạn như sau :
"Tôi đi thẳng vào nhà C̣ Lắm. Vắng cả, nhà chả có ai, nhưng có tiếng trẻ khóc. Ba gian nhà nhỏ vẫn một cái giường, một cái chơng, có thêm một lá cờ đỏ rắt mái nhà rủ trước mặt bức ảnh Hồ chủ tịch. Một đứa bé con độ lên hai ḅ giữa nhà, giời rét mà độc một manh áo nâu, c̣n cởi chuồng, chân tay lắm mụn, bôi phẩm xanh lè cả ngườị Thấy tôi nó càng khóc, giơ tay quẹt má. Tôi nh́n: Tay nó có cái ǵ vàng vàng ? à ra cứt, nó ỉa một đống c̣n kia, cổ chân nó lại buộc một cái dây bằng vải khá dài, một đầu dây buộc vào cột nhà, chắc hẳn mẹ nó buộc nó vào dây cho nó chơi một ḿnh ."
Trừ có hai bài thơ Nhất Định Thắng và Hăy Đi Măi ông kư tên thật, c̣n tất cả những bài khác đều kư bằng bí danh, sau này bị tra khảo trong tù ông mới nhận là chính ông viết .
Sau đây chúng tôi chỉ trích hai bài : Nhất Định Thắng và Hăy Đi Măi vừa điển h́nh cho lối thơ của ông, vừa nói lên tâm sự của thế hệ mới ở Bắc Việt :
NHấT ĐịNH THắNG
HăY ĐI MăI
Bài thơ này đă gây nên cuộc đấu tố tác giả, khiến tác giả phải cứa cổ tự tử.
V́ vậy nên tuy dài, chúng tôi cũng đăng trọn bài . Đại ư của tác giả là nêu sự đói rét của đất Bắc và nỗi u buồn trong ḷng người phương Bắc hiện naỵ
Tôi ở phố Sinh Từ :
Hai
người
Một
gian nhà chật.
Rất
yêu nhau sao cuộc sống không vui ?
Tổ quốc
hôm nay
tuy gọi
sống ḥa b́nh
Nhưng
mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta
c̣n muôn việc rối tinh ...
Chúng ta
Ngày làm việc,
đêm th́ lo đẫy giấc
Vợ
con đau th́ rối ruột thuốc men
Khi mảng
vui --- khi chợt nhớ -- chợt quên
Trăm
cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn
làm ăn chiu chắt .
Ta biết
đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng c̣n
đương bày kế hại đời ta ?
Tôi đi
giữa trời mưa đất Bắc
Đất
hôm nay tầm tă mưa phùn
Bỗng
nhói ngang lưng , máu rỏ xuống bùn
Lưng
tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái
lưỡi dao cùn !
Không
đứt được --- mà đau !
Chúng
định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả
nước ! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hăy nh́n
xem : có phải vết dao ?
Không
đứt được mà đau !
Lưng Tổ
quốc hôm nay rớm máu
Tôi đă
sống ră rời cân năo
Quăng thời
gian nhung nhức chuyện đi
Những
con mưa rơi măi tối xầm
Họ lếch
thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đă
trở nên người ôm giận
Tôi
đem thân làm ụ cản đường đi .
- Dừng
lại !
--- Đi
đâu ?
----- Làm
ǵ ?
Họ
kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu
Cha, thiếu Chúa , thiếu vân vân
Có cả
anh
--- ở
đây
----- Khát
gió thèm mây ...
-------- Ô
hay !
Trời
của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng
trời ta sao bỏ nó mà đi ?
Sau
đám mây kia
là cả
miền
Sao nỡ
tưởng là non bồng củ a Mỹ !
Tôi muốn
khóc giữ từng em bé
Bỏ
tôi ư ? --- từng vạt áo --- Gót chân
Tôi muốn
kêu lên --- những tiếng cọc cằn ...
--- Không !
Hăy ở lại !
Mảnh
đất ta hôm nay dù tối
Cũng
c̣n hơn
......non bồng
Mỹ triệu lần ...
Mảnh
đất dễ mà quên ?
Hỡi bạn
đi
Thiếu
ǵ ư ? Sao chẳng nói thực thà ?
Chỉ
là :
--- thiếu
quả tim , bộ óc !
Những
lời nói sắp thành nói cục
Nhưng
bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức
nở giữa trời mưa băo .
Họ vẫn
ra đi .
---
Nhưng sao bước ră rời ?
Sao họ
khóc ?
Họ có
ǵ thất vọng ?
Đất
níu chân đi .
gió cản
áo bay về
Xa đất
Bắc tưởng như rời cơi sống .
Tưởng
như đây là phút cuối cùng
Răng rối
lại : --- mỗi lùm cây --- hốc đá
--- Mỗi
căn vườn --- gốc vả --- cây sung
Không nói
được chỉ c̣n nức nở
Trắng
con người nh́n lại đất trời
Nh́n
cơn nắng lụi, nh́n hạt mưa sa
Nh́n con
đuờng cũ, nh́n ngôi sao mờ
Ôi đất
ấy --- quên làm sao được ?
Quên sao
nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay
đây mưa gió dập vùi
----
Mưa đổ măi lên người xa đất Bắc ...
Ai dẫn
họ đi ?
------ Ai ?
Dẫn
đi đâu ? ------ mà họ khóc măi thôi !
Trời
vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc
Tôi cúi xuống
--- quỳ xin mưa băo
Chớ
đổ thêm lên đầu họ
--- khổ
nhiều rồi !
Họ xấu
số --- chớ hành thêm họ nữa
Vườn
ruộng hoang sơ --- Cửa nhà vắng chủ
Miền
Họ
đă đi nhưng chút lại tâm hồn
Ôi đất
Bắc ! Hăy giữ ǵn cho họ .
Tôi ở
phố Sinh Từ
Những
ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước
đi
... không
thấy phố
......
không thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa
...... trên
mầu cờ đỏ
Gặp
em trong mưa
Em đi
t́m việc
Mỗi
ngày đi lại cúi đầu về
--- Anh ạ
!
...... họ
vẫn bảo chờ ...
Tôi không gặn
hỏi, nói ǵ ư ?
Trời
mưa , trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống
bằng tương lai
Ngày và
đêm mhư lũ trẻ mồ côi
Lũ
lượt dắt nhau đi buồn bă
Em đi
... trong
mưa
...... cuối
đầu
............
nghiêng vai
Người
con gái mới mười chín tuổi
Khổ
thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
... đè
lên
...... số
phận
............
từng người
Em cúi
đầu đi, mưa rơi
Những
ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước
đi
... không
thấy phố
......
không thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa
...... trên
mầu cờ đỏ
Đất
nước khó khăn này
..... sao
không thấm được vào Thơ ?
Những
tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ
hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng
mà sách --- h́nh như khá chạy
à quyển
kia của bạn này --- bạn ấy
Quyển
của tôi tư lự , nét đăm đăm
Nó
đang mơ : --- nếu thêm cả miền
Số
độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đă
biến thành người định kiến
Tôi ước
ao tất cả mọi người ta
Đ̣i thống
nhất, phải đ̣i từ việc nhỏ
--- từ
cái ăn ... cái ngủ ... chuyện riêng tư
------ từ
suy nghĩ ... nựng con ... và tán vợ .
Trời
mưa măi lây dây đường phố
Về Bắc
Tôi vẫn
quyết Thơ phải khua băo gió
Nhưng
hôm nay
.....tôi bỗng
cúi đầu
Thơ nó
đi đâu ?
......Sao
những vần thơ
Chúng không
chuyển, không xoay trời đất ?
Sao chúng
không chắp được cơi bờ ?
Non nước
sụt sùi mưa
Tôi muốn
bỏ thơ
........
làm việc khác
Nhưng
hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
....... tôi
làm thơ chính trị
Những
ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước
đi
......
không thấy phố
............
không thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa
...... trên
mầu cờ đỏ
Em ơi
! ---- ta ở phố Sinh Từ
Em
đương có chuyện ǵ vui hử
à cái tin
trên báo --- ừ em ạ
Chúng
đang phải dậm chân đấm ngực !
Vượt
qua đầu chúng nó.
............
mọi thứ hàng
Những
tấn gạo vẫn vượt đi
Những
tấn thơ, tài liệu
Vẫn
xéo qua đầu chúng, giới danh ǵ ?
ư muốn
dân ta
............
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ
chúng mà xóa nḥa giới tuyến
Dân ta muốn
trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời
mưa to lụt cả gian nhà
Ôm tất
cả che mưa cản gió
Con chó mực
nghe mưa là rú
Tiếng
nó lâu nay như khản em a
Thương
nó nhỉ --- nó gầy --- lông xấu quá
Nó thiếu
ăn --- Hay là giết đi ư ?
Nó đỡ
khổ --- Cả em đỡ khổ .
Em
thương nó --- ừ thôi chuyện đó
Nhưng
hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đă
biến thành người định kiến
Những
ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước
đi
......
không thấy phố
..................
không thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa
..................
trên mầu cờ đỏ
Tôi đi
giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng
nghe những tiếng th́ thầm
Tiếng
người nói xen tiếng người ầm ả .
------
Chúng phá hiệp thương
------------
Liệu có hiệp thương
------ Liệu
có tuyển cử
------ Liệu
tổng hay chẳng tổng
------ Liệu
đúng kỳ ? hay chậm vài năm ?
Những
câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi Xưa
nay Người vẫn thiếu tin Người
Người
vẫn thường kinh hoảng trước Tương
lai
Ngươi
quên mất Mỹ là sư tử giấy .
Người
vẫn vội --- Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan
người ta chưa phải đúng công nông
Người
chửa có dạ lim trí sắt
Người
mở to đôi mắt mà trông !
A tiếng
kèn vang
............
quân đội anh hùng
Biển
súng
...... rừng
lê
............
bạt ngàn con mắt
Quân ta
đi tập trận về qua
Bóng cờ
bay đỏ phố đỏ nhà ...
Lá cờ
ấy là cờ bách thắng
Đoàn
quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng
năm đói rét nhọc nhằn
Từ
đất dấy lên
...... là
quân vô sản
Mỗi
bước đi lại một bước trưởng
thành
Thắng
được Chiến tranh
............
Giữ được Ḥa B́nh
Giặc
cũ chết --- lại lo giặc mới
Đoàn
quân ấy kẻ thù sợ hăi
Chưa
bao giờ mất bụng dân yêu
Dân ta
ơi ! Chiêm nghiệm đă nhiều
Ai có Lư ?
và ai có Lực ?
Tôi biết
rơ đoàn quân sung sức ấy
Biết
nhân dân
...... Biết
Tổ quốc Việt
Những
con người từ ức triệu năm nay
............
Không biết nhục
............
Không biết thua
....................................
Không biết sợ !
Hôm nay
Cả
nước chỉ có một lời hô :
THốNG
NHấT
Chúng ta
tin khẩu hiệu ta đ̣i
--- Giả
miền
....................................
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một
tiếng --- bỗng mầu trời rơi xuống
Vài ba tia
máu đó rớt vào tôi
Dân ta
ơi !
Những
tiếng ta ḥ
Có sức
đâm trời chảy máu
Không
địch nào cưỡng nổi ư ta
Hiền
hậu lắm --- Nhưng mà đi cả quyết ...
Hôm nay
Những
vần thơ tôi viết
Đă giống
lưỡi lê : đâm
...... Giống
viên đạn : xé
...... Giống
băo mưa : gào
...... Giống
t́nh yêu : thắm
Tôi
thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả
nước đă bầu tôi toàn phiếu
Tôi là
người vô địch của ḷng tin .
Sao bỗng
đêm nay ,
............
tôi cúi mặt trước đèn ?
Gian nhà vắng
--- chuột đêm nó rúc .
Biết
bao nhiêu lo lắng hiện h́nh ra .
Hừ !
Chúng nó đă biến thành tảng đá
..............................
chặn đường ta !
Em ơi
thế ra
Người
tin tưởng nhất như anh
........................
vẫn có phút giây ngờ vực
Ai có lư ?
và ai có lực ?
Ai người
tin ? Ai kẻ ngă ḷng tin ?
Em ơi
Cuộc
đấu tranh đây
............
cả nước
..............................
cả hoàn cầu
Cả mỗi
người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn
máu, có sót thương lao lực
Anh gạch
xóa tranh thơ hằn nét mực
Bỗng
mặt anh nh́n thấy ! lạ lùng thay !
Tảng
đá chặn đường này !
Muôn triệu
con người
..........................................
muôn triệu bàn tay
Bật cả
máu ẩy đá lăn xuống vực !
Anh đă
nghĩ : Không có con đường nào khác
Đem
ngă ḷng ra
..............................
mà thống nhất Bắc
Không không
!
Đem sức
gân ra !
Em ơi
em !
Cái này
đỏ lắm , gọi là TIM
Anh cho cuộc
đấu tranh giành THốNG-NHấ T
Bài
thơ này lúc đầu lấy nhan đề là "Bài
thơ Thống Nhất " và chỉ có đến đây
là hết. Hoàng Cầm khuyên Trần Dần nên làm thêm một
đoạn nữa để "giữ vững lập
trường" mới có thể xuất bản
được. V́ vậy nên mới có đoạn văn
sau này và bài thơ cũng đổi nhan đề là "Nhất
định thắng".
Hôm nay
Trời
đă thôi mưa thôi gió
Nắng
lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ
mọi buồng tim lá phổi
Em ơi
đếm thử bao nhiêu ngày mưa !
Bây giờ
Em khuân
đồ đạc ra phơi
Em nhớ
đừng quên
Em khuân tất
cả tim gan chúng ḿnh phơi nắng hết
Em nh́n cao
tít trời xanh
Dưới
phố bao nhiêu cờ đỏ !
Hôm nay em
đă có việc làm
Lương
ít --- Sống c̣n khó khăn
Cũng
là may ...
Chính phủ
muôn lo ngh́n lắng
Thực
có tài đuổi băo xua mưa, không th́ c̣n khổ
Em treo cờ
đỏ đầu nhà
Lá cờ
trừ ma
Xua
được bóng đen chúng nó !
Những
vết thương kháng chiến đỏ ḷm
Đă mím
miệng, lên da lên thịt
Tôi bỗng
nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng
đốt phố Ga-li-ê-ni
....................................
và nhiều phố khác .
Anh đă
sống ở Sài-g̣n thuở trước
Cảnh
miền
Chúng
đốt tận đâu
....................................
mà lửa xém tim ḿnh
Tim nó bị
đen thui một nửa
Từ dạo
ấy
...................
mà em chẳng rơ .
--- Em hăy
đỡ cho anh khỏi ngă
Đứng
đây
Một
lúc !
Cờ
bay
............
đỏ phố
........................
đỏ nhà
Màu cờ
kia là thang thuốc chữa cho anh
Ai thắng
ai thua ?
Ai có lư ?
và ai có lực ?
Em ơi
Hôm nay
............
trời xanh
........................
xanh đục
Nắng
lên
............
đỏ phố
........................
đỏ cờ
Cuồn
cuộn mít tinh
Những
ngày thương xót đă lùi xa
Ḥa b́nh
............
thêm vững
Anh bước
đi
............
đă thấy phố thấy nhà
Không thấy
mưa sa
Chỉ
thấy nắng lên
............
trên màu cờ đỏ .
Ta ở
phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
............
đóng cửa
Cả
nhà ra phố
........................
mít tinh
Vung cờ
đỏ
............
hát ḥ
........................
vỡ phổi .
Hỡi
những người
............
thành phố
........................
thôn quê
Đói no
lành rách
Người
đang vui
Người
sống đang buồn
Tất cả
!
............
Ra đường !
Đi !
.......
hàng đoàn
........................
hàng đoàn
Đ̣i lấy
tương lai :
ḤA B́NH
.....................
THốNG NHấT
................................................
ĐộC LậP
........................................................................
DÂN CHủ
Đó là
tim
..................
là máu đời ḿnh
Là cơm
áo ! Là ái t́nh
Nhất
định thắng
.........................................................................
TRầN DầN
.G. --- Ngụ
ư của tác giả trong bài này là kêu gọi những người
yêu chuộng tự do
hăy tranh
đấu đến cùng, bất chấp mọi sự
đe dọạ
Khi trái
đất c̣n đeo bom
...........................................
trước ngực
thắt
lưng
................
c̣n lựu đạn, bao xe : ---
Khi bạo
lực c̣n khua
..............................
môi mơm mốc x́ ,
khẩu
đại bác mỏi đừ
..............................
vẫn sủa ; ----
Khi bóng tối
...................
c̣n đau như maư chém
những
lời ca đứt cổ
........................................
bị bêu đầu
Lũ
đao phủ tập trung
....................................
h́nh cụ
mặt
trời lên
....................
phải mọc giữa rừng gươm ; ---
Khi thế kỷ c̣n rung
................................ chuông lừa bịp .
Những canh gà
........................... báo trượt rạng đông .
Con rắn lưỡi cắng người như cắn ngóe : ----
Khi xe tăng
.................. chửa đi cấy đi cày ,
như
...... một lũ tội nhân cần cải tạo ; ---
Khi
...... con tḥ ḷ ngày đêm hai mặt đói meo ,
c̣n quay tít
...................... trên kiếp người hạ giá ; ---
Những khi ấy
.................. sẵn sàng
.................................... nổi giận,
loài người
.................. c̣n tổ chức nhau đi .
Hăy đi măi như người
................................................ cộng sản
có thể mỏi mọi điều
.................................... không mỏi tấn công !
Phải làm lại chúng ta, tất cả ---
.................................... không tha ,
để đừng có một ai lần lữa,
khi nào
..................chân lư gọi tên đi ,
Hăy đi măi ! ---
.................. dù mưa băm nát mặt
Sương rơi, hơn đạn xưa
.................................... đau đầu .
Dù bốn mùa
.................. nhung nhức nắng mưa
mùa băo tuyết thế chân
................................. muà gió độc .
Hăy đi măi ! ---
..................... dù mưa đông phục kích
hay
...... lửa hè đánh trộm sau lưng
Dù những đêm
.................. buồn như sa mạc hoang vu
Đoàn du mục tủi thân
.................................... vùi băi cát.
Dù
...... những ngày, mũi kiếm heo may
đi hành hạ
.................. những tâm tư trằn trọc
Hăy đi măi ! ---
..................... Dù trên biển cả
sống như người vật vă
.......................................... khắp đại dương .
Dù những con tầu
................................... bỗng nhớ bến b́nh yên .
c̣i rúc măi những tiếng kêu rùng rợn
Hăy đi măi ! ---
..................... Dù khi cần thiết
người ta cần đói khát
................................... vượt b́nh xa .
Ta bỗng có thể nhịn lâu
.......................................... hơn cả lạc đà .
đi
..... đến tận những kinh thành no ấm .
Hăy đi măi ! ---
..................... Dù có phen chót ngă
Hăy bó đôi chân lầm lỡ
..........................................
mà đi .
Hăy tin chắc
.....................
rồi ta
...........................
xứng đáng
một
ṿng hoa đỏ nhất
........................................
phủ quan tài
Tôi chửa
có khi nào quên táo bạo
chửa
khi nào quên hát
................................
quên đau .
Tôi yêu
đất mẹ đây ---
.................................
có cỏ hoa làm chứng
Tôi yêu chủ
nghĩa này
.................................
cờ đỏ căi cho tôi .
Nhưng
.........
chẳng thể rúc kèn củ rích ,
vác loa mồm
kêu :
...........................
"Hiện tại rất thiên đường !"
Không !
Thiên
đường chúng ta
.....................
là nối đuôi nhau
..........................................
vô tận triệu Thiên đường .
Đi măi
...... chẳng
bao giờ thỏa .
Tôi có thể
mắc nhiều
............................
tội lỗi,
chẳng
bao giờ quá ngu đi
..........................................
mắc tội : nằm !
Han rĩ
.....................
khac' ǵ cái chết ?
Chết
con tim chẳng c̣n dám đau thương .
Chết
khối óc
.....................
chẳng c̣n dám nghĩ !
Nếu
..... tôi
chửa đến ngày thổ huyết
phổi
tôi c̣n xâu xé măi
..........................................
lời thơ .
Tôi có thể
mặc thây
......................................
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ
tiếng chửi : ---
.............................."Sống
không sáng tạo !"
Nếu
tôi bị gió sương
.......................................
đầu độc ,
một
hôm nào ngă xuống
..........................................
giữa đường đi
tôi sẽ
ngă
.....................
như người lính trận
hai bàn tay
chết cứng
...........................
vẫn ôm cờ .
Nếu vầng
nhật
........................
thui tôi làm bụi,
nắng
oan khiên đốt lại
.......................................
làm tro
Bụi
tôi sẽ
...................
cùng ta ---
.....................................
vẫn sống
vẫn
chia nhau gió bấc
......................................
xẻ mưa phùn .
Nếu dĩ
văng đè trên lưng
............................................
hiện tại
nặng
nề
............
hàng tạ đắng cay ,
tôi sẽ
nổ tung
.....................
ngàn kho đạn tiếng kêu
tan xác
pháo
..................
mọi cái ǵ cũ rích,
Nếu
.... hàm
răng chuột nhắt của gia đ́nh
gậm
nhấm
cả
t́nh yêu cùng dự định
tôi sẽ
biến thân tôi thành
thép nguội
làm thất
bại
mọi thứ rũa đă quen rũa
người
tṛn trặn
quá ḥn bi .
ở
trong tôi
.....................
nếu c̣n sức mạnh ǵ
chính là sức
những ai
..........................................
nghèo khổ nhất .
những
ai
................
lao lực nhất ---
...............................................
địa cầu ta .
Tôi vẫn
nâng chiếc đầu lâu
..........................................
nặng nề sáng tạo
như
.... nâng một
viễn vọng đài
trên cuộc
sống hàng ngày
..........................................
nhí nhách
Tôi vẫn
cháy
.....................
ngọn hải đăng con mắt
ở
trong biển sống
.....................................
từng đêm .
Tôi vẫn
đóng những câu thơ
..........................................
như người thợ
..................................................................
đóng tàu ,
chở
khách
..................
đi về phía trước ,
nói
.... loài
người ---
.....................
đă biết sống chung nhau .
Nói
..... tất
cả ---
.....................
chẳng c̣n ai bần tiện ,
chẳng
c̣n lo
.....................
cơm áo
.......................................
nợ nần .
_________________________________________________________
=======
HOàNG PHẹ
NG̉C TưấNG
Gặp gỡ
Trần Dần
ĐẩI
THOạI MấT NGẹ
Tháng 5,
anh Trần Dần vô chơi Huế, cùng đi với Phùng
Quán. Trần Dần đă đến Huế lấn đầu
tiên vào năm 1946, lúc bấy giờ anh mới 21 tuổi;
đây là chuyến giang hồ dành riêng cho t́nh yêu, với một
người đẹp nay đă biệt tích trong đời.
Vừa
đến Huế, trong một tuần lễ Trần Dần
đă tiếp xúc với công chúng hai lần, ở Hội
Văn Học Nghệ Thuật B́nh Trị Thiên và ở Nhà
Văn Hoá Thanh Niên Thành Đoàn Huế. "ở cả hai
nơi đó", Trần Dần thú nhận, "lúc đầu
tôi cảm thấy rét v́ phải đối diện với
đám đông, sau đó lại quá xúc động v́ tính chất
thẳng thắn của những câu hỏi đặt ra
cho tôi. Cả hai cuộc đối thoại sau đó đều
làm tôi mất ngủ." Tôi để ư thấy trong lúc nói
chuyện Trần Dần thường dừng lại đột
ngột và gơ "cộp... cộp" vào micrô, dù nó vẫn
hoạt động tốt: hoá ra là từ ba chục năm
nay anh không hế biết tới cái micrô, và bây giờ thỉnh
thoảng anh chợt thấy im bặt, không nghe được
tiếng nói của ḿnh.
Lần
thứ ba trong tuần, chúng tôi gặp lại Trần Dần
trong một cuộc rượu bảy tám anh em văn
chương ở nhà Ngô Minh nới dốc Bến Ngự,
gần khu vườn cũ của Phan bội Châu. Chúng tôi
quyết định tiếp tục cuộc đối thoại
với thi sĩ, trên những vấn đề gợi mở
từ hai cuộc gặp gỡ trước. Sau đây là
câu hỏi của từng người và ư kiến riêng của
Trần Dần, dưới ánh đèn dầu tù mù (v́ cúp
điện) tôi ghi lại.
Hoàng Phủ
Ngọc Tường (mở đầu): Thưa anh, con
người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại
càng phải có nhân cách. Theo anh nhân cách nhà văn quan trọng
nhất là ở chỗ nào?
Trần
Dần: Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tôi
không thấy mô-đen nào cho văn cách cả. Văn cách
không chung cho ai. Văn là ḿnh, không thằng nào giống thằng
nào. Nó phải tự khẳng định cái tôi của nó,
không lùi một ly. Hồ xuân Hương, Cao bá Quát là chính
ḿnh, không lùi một ly.
Nguyễn
quang Lập: Xin hỏi thật anh: qua thời Nhân Văn,
anh tự thấy anh được cái ǵ nhiều nhất?
Trần
Dần: Được cái hoạn nạn. (Thi sĩ chợt
im lặng, và tất cả chúng tôi cùng im lặng trong nỗi
xúc động. Rồi anh tiếp:) Do được cái hoạn
nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm
trong ba mươi năm. (Tôi xin ghi lại ở đây một
số tác phẩm của Trần Dần trong yếu mục
sáng tác của tác giả: Chiều mưa trước cửa
(1943), Hồn xanh dị kỳ (1944), Dạ đài (1945), vẽ
và viết báo Sông Đà, Giải Phóng Tây Bắc, Giải
Phóng Biên Giới vv... (1946-1949), Tiếng trống
tương lai (1954), Người người lớp lớp
(1954), Nhất định thắng, Cách mạng tháng Tám
(1955), Bài thơ Việt Bắc (1957), 17 t́nh ca (1957-1958, nằm),
Cổng tỉnh (1960, thi tập, nằm)(5), Đêm núm sen
(1961, tiểu thuyết, nằm), Những ngă tư và những
cột đèn (1964, tiểu thuyết, nằm), Mùa sạch
(1964-1965, thi tập, nằm)(6), Một ngày Cẩm Phả (1965,
tiểu thuyết, nằm), Con trắng (1967, thơ hồi
kư, nằm), 177 cảnh (1968, hùng ca lụa, nằm), Động
đất tâm thần (1974), Thơ không lời- Mây không lời
(1978), Thiên thanh- 77- Ngày ngày (bộ tam, 1979), 36- Thở dài-
Tư Mă dâng sao (bộ tam, 1980), Thơ mini (1987)...)
Nguyễn
quang Lập (tiếp): Có dư luận cho rằng các anh làm
dự báo tốt. Nhưng văn cách th́ các anh chưa thành
công, theo tôi. V́ bạn đọc chưa hâm mộ như
trường hợp Bác sĩ Jivagô.
Trần
Dần (một chân bị liệt cơ lại phải ngồi
trên đ̣n, đứng dậy vịn ghế cho đỡ
mỏi): Ngay độc giả của ḿnh cũng chưa biết
ḿnh muốn cái ǵ. Họ nói thế, nhưng họ xác định
bằng cái ǵ? Tiền chiến chỉ quan trọng khi họ
chưa biết chúng tôi là ai. Tôi chưa có độc giả.
Tác phẩm của tôi sẽ đảm bảo công chúng của
tôi.
Vĩnh
Nguyên: Nhật Bản có thơ haiku, anh có thơ mini ngắn
hơn. Có người nói thơ haiku ngắn nhưng dễ
hiểu. Vậy thơ mini định bắt người
đọc tới đâu?
(Đêm
trước ở Hội Văn Nghệ, Phùng Quán đă có dịp
giới thiệu thơ mini của Trần Dần, bài chỉ
có một, hai câu. Thí dụ như thế này: Mưa rơi
không cần phiên dịch, hoặc Mỗi người một
vụ án- Mỗi người chôn sống một chân mây, vân
vân.)
Trần
Dần (ừ ừ... ngẫm nghĩ): Thơ haiku mọi
người biết rồi. Thơ mini nay ai cũng chưa
biết. Chính tôi cũng chưa biết nó là ǵ. Nên không thể
so sánh. (Một lát, tiếp). Chống công thức là đi
t́m cái chưa biết. Cái mới là cái chưa biết. Tôi
đi t́m cái mới nên tôi cũng chưa biết thơ mini
là ǵ.
Ngô Minh: Một
điều anh em rất trăn trở, nhân thơ mini của
anh Trần Dần. Ḿnh muốn chữ cho đắt cho hay
th́ thơ lại mất đi cái lửa. Chữ trong
thơ yêu cầu rất cô. Nếu không có lửa th́ thơ
không xúc động, nếu viết theo t́nh th́ chữ lại
dàn trải quá.
Nguyễn
quang Lập (bổ sung): Nếu chỉ có chữ hay th́ chỉ
là một bức tranh đẹp anh tŕnh bày bằng chữ.
Có lẽ đúng như thế.
Trần
Dần: Nó mâu thuẫn nhau rất dữ, cái biết rồi
là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Cái chưa biết
là cái thăm thẳm. Anh làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử
chưa phải là thơ, nghịc lư như Lăo Tử
chưa phải là thơ. Nhảy qua bóng ḿnh mới là
thơ. Ḿnh chưa hiểu thơ, v́ khó mà nhảy qua bóng của
ḿnh.
Hoàng Phủ
Ngọc Tường : Lăo Tử nói: "Vô danh thiên địa
chi thủy- Hữu danh vạn vật chi mẫu."(Vô danh
là khởi đầu của trời đất - Hữu
danh là mẹ của vạn vật) Như thế có ǵ khác với
thơ mini không?
Trần
Dần: Đó là triết học. Triết học cũng là
thăm thẳm.
Nguyễn
quang Lập: Lúc năy anh Dần nói sở dĩ vậy là v́ anh
chưa có độc giả. Nhưng thời đó các anh có
độc giả, ai cũng từng biết Người
người lớp lớp, Vượt Côn Đảo, vv...
Tôi xin hỏi: nhiều người nói, nếu in lại những
tác phẩm đó th́ độc giả ít dần đi. Vậy
là văn cách chưa đủ sống với thời gian.
Anh Dần nghĩ sao?
Trần
Dần: Thời đó là độc giả tiền chiến.
Chúng tôi cướp độc giả tiền chiến và
sau đó họ cấm chúng tôi, nên chúng tôi chưa kịp có
độc giả. Bây giờ chúng tôi sẽ phải chiếm
lại độc giả. Chúng tôi đă ba mươi
năm khuất bóng.
Ngô Minh:
Ba mươi năm trước các anh có độc giả.
Rồi im bặt. Ba mươi năm sau anh lại ra, liệu
có độc giả hay không?
Trần
Dần: Chúng tôi sốt ruột in, tôi mong in để xem. Tốc
độ bây giờ nhanh lắm, ba mươi năm ba thế
hệ, chúng tôi chỉ là một nhịp cầu để tới
thế hệ mới. Đó là một thách thức. Aragông
đi măi với thế hệ trẻ. Chúng tôi cũng hy vọng
như vậy.
Ngô Minh:
Đọc lại Vượt Côn Đảo của Phùng
Quán, thấy lư tưởng cao lớn, nhưng văn cách
th́ thế hệ trẻ bây giờ lớn hơn nhiều.
Văn cách Vượt Côn Đảo rất vỡ ḷng, dù
tôi rất kính trọng về lư tưởng. Nguyễn quang
Lập chẳng hạn, bây giờ, văn cách lớn
hơn nhiều...
Phùng Quán:
Nếu Lập nó chỉ viết bằng tôi th́ tôi phải
đập cho nó vỡ mật...
Hoàng Phủ
Ngọc Tường: Giá như Truyện Kiều vừa mới
được viết xong bây giờ, do một tác giả
trẻ nào đó ở trường Nguyễn Du của Hội
Nhà Văn đem nộp bản thảo cho nhà Tác Phẩm Mới.
Liệu người ta có thèm in hay không?
Phùng Quán:
Đúng quá. Bây giờ phải viết hay hơn Nguyễn Du
chứ!
Hoàng Phủ
Ngọc Tường: Không thể viết hay hơn Nguyễn
Du nổi. Vấn đề là phải viết khác Nguyễn
Du.
Trần
Dần: Thế giới bây giờ mong nếu anh có
được một độc giả là sướng rồi,
được hai ba đọc là may quá.
Nguyễn
quang Lập: "Tôi chỉ viết cho những người
bằng vai", anh Trần Dần đă có lần nói
như thế. Vậy có phải anh chủ trương nghệ
thuật phi giao tiếp, hoặc nghệ thuật dành cho những
người đặc tuyển hay không?
Trần
Dần: Không. Nhưng quần chúng văn học của anh
như thế nào th́ là do anh tạo ra. Do đó, tôi cho rằng,
tôi viết cho những người bằng vai.
Nguyễn
quang Lập: Krapchenkô có nói rằng không nên đánh đồng
tính dễ hiểu với sự tầm thường;
nhưng tính dễ hiểu cũng là một đặc
trưng của văn học. Anh nghĩ thế nào về
điều đó.
Trần
Dần: Tôi không coi Krapchenkô là cái ǵ cả. Tất cả mọi
giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu,
trượt băng nghệ thuật cũng khó hiểu.
Ngô Minh:
Độc giả ở Hội hỏi anh: thế giới
anh thích ai nhất? Tiền chiến ai nhất? Thời anh,
anh nể ai nhất? Sau anh, anh đọc ai?
Trần
Dần: Thế giới nhiều lắm nhưng tôi nói về
văn học Pháp. Xuất phát tôi yêu Mallarmé, Baudelaire rồi
nhất là Rimbaud. Tôi tiếp tục đọc, nhưng cái
gốc là ở phía trước. Ḍng Rabelais tiếp tục
cho đến bây giờ là Céline, hồ sơ đen số
một của Liên Xô thời Stalin. Céline là tác giả của
tiểu thuyết Đi đến tận cùng đêm.
Tiền
chiến Việt
Thế hệ
trẻ à? Tôi cứ đợi măi. Nó bị trong ṿng vây của
văn chương cung đ́nh, tôi sốt ruột đợi
lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn
tôi, như chúng tôi đă chôn tiền chiến.
Hoàng Phủ
Ngọc Tường: Cho phép tôi quay lại trước một
chút. Tôi e rằng anh đánh giá Đinh Hùng hơi quá, ngoại
trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có dịp đọc
Đinh Hùng khá nhiều, xin lỗi anh, tôi thấy văn
chương ông ta loè loẹt, có cái ǵ ghê ghê, như là son phấn.
Nếu tôi nhớ không nhầm th́ ngay trong Thi nhân Việt
Trần
Dần: Đinh Hùng thời đó là không có chiếu ǵ.
Nhưng Ngơ Ḅ (gần Bạch Mai, thời đó là nhà ông
Đinh Hùng và Vũ hoàng Chương) là trung tâm thu hút. Ai cũng
thấy Đinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu
tiên của Việt
Hoàng Phủ
Ngọc Tường: Tôi rất thú vị về cái quyết
tâm "chôn tiền chiến" của thế hệ các
anh. Đọc lại văn của các anh thời đó,
đă in hoặc trên bản thảo, tôi lạ lùng thấy
các anh đă làm nổi cái việc khủng khiếp ấy,
là vừa đánh Điện Biên Phủ, vừa "chôn tiền
chiến". Tôi biết, cho đến bây giờ nhiều
người trong công chúng văn học vẫn chưa hết
bị ám ảnh về cái lộng ngữ "vĩ đại
như tiền chiến". Dù rằng, ai cũng biết tiền
chiến đă tạo ra được những thành tựu
lớn lao cho đời sống văn học, so với thời
trước của nó. Tôi cũng sốt ruột mong cho sách
của các anh viết thời đó, hoặc viết thầm
lặng trong ba mươi năm qua, sẽ nhanh chóng
được tái bản hoặc công bố, để có
thể nh́n lại sự Đổi Mới đích thực
của văn học "sau tiền chiến". Tôi cho rằng
lúc đó câu chuyện văn chương "minh hoạ"
hay "không minh hoạ" chắc lại c̣n nhiều
điều hạ hồi phân giải.
Vĩnh
Nguyên: Thưa anh ca dao như thế nào? Tôi nhớ thơ anh
nói: Sấm con gái - Lúa con gái. Thế cũng như Lúa non ngấp
nghé đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ
mà lên... Vậy chính Trần Dần cũng là ca dao.
Trần
Dần: Đó là di sản dân tộc, một ông thầy phải
đặt ngang như Nguyễn Du, Cao bá Quát. Phải học,
để mà chôn đi.
Phùng Quán:
Các anh tiếp xúc với Trần Dần vài buổi đă thấy
là bằng vai, th́ ngay anh em ḿnh trước cũng không hiểu
Trần Dần. Nay hiểu, vật lộn để hiểu
nhau chính là vấn đề "bằng vai".
(Nghe Phùng
Quán dùng chữ "vật lộn", tôi nh́n lại: Tất
cả từ bao giờ đều đă đánh trần, trừ
ông Trần Dần vẫn mặc áo, tay nào tay ấy mồ
hôi ṛng ră. Đêm nóng, điện cúp, nói nhỏ kẻo phiền
hàng xóm, nhưng mọi cặp mắt đều có vẻ
ǵ quyết liệt.)
Nguyễn
quang Lập (đứng dậy, chống hai tay vào hông cho
đỡ nóng): Tôi muốn hỏi lại, các anh đă bị
đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó
thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu
các anh viết đơn để được vào lại,
th́ các anh lại viết?
Trần
Dần: Lúc ấy tôi thật khó xử. Nếu theo mạch
của tôi, th́ tôi ghi vào phản-nhật-kư, là đốt hết
và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng nghĩ lại,
ḿnh tuổi già đă hết cái máu ấy rồi. Sáu
mươi ba tuổi, nếu được hoạt động
hai năm nữa cũng quư rồi, cố mà ra khỏi
đó. Nhưng tôi biết, phục hồi th́ cũng vô
thưởng vô phạt, chỉ là h́nh thức thôi. Sau đó
nhiều người chất vấn tôi mà tôi không trả lời
được. Như thế quả là hèn thực. Đáng
lẽ là một Silence de la mort. Đó là cách trả lời
mini nhất.
(Tan cuộc,
nh́n lại đă gần mười hai giờ khuya.)
Trần
Dần (chống gậy khập khiễng ra cổng, lầu
bầu): Lại mất ngủ!
Bến
Ngự đêm 14-5-1988
(Tạp
chí Sông Hương số 31, tháng 5&6-1988)
________________________________________
VâN LONG
Một
chút về Trần Dần
(trích hồi
kư biên tập)
Đầu
giai đoạn đổi mới văn học, tôi chuyển
từ báo Độc Lập sang làm biên tập thơ cho nhà
xuất bản Hội Nhà Văn. Công việc mới buộc
tôi phải đối mặt với những việc công
luận đang chú ư đến. Thí dụ: xuất bản
những ấn phẩm của những tác giả lâu nay bị
"treo bút".
Ngoài việc
chính ở nhà xuất bản, tôi c̣n làm cộng tác viên biên tập
cho tạp chí Tác Phẩm Mới. Việc đầu tiên
đánh dấu sự trả lại quyền công bố tác
phẩm cho các tác giả Nhân Văn-Giai Phẩm là hăy in vài
bài thơ trên tạp chí của Hội Nhà Văn. Tôi
được cử đến lấy bài của các nhà
thơ Trần Dần, Hoàng Cầm về in.
Tôi đến
nhà ông Trần Dần ở ngay cái phố nhỏ gần nhà
xuất bản. Ông ngồi trong một góc nhà thiếu ánh
sáng. "n tượng của tôi hôm ấy là có cái ǵ khá
đồng dạng, hài hoà giữa tâm trạng, tính khí ông và
thơ ông với góc nhà này. Gương mặt râu ria, không cởi
mở... Trước khi đưa thơ cho tôi đọc
bằng mắt, ông có đọc vài câu thơ xen trong câu chuyện,
có hai câu làm tôi giật ḿnh:
Có những
chân trời không có người bay
Lại
có những người bay
không có chân
trời
Trời
ơi! Mấy chục năm ở trong bóng tối mà ông viết
toàn những câu như vậy th́ "ghê gớm" thực!
Nhưng khi đọc bằng mắt cả loạt bài th́
không như vậy. Nhiều bài diễn đạt hơi rối,
khúc mắc. Cuối cùng bài đưa in dễ nhất lại
là một chương trích trong trường ca Việt Bắc
viết năm 1957. Hồi này giọng thơ của ông rất
sảng khoái, sung sức, có những liên tưởng, so sánh
thật mới mẻ:
Một
đống Tết xa nhà
đă rỉ han lên
...
Hăy sống
như
những con tầu
phải
ḷng
muôn
hải lư
Mỗi
ngày
bỏ
sau lưng
ngh́n hải-cảng-mưa-buồn
Cùng với
Cổng tỉnh (thơ-tiểu thuyết) in sau đó, viết
năm 1959 (được tặng thưởng Hội Nhà
Văn 1995), tôi cảm thấy ông và nhà thơ Hữu Loan giống
nhau ở chỗ: giai đoạn sáng tạo sung sức nhất
của hai ông là giai đoạn 15 năm sau Cách Mạng Tháng
Tám. Có phải sự thiếu giao lưu b́nh thường
sau này đă làm rối mạch tư duy sáng tạo của
hai ông?
Vào cuối
năm 1989, bước vào giai đoạn tác giả có thể
bỏ tiền tư in với sự đồng ư cấp
giấy phép của nhà xuất bản, th́ gia đ́nh nhà
thơ Trần Dần mang tập trường ca Bài thơ
Việt Bắc tới nhà xuất bản Hội Nhà Văn.
Là người biên tập thơ, tôi phải đọc lần
đầu để có ư kiến với tác giả và tổng
biên tập.
Bài
thơ Việt Bắc lúc đó gồm 13 chương. Tôi
đọc kỹ: hơi thơ và các câu thơ đều
nhất khí một mạch viết khoẻ khoắn, mới
mẻ. Về h́nh thức thơ leo thang, người ta có
thể liên hệ đến thơ Maiacốpxki, nhưng về
ư tưởng sáng tạo trong câu chữ th́ chỉ Trần
Dần mới viết được như vậy. Nhà
thơ mở đầu chương I với những câu
trữ t́nh, gợi kỷ niệm về mảnh đất
lịch sử:
Đây!
Việt Bắc!
Sông Lô
nước xanh
tṛng trành mảnh
nguyệt!
Và người
lính coi khinh cái chết:
ở
đây
ta đă long đong
chín mùa xuân sạm
lửa
đạn
như ruồi
bâu kín
gót
chân đi! (trang 7)
Ông có những
cách nói rất mới:
Việt
Bắc
cho ta vay
địa thế
vay từ
bó củi
nắm tên
Để
dẫn đến: có vay th́ có trả:
Dù quen tay
vỗ nợ
Cũng
chớ bao giờ
vỗ nợ
nhân dân! (trang 13)
Những h́nh tượng cụ thể giầu phát hiện:
Quả đất lớn
mà
tâm địa nhỏ
Nó chi li
từng
hạnh phúc đơn sơ (trang 21)
Những ư tưởng mănh liệt khái quát được nhiều hoàn cảnh:
Những ngày
chân trời thấp
làm
cánh chim
hèn hạ (trang 23)
Đọc thơ Trần Dần, thấy được sự ngang tàng trong suy nghĩ của ông:
Chẳng cách nào
dạy ông trời
cao tít mù kia
sự
lao động đắng cay
trên mặt đất! (trang 26)
Con người ngang tàng ấy trước thiếu thốn vài trung đoàn, vài tháng không cơm ở Việt Bắc đă trở thành:
Tôi đă biến thành
cái que gầy khẳng
giữa
bao nhiêu que củi
bạn bè tôi (trang 40)
Ông đă trải qua nhiều nỗi đau, nhưng là người có xu hướng cấp tiến, ông có nỗi đau c̣n lớn hơn là thấy những sức ́, gây cản trở:
Chẳng có ǵ
đau hơn
là cái sự ́ ! (trang 54)
Tâm đắc với những câu thơ như thế, tôi nóng ḷng muốn tạo điều kiện cho ra mắt bạn đọc được sớm (mà sớm ǵ nữa sau hơn ba thập kỷ nằm trong bóng tối). Nhưng đọc đến chương 12, tôi bỗng giật ḿnh: Đó là toàn bộ bài thơ Nhất định thắng...(7)
Trong xu thế đổi mới, thời hạn "treo bút" với một số tác giả đă được chấm dứt, nhưng đă có văn bản nào đánh giá lại sự đúng, sai thời gian ấy! Tác phẩm đầu tiên của anh được in ra, lại công bố đúng tác phẩm đă bị phê phán kịch liệt một thời, ai dám duyệt!
Sau thời gian bị ghét bỏ, cô con dâu hôm đầu tiên trở lại nhà chồng, đă thay cho tiếng chào bằng câu: "Mẹ mắng con là mẹ sai!"... Chương Nhất định thắng in xen vào trường ca sẽ có cái ǵ tương tự như vậy.
Nếu tôi cứ tắc trách đưa duyệt, tập trường ca này không ra mắt được th́ chỉ thiệt tḥi cho tác giả và cho độc giả, cho nền văn học kháng chiến. Tiếc một cây có thể bỏ phí cả cánh rừng! Anh Trần Dần vốn là người ít giao tiếp, không cần hiểu cặn kẽ những sắc thái tinh tế về những việc đă qua, ḿnh phải để anh thấy rơ...
Nghĩ vậy, tôi bèn gặp nhà thơ Trần Dần, phân tích rơ, và nói thêm: "Nếu anh không đồng ư, ngày mai tôi cứ đưa duyệt nguyên vẹn, chờ ư kiến tổng biên tập!" Sắc mặt Trần Dần tối lại, ông hẹn ngày mai trả lời. Hôm sau, chống ba toong lên gác nhà xuất bản, ông nói với tôi: "Thôi được! Anh sát t́nh h́nh hơn tôi, anh cứ bỏ chương đó ra!" Tôi biết ông không vui, nhưng không biết ông có hiểu sự chân thành của tôi, chỉ v́ sự ra đời thuận lợi của tác phẩm, sự "tái xuất giang hồ" của ông với bạn đọc. Việc này tôi cũng tŕnh bày với tổng biên tập lúc đó là anh Vũ Tú Nam. Anh cho cách xử lư của tôi là thoả đáng.
Trường ca Bài thơ Việt Bắc được in ra (nghe nói anh Dương Tường bỏ tiền ra in) với số chương được đánh số thứ tự lại, c̣n 12 chương. Cuốn thơ tác giả đem tặng tôi có những ḍng thế này:
"Gửi Vân Long,
người biên tập lại Đi! Đây Việt Bắc!
thông minh và công phu!
song tôi vẫn phản đối mọi kiểm duyệt?
Tôi đ̣i sự công bằng trong sáng của texte intégral.
Trần Dần."
(texte intégral: nguyên bản toàn vẹn. ở đây tác giả vẫn gọi trường ca theo tên cũ Đi! Đây Việt Bắc!)
Đọc những ḍng đó, tôi đâm ra suy nghĩ: Vậy là cụ c̣n hận ḿnh? Ḿnh là quân tốt đen xưa nay, vô h́nh chung bị mang tiếng là người kiểm duyệt? Dù được khen là người biên tập thông minh và công phu, nhưng sao dấu chấm than lại đậm như dấu hỏi bị chữa lại? Cụ khen mỉa chăng? Tôi liền chạy sang nhà tác giả hỏi lại ông.
Nhà thơ chậm răi: "Lúc đầu, tôi có bực ḿnh thật. Nhưng sau th́ thấy anh đúng, chân t́nh với tôi! Mấy câu ấy là tôi khen thật! C̣n người viết th́ bao giờ chả muốn texte intégral!"
Nghe câu nói đó, tôi mới thực yên ḷng!
Về phía ông, sau khi Cổng tỉnh được tặng thưởng, hẳn đă thấy thêm về sự công bằng đang được lập lại!
________________________________________
PHễ LễC
"Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta."
Trần Dần (1988)
Dạ Đài (1946)
Bản tuyên ngôn tượng trưng
Chúng tôi -một đoàn thất thổ- đă đầu thai nhằm lúc sao mờ.
Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của những người thuở trước.
Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt; và mai một: ư tứ những thi nhân ṃ ánh trăng mà thác. Chúng tôi không c̣n khóc, không c̣n muốn khóc - v́ người ta đă khóc măi ái t́nh, công danh và thế sự.
Chúng tôi không c̣n nh́n mây, không c̣n muốn nh́n mây - v́ người ta đă nh́n măi mây chiều cùng nắng sớm.
Chúng tôi đă gào thét những đêm thâu, đă rên la những ngày dài dằng dặc. Chúng tôi đă nh́n lên Tinh Đẩu và đă nh́n xuống Thế Nhân. Chúng tôi đă về giữa non sâu để trở lại những b́nh nguyên hoang lạnh. Chúng tôi đă sống, sống hết cả những h́nh thức dương trần, đă đau khổ hết cả những mối sầu vui nhân loại.
Cho nên lúc chúng tôi nh́n lại tâm tư lại là lúc chúng tôi nh́n về muôn trùng biển lạ. Từng thớ tim đă kết h́nh thạch nhũ và toàn thân đă biến đổi chất mầu.
Đă lâu chúng tôi không c̣n rung động với trần tâm; đă lâu chúng tôi chẳng c̣n biết thương yêu mừng giận.
Vả lại, làm sao người ta cứ lặn lội măi trong mối thất t́nh eo hẹp? Làm sao người ta cứ khóc măi, than măi, rung động măi theo những con đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ nh́n măi vũ trụ ở ba chiều, và thu hẹp tâm tư ở bẩy dây t́nh cảm! Chúng ta c̣n có nghèo nàn thế nữa đâu? Chúng ta đă mang nặng: những thế hệ tàn vong -những triều đ́nh đổ nát -trăm ngh́n lớp phế hưng. Chúng ta đă thâm cảm: những trời sao vằng vặc -những sự vật điêu tàn -sự ṃn mỏi của ngày đêm liên tục. Biết bao chuyện tang điền đă xáo động tấm h́nh hài nhân thế! Biết bao nhiêu thế kỷ đă trầm tư! Biết bao nhiêu núi lở non tàn đă bắt buộc chúng ta phải sầu thương, chúng ta đă phải trở lại chúng ta mà tư tưởng! Chúng ta suy nghĩ nhiều rồi, chúng ta đă suy nghĩ quá nhiều rồi ở một Con-đường-tuyệt-vọng.
Bởi vậy chúng ta chẳng c̣n là cái chúng ta quá văng đơn sơ thuần phác nữa: chúng ta đă góp gom h́nh ảnh tinh cầu và ḷng chúng ta đă đầy lên châu ngọc.
Thế cho nên chúng tôi -thi sĩ tượng trưng- chúng tôi có nói cũng chỉ là nói cái tâm trạng của thời nhân, của những thời nhân đă có ngày cô độc.
Chúng tôi sẽ nối lại: nghiệp dĩ của một Baudelaire - tâm sự của một Nguyễn Du - sự nổi loạn và ra đi của một Rimbaud - nỗi cô đơn của những nhà thơ lăng mạn.
Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên: quỹ đạo của trăng sao - đường về trên cơi chết. Chúng tôi đă sống, lấn cả sang bờ bến u huyền, cho nên buổi chúng tôi quay về thế tục, chúng tôi nh́n hoa lá với những cặp mắt mờ hoen. Nhỡn tiền bỗng thấy đổi thay tất cả những h́nh sông vóc núi. Chúng tôi lạ: lạ từng đám mây bay, từng bóng người qua lại. Chúng tôi lạ từ sắc nắng b́nh minh đến mầu chiều vàng vọt. Chúng tôi lạ, lạ tất cả. Và chúng tôi đă thấy những cái người ta chẳng thấy. Chúng tôi đă thấy muôn ngh́n thực tại ẩn sau cái thực tại cảm thâu bằng những năng khiếu nông gần. Chúng tôi đă thấy: thế giới bên kia, những thế giới bên kia lẩn ngay trong đám bụi dương trần một giây phút có thể bừng lên như Thực Cảnh.
Vả cái sức rung động của một bài thơ chỉ có thể vào sâu và lan rộng nếu đă thâu góp được cái sức rung động của vô biên, nghĩa là của muôn ngh́n cơi đất. Chúng ta đă chán ngắt cái thi ca nông hẹp, nhai đi nhắc lại những phong cảnh trần gian, những tâm t́nh thế tục. Chúng ta đă tự nhiên trở nên khó tính: chúng ta muốn vào sâu ngoại vật, nội tâm và muốn đi xa thiên đường, địa ngục. Hăy để cho tiền nhân những cảm giác đơn nghèo. Để cho bọn đề nho cái công việc ẩn giấu nỗi ḷng nhạt nhẽo của họ trong nỗi ḷng chung thiên hạ hay trong gió nước, cỏ cây. Để cho bọn đàn bà con trẻ cái công việc than khóc thảm thương trên một kỳ hoa tạ, trên một giấc mộng dở dang. Để cho những thế hệ đă nằm yên cái tôi nông cạn ấy.
Chúng ta muốn những cảm giác thâm u mà chúng ta mới chỉ có những thi sĩ của ḷng. Đă đến lúc chúng ta đợi những thi sĩ của linh hồn, những thi sĩ của cái tôi thầm kín.
Thế cho nên, chúng tôi -thi sĩ tượng trưng- chúng tôi cố đánh thức cái thế giới im ĺm đương nằm ngủ ở trong ḷng nhân loại. Chúng tôi cố thực hiện một cuộc trở về, chúng tôi cố trở lại cái chúng tôi với tấm ḷng khi đất trời khai lập.
Người ta đă t́m măi Đạo Lư ở đường lên: gh́m giữ bản năng kham khổ - nhục h́nh. Chúng ta sẽ t́m Đạo Lư ở con đường xuống: thả lỏng thiên năng đam mê và khoái lạc. Những triết nhân đă chẳng kêu gọi sự quay lại đó ư? Và những phong trào xă hội? Chúng ta chẳng nhận thấy rằng người ta đương gắng sức trả lại con người cái trinh bạch đầu tiên, trả lại con người cỏ cây huyền mặc, sông núi hoang sơ? Chúng ta hăy trở về cái bản năng mà thế t́nh che đậy. Hăy mơ những giâc mơ cầm thú. Hăy gợi lên những cơi sống âm thầm. Hăy đánh thức hư không, nghĩa là cả tấm ḷng xưa man rợ.
V́ thế, thơ cũng phải âm u như cảnh giới của cái tôi thầm lặng. Không thể rung cảm chúng ta nữa cái văn chương cổ tích chỉ có một chiều, chỉ nhắc gợi một cơi đất, một tâm t́nh. Thơ phải cấu tạo bằng tinh chất của vô biên. Sau cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn ngh́n thế giới, cả thế giới đương thành và đương hủy.
Nhưng
thi cảm phải gây trong thực tại. Những câu chuyện
hoang đường, hăy dành lại cho những đàn em bé
nhỏ. Bọn lăng mạn, sau khi chùi xong nước mắt
lại lảm nhảm nói đến chuyện những nàng
tiên. Chúng ta hăy cứ mặc họ khóc than trên tính t́nh của
họ.
Chúng ta phải
nhớ rằng chúng ta đương kể những câu chuyện
cổ tích cho những người đứng tuổi nghe.
Phải gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện
thực. Một bài thơ phải chứa đựng những
cái ǵ đă có, nhưng phải mang ở trạng thái tiềm
tàng những cái ǵ có thể có và cả những cái ǵ không có
nữa.
Một
ánh sao băng: nhưng đấy là muôn ngh́n sự vật
ĺa tan ở những khu trời xa lạ.
Phải
xáo trộn cả thực hư. Đă có: Vạn Lư Trường
Thành, A Pḥng Cung, Kim Tự Tháp. Có thể và không có: thuyền
bến Thanh Tuyền, đèn nơi Thiên Cảnh. Hăy nằm
dưới một trời sao mà trông về thế tục.
Hăy ca lên trong kẽ núi và hát giữa b́nh sa.
Chúng ta cũng
không thể tách lập được hẳn thực
hư, và chia đôi địa trấn bằng một bờ
sao rơ rệt. Cơi mộng và cơi đời đă thâm nhập
vào nhiều nơi, và ở nhiều nơi đă thấm trộn
cùng nhau trong một cuộc giao hoà bí mật. Có ở cơi
đất chúng ta không: những đướng lối cố
đô, những v́ sao huyền ảo! Nhiệm vụ thi ca
là phải khai thông con đường giao cảm ấy. Một
đầu phố cô đơn, một con đường
thăm thẳm: tất cả những phong cảnh trần
gian sẽ phải hư lên v́ sự thực.
Làm sao mà giải
quyết được sự mâu thuẫn phi thường
đó? Chúng ta chỉ có một con đường đi
để thoát khỏi mê đồ. Chúng ta chỉ có thể
dung hợp được thực và hư bằng h́nh
tượng. Phải lập lại ngôn ngữ trần
gian, phải gột bỏ cho mỗi chữ cái tâm t́nh dung tục
cũ. Một câu thơ sẽ có một ư nghĩa -cái ư nghĩa
rất thường- nhưng sẽ mang nặng biết bao
nhiêu ư nghĩa âm u và khác lạ. Mỗi một thế giới
sẽ nằm trong một tầng lớp của tượng
h́nh: tất cả trần gian sẽ đổi thay trên bề
mặt, những cảnh giới hoang vu sẽ nằm giấu
bên trong. Thực tại và u huyền đă gặp nhau và chỉ
gặp nhau ở thể h́nh duy nhất đó. Chúng ta đă
cứu văn được: cơi đất chúng ta, cứu văn
được: những cơi đất ngoài kia, và cứu
văn được bằng sức gợi cảm âm thầm
h́nh tượng.
Vả những
h́nh tượng c̣n tạo tác được những âm
thanh huyền diệu nữa. Âm nhạc trong thơ không phải
chỉ kết hợp hoàn toàn bởi những cú điệu
số học, những luật lệ trắc bằng. Biết
bao nhiêu câu thơ niêm luật rất chỉnh tề mà vẫn
tắt ngấm ở mang tai sau khi chữ cuối cùng vừa
đọc hết. Chỉ một sự nhận thức
đó cũng đủ tỏ chứng rằng âm nhạc của
một bài thơ phần lớn là do ở sức rung động
Tâm Lư của bài thơ ấy. Nói đến âm nhạc trong
thơ là phải nói đến sức gợi khêu của chữ.
V́ những h́nh tượng mang nặng những ư t́nh nên âm
nhạc gây nên cũng mang đầy âm sắc. Câu thơ
đọc xong sẽ c̣n đi măi trong từng ngơ vắng
linh hồn và sẽ tắt nghỉ ở tận đáy sâu
Tiềm Thức.
Thế
cho nên chúng tôi -thi sĩ tượng trưng- chúng tôi sẽ
nói lên và chỉ nói lên bằng h́nh tượng, thứ ngôn
ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới
yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng
là của cái thế giới âu sầu đây nữa.
Bằng
h́nh tượng, chúng tôi sẽ kể lại những câu
chuyện xưa người ta kể cho chúng tôi nghe dưới
ngọn đèn. Chúng tôi sẽ t́m hiểu linh hồn của
những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ tượng
trưng hoá cái sức rung động của trẻ em
trước một chuyện cổ tích hoang đường
và cái sức rung động của gă nông phu trước những
bản đồng dao thuần phác.
Cảm
thâu những bài thơ siêu thực, chúng ta không được
dùng lư trí, không được dùng cảm t́nh, nghĩa là
không được chỉ dùng có một quan năng tách bạch
của chúng ta -dù là quan năng nào đi nữa. Hăy đem tất
cả linh hồn, hăy mở tất cả cửa ngách của
tâm tư mà lư hội. Trận gió sẽ lên: tức khắc
và đột nhiên, v́ thơ đă không cần lư luận.
Thói xấu
của phần đông những người đọc
thơ là t́m nghĩa trước khi t́m cảm giác. Họ
đă tự tay đóng cửa lâu đài; đêm có xuống
họ lại chạnh than và kêu gọi.
Đến
cái h́nh thức cao nhất, thơ không c̣n lư luận, và cũng
không c̣n phải tự dinh dưỡng bằng những thi
đề rơ rệt. Chỉ cần có những phút mà Im Lặng
rung lên. V́ trong im lặng có tất cả: những thành quách
đang xây, những tinh cầu đang đổ vỡ.
Thơ chỉ cần bắt được cái âm điệu
khởi hành của một bài ca nào huyền mặc. Rồi
cứ theo những định luật dan díu dị kỳ,
những h́nh ảnh sẽ đua nhau đẩy xô trong một
bản khiêu vũ mơ hồ cho hết lúc sẽ cùng nhau tắt
thở. Và kẻ tiếp nhận thơ sực tỉnh, có
nhớ lại cũng chỉ c̣n nhớ là ḿnh đă tỉnh
một cơn mê. V́ hai bến bờ im lặng đă giao
nhau và quăng thời gian xao động không c̣n di rớt lại
một khe hở tâm tư, những giây phút đă vỡ ra
không c̣n một minh xác.
Chúng tôi
đă không cần tới thi đề, v́ thi đề của
chúng tôi là tất cả một vũ trụ muôn chiều,
và thi liệu của chúng tôi là tất cả mớ ngôn từ
rộng răi.
Đi giữa
bờ bến U Huyền và Hiện Thực, chúng tôi sẽ
nói thay cho tiếng nói những loài ma. Chúng tôi sẽ khóc lên
cho những nỗi oán hờn chưa giải. Chúng tôi sẽ
bắt hiện lên những đường lối u minh.
Chúng tôi sẽ kể lại những cuộc viễn du
trong những thế giới âm thầm sự vật.
Có thể
đem lại cho chúng ta một chút niềm quên? V́ chúng ta muốn
quên và cần quên để sống. Thi ca thuở trước,
thứ thi ca dựng xây trong cái quan niệm tính cổ truyền
đă mất hẳn cái thế lực đó rồi. Chúng ta
chỉ c̣n thấy nghèo nàn, vụn vặt, đắp lên
trên cái trật tự đơn thuần, cái lư trí. Biết
bao nhiêu thế kỷ người ta đă bắt thi nhân
cùng sự vật phải đứng yên ở một
điểm không gian bằng phẳng và trong một giây phút
đọng ngưng. Người ta đă chẳng biết
rằng một h́nh ảnh tĩnh chỉ làm cho chúng ta nhớ
thương và hối tiếc. Một chiếc ảnh của
người con gái khi xưa gợi lại một quăng
đời hấp hối. Một người sẽ khóc
măi đợi người đi, khóc măi cái sự chẳng
đổi thay của góc vườn ụ đất. Và ở
h́nh thức cao đẹp nhất của nó, một h́nh ảnh
im ĺm chỉ làm cho chúng ta run sợ và run sợ với một
cảm giác nông nghèo. Chúng ta hoảng hốt giữa non sâu,
những luồng rung động đă hun hút đi qua
như đi qua một khe cửa hổng. Trạng thái c̣n
đây chỉ là một trạng thái phẳng bằng, một
trạng thái vô cùng đơn sơ và nhạt nhẽo.
V́ thế,
cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh,
của bọn lăng mạn khóc bạn chẳng làm chúng ta
quên, v́ chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những
nhịp điệu bồng bênh của bản thanh âm hoàn vũ.
Thế
cho nên chúng tôi -thi sĩ tượng trưng- chúng tôi sẽ
đón về đây tất cả những thế giới
quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng
phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một
chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải
vô cùng linh động.
Chúng ta có
thể quên được chăng: cái xă hội âu sầu với
một mớ dây ràng buộc? Chúng ta có thể quên được
chăng trong cái sự nối tiếp u huyền của những
thanh âm, mầu sắc?
Hăy
đưa chúng ta đi. Đưa chúng ta ngược về
dĩ văng, qua bờ tương lai, đưa chúng ta đi
cho hết cơi dương trần, đi cho hết những
trời xa đất lạ. Để chúng ta sống muôn
ngàn cơi sống. Để chúng ta có hàng triệu năm già và
vô vàn kư ức: kư ức của những dân tộc đă tàn
vong, kư ức của những cơi đời xa thẳm, kư ức
của những thế kỷ đă lùi xa. Để cho muôn
ngàn kư ức chất chồng lên kư ức chúng ta, cái kư ức
bi thương, cái kư ức đơn nghèo đă lượm
thâu bằng những giác quan trần tục.
Trần
Dần , Trần Mai Châu , Vũ Hoàng Địch
________________________________________
TRíCH THôNG
CáO CẹA BAN THưấNG Vễ HẫI VăN NGHệ VIệT
I.- Vấn
đề phê b́nh bài thơ Nhất định thắng của
Trần Dần
Trong bài
thơ Nhất định thắng đăng trong tập
Giai Phẩm Mùa Xuân đầu năm 1956, ban thường vụ
nhận thấy có những khuynh hướng tư tưởng
sai lầm nghiêm trọng cần phải phê b́nh. Tháng 2-1956,
ban thường vụ tổ chức phê b́nh bài thơ
đó. Vào lúc ấy, anh Trần Dần đang có một số
vấn đề trong quân đội chưa được
rơ ràng. Trong khi lănh đạo phê b́nh, ban thường vụ
thiên về coi tác giả như một người có tư
tưởng chống lại chế độ. V́ thế
cách phê b́nh không đi sâu về phân tích mà nặng về chụp
mũ, đao to búa lớn, trái với nguyên tắc và tinh thần
đấu tranh tư tưởng trong nội bộ của
văn nghệ chúng ta. Tiếp theo đó, báo Văn Nghệ
lại đăng bài tường thuật cuộc phê b́nh
thiếu thận trọng của anh Hoài Thanh nêu tính chất
phản động của bài Nhất định thắng.
Những sự việc ấy không những đă làm
thương tổn đến cá nhân anh Trần Dần, mà
c̣n gây nhiều lo lắng cho những người sáng tác
văn nghệ. Mặc dầu liền sau đó, Phủ Thủ
Tướng có phê b́nh, nhưng ban thường vụ không tự
kiểm điểm kịp thời mà chỉ đăng lên
báo Văn Nghệ bài thơ Đời đẹp lắm của
Trần Dần, làm cho quần chúng không hiểu.
Ban
thường vụ thừa nhận những sai lầm của
ḿnh trong cách tổ chức và lănh đạo cuộc phê b́nh
bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần.
Hiện nay anh Trần Dần vẫn là hội viên Hội
Văn Nghệ Việt
________________________________________
B̉N NHâN
VăN-GIAI PHẩM TRưỚC TOà áN Dư LUậN (1958)
NHIềU
TáC GIả, NHà XUấT BảN SỬ THậT, Hà NẫI
(trích)
Nghị
quyết của các ban chấp hành các Hội Văn Học-Nghệ
Thuật
Sau cuộc
hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp VHNTVN ngày
4-6-1958, trong tuần lễ từ 21-6 đến 3-7-1958, lần
lượt các ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội
Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn đă họp kiểm
điểm t́nh h́nh công tác trong thời gian vừa qua, thi
hành kỷ luật đối với một số hội
viên tích cực hoạt động trong nhóm phá hoại
"Nhân Văn-Giai Phẩm", chấn chỉnh lại các
ban chấp hành và thảo luận về công tác sắp đến
để đẩy mạnh phong trào văn học nghệ
thuật tiến lên, phục vụ đắc lực
hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở
miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước
nhà.
Qua các bản
báo cáo trong các cuộc hội nghị, th́ trong hơn một
năm qua, từ ngày thành lập các Hội Nhạc Sĩ, Hội
Mỹ Thuật, Hội Các Nhà Văn, công tác ở các ngành âm
nhạc, mỹ thuật, văn học đều có những
bước tiến cụ thể. Nhưng đồng thời
bọn "Nhân Văn-Giai Phẩm" cũng đă tiếp
tục hoạt động lũng đoạn cơ quan các
Hội văn học nghệ thuật, nhất là cơ quan
Hội Nhà Văn, nhằm chống lại chế độ,
chống lại Đảng và nhân dân. Các đồng chí phụ
trách ở các Hội, nhất là Hội Nhà Văn, đă nhận
ra và kiểm điểm về các sai lầm của ḿnh
trước các hội nghị.
Chiếu
theo điều lệ của các Hội, các ban chấp hành
đă nhất trí thi hành kỷ luật đối với một
số người trong nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm"
đă hoạt động phá hoại nghiêm trọng ở
các Hội.
Ban chấp
hành Hội Nhà Văn cảnh cáo và khai trừ Hoàng Cầm ra
khỏi ban chấp hành, cảnh cáo và cho Hoàng Tích Linh rút khỏi
ban chấp hành. Ban chấp hành Hội Mỹ Thuật cảnh
cáo Sỹ Ngọc và chấp nhận việc Sỹ Ngọc
và Nguyễn Sáng xin rút khỏi ban chấp hành. Ban chấp
hành Hội Nhạc Sĩ sáng tác chấp nhận việc
Văn Cao và Nguyễn Văn Tư xin rút khỏi ban chấp hành.
Các cuộc
hội nghị của các ban chấp hành cũng đă nhất
trí quyết định khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu,
Thụy An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần Duy ra khỏi
Hội Mỹ Thuật; khai trừ trong thời hạn 3
năm: Trần Dần, Lê Đạt (Hội Nhà Văn), Tử
Phác, Đặng Đ́nh Hưng (Hội Nhạc Sĩ sáng
tác); và cảnh cáo một số hội viên khác đă tích cực
hoạt động trong nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm".
(Tạp
chí Văn Nghệ, số 14, tháng 7-1958)
________________________________________
HUY VâN
MẫT
TâM HỎN đỎI TRễY: TRầN DầN
Xưa
nay có nhiều người, tuy xuất thân hư hỏng,
quá khứ xấu xa, sau nhờ có ánh sáng của Đảng,
của cách mạng và nhờ có tinh thần tự nguyện
tự giác cố gắng cải tạo, mà ngày nay đă trở
thành những người hữu ích, những người
cách mạng. Trần Dần không thuộc vào lớp đó.
Nhiều
người ở
Cách mạng
tháng Tám thành công, trong lúc số lớn thanh niên ta đều
đem trái tim và tuổi trẻ của ḿnh cùng với cha,
anh đón chào thắng lợi của cách mạng, th́
"trái tim, khối óc" của Trần Dần vẫn ngập
trong khói thuốc phiện. ở Hà Nội cuối năm
1946, cả dân tộc sắp đi vào kháng chiến toàn quốc,
th́ Trần Dần cùng với Trần Mai Châu, Vũ Hoàng
Địch đă lập ra nhóm "thi sĩ tượng
trưng" viết báo Dạ Đài để cho ra cái
tuyên ngôn ngày 16-11-1946 với những câu: "Chúng tôi, một
đoàn vong gia thất thổ, đă đầu thai nhằm
lúc sao mờ..." Rồi giữa đêm 19 tháng Chạp,
trong lúc bộ đội và nhân dân thủ đô xông vào khói lửa
chiến đấu để bảo vệ tổ quốc,
th́ Trần Dần và những kẻ cùng nhóm vẫn c̣n chạy
chọt để ḥng cho ra số 2 của báo Dạ Đài
sặc mùi thuốc phiện! Những việc kể trên
đây có thể tóm tắt phần nào cái thái độ lạc
lơng xa lạ của Trần Dần đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc của toàn dân ta. Trần Dần
cũng đi vào kháng chiến, nhưng vẫn không chịu
từ bỏ những quan điểm nghệ thuật sa
đoạ của hắn. Trong "nhóm văn nghệ
Sơn La", hắn đă vẽ toàn lối tối tăm
khó hiểu, biến h́nh ảnh anh dũng và đẹp
đẽ của bộ đội ta thành những h́nh thù rất
quái gở, làm thơ cũng vậy. ở Sơn La, cái lối
sống và quan niệm sáng tác đă đưa Trần Dần
đến nhiều sai lầm, bị thi hành kỷ luật.
Mặc
dù tư tưởng của Trần Dần có nhiều bê bết
của cái cũ, Đảng và quân đội ta vẫn hết
ḷng giáo dục, cải tạo. Chính v́ muốn cải tạo
Trần Dần có kết quả hơn, mà sau các kỳ chỉnh
huấn, tổ chức của ta đă giúp cho hắn đi
vào thực tế chiến đấu của bộ đội,
tạo điều kiện cho hắn viết được
cuốn "Người người lớp lớp" với
ít nhiều tiến bộ về nội dung, song nghệ thuật
vẫn c̣n non kém. Với cuốn sách đó, đáng lẽ Trần
Dần phải tự thấy ḿnh c̣n phải cố gắng
nữa, nhưng trái lại, hắn đă vội
dương dương tự đắc, lấy đó làm
cái vốn để yêu sách Đảng và quân đội.
... Khi về
Hà Nội mới giải phóng, Trần Dần đă bất
chấp cả tám chính sách và mười điều kỷ
luật vào thành của chính phủ, bất chấp cả kỷ
luật quân đội, tự do bỏ doanh trại ra ngoài
sinh hoạt bê tha.
Mỗi lần
về đơn vị, Trần Dần và bọn theo hắn
dùng cách dương đông kích tây, cô lập người tốt,
về hùa nhau đ̣i tự do, đ̣i bỏ nội quy để
chúng được tự do sống theo cái lối trụy
lạc của chúng.
Giữa
lúc những phần tử lạc hậu trong giai cấp
tư sản ầm ĩ đ̣i đảm bảo cái thứ
tự do "bóc lột", đầu cơ buôn lậu của
chúng, th́ trong bộ đội, Trần Dần lên tiếng
đ̣i tự do tuyệt đối, đ̣i lối sống
đồi trụy và xuất bản những thơ văn
chống chế độ. Trần Dần đă dùng lối
"bắt rễ xâu chuỗi" tập hợp những
phần tử xấu trong văn nghệ quân đội
như Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm để
kéo bè kéo cánh hoạt động chống đối với
cơ quan lănh đạo. Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng Cầm, Hoàng Yến đă lợi dụng việc phê
b́nh tập thơ Việt Bắc và phong trào phê b́nh văn học
lúc bấy giờ để lôi kéo vây cánh đả vào cán bộ
chính trị và đường lối văn nghệ phục
vụ chính trị. Lợi dụng thắc mắc của một
số anh em văn nghệ quân đội, Trần Dần
đă nấp dưới chiêu bài "chống công thức",
"đi t́m cái mới", chỉ huy cái bào thai "Nhân
Văn-Giai Phẩm" trong quân đội, kéo bè kéo cánh
đả kích lănh đạo và tụ tập nhau đề
ra cái gọi là "chính sách về văn nghệ trong quân
đội", công khai và trắng trợn đ̣i
"văn nghệ phải độc lập với chính
trị", "trả quyền lănh đạo văn nghệ
cho văn nghệ sĩ". Trước thái độ
khiêu khích của bọn Trần Dần, tổ chức trong
quân đội đă nhiều lần khuyên răn họ trở
lại con đường đúng. Nhưng bọn Trần
Dần vẫn tiếp tục ngoan cố. Bọn Trần Dần
đă hoạt động như những phần tử tác
động tinh thần.
Để
truyền bá những tư tưởng phản động
của ḿnh, Trần Dần đă dự định ra khỏi
quân đội, mưu viết báo chống lại chế
độ. Sau khi cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê
Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm mặc cả với những
phần tử tư sản phản động về cái
chức chủ bút một tờ báo tư với số
lương tháng 10 vạn đồng, Trần Dần
đă viết đơn xin ra khỏi Đảng và quân
đội. Những phần tử xấu trong văn nghệ
bộ đội cũng hùa theo hắn viết thư
"xin ra". Mặc dù Trần Dần đă đi đến
chỗ rất xấu như vậy, chi bộ vẫn giữ
phương châm kiên nhẫn giáo dục. Song hắn vẫn
ngoan cố, lại dùng những lời lẽ khiêu khích chi bộ.
Toàn thể chi bộ đă nhất trí quyết nghị khai
trừ hắn ra khỏi Đảng.
Trong bài
"Con người Trần Dần" đăng ở
Nhân Văn số 1, để làm ra bộ Trần Dần là
kẻ vô tội, bọn Nhân Văn đă đưa ra một
thứ Trần Dần vô tư không hề biết chuyện
bài ḿnh đăng trong cái tập Giai Phẩm Mùa Xuân năm
1956. Sự thật th́ khác hẳn. Sau khi đă ngoan cố chống
lại quân đội, Trần Dần đă ra bàn với
Văn Cao, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đ́nh
Hưng, Hoàng Cầm để âm mưu đẻ ra cái Giai
Phẩm Mùa Xuân năm 1956 với ư định tập họp
nhau lại bôi nhọ chế độ ta. Chính từ cái Giai
Phẩm Mùa Xuân này đă bắt đầu thành h́nh một
nhóm chống Đảng, chống nhân dân. Hồi ấy là
lúc quân đội đă cho Trần Dần xuống nông thôn
để nh́n thấy thực tế mà sửa ḿnh, nhưng
hắn ta chẳng hề tỉnh ngộ, c̣n viết chuyện
Lăo Rồng và chuyện Anh C̣ Lấm để ám chỉ cán
bộ Đảng và chửi cải cách ruộng đất.
Vừa
tích cực tham gia Giai Phẩm Mùa Xuân, Trần Dần vừa
tiếp tục nói những lời chống Đảng và
có những hành động khả nghi bỏ nơi công tác về
Hà Nội sinh hoạt trụy lạc. Hắn đă vi phạm
nặng kỷ luật bộ đội. V́ mục đích bảo
vệ sự nghiêm chỉnh của kỷ luật quân đội,
tổ chức bộ đội đă phải cho giữ Trần
Dần để kiểm thảo, đi tới cải tạo.
Nhưng v́ quen cái lối đập đầu vu vạ của
bọn khách nợ địa chủ, Trần Dần đă
lấy một lưỡi dao cạo râu kéo da cổ ra, cứa
ngoài da, rồi lu loa lên dọa tự tử, ḥng gây dư luận
xấu đối với quân đội. Trước thái
độ kiên quyết của tổ chức bộ đội,
Trần Dần đành vờ viết một bản kiểm
thảo nhận những sai lầm của hắn và tự
đề ra một kế hoạch sửa chữa. V́ thấy
thái độ của Trần Dần có biểu hiện chuyển
biến, tổ chức đă đưa hắn về
đơn vị giữ nguyên chức vụ cũ, và về
sau lại cho chuyển ngành theo nguyện vọng. Nhưng
liền sau đó, hắn đă tráo trở ngay. Hắn
đă mưu mô với Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trần
Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao cho viết ra cái hồi
kư "Con người Trần Dần". Đó là một
bài đầy rẫy những chuyện vu cáo. Khi bài "Con
người Trần Dần" vừa ló ra, nhiều đồng
chí trong và ngoài bộ đội biết chuyện đă từng
viết bài muốn vạch sự thật về vụ Trần
Dần. Biết cái mưu mô gian tà của ḿnh khó lọt, Trần
Dần và Hoàng Cầm đều hứa với các cơ
quan có trách nhiệm, xin tự cải chính. Nhưng rồi hắn
không cải chính, Trần Dần cũng như Lê Đạt
đă viết rất nhiều bài cho Nhân Văn-Giai Phẩm
kư bằng nhiều tên khác nhau. Trần Dần c̣n mớm ư
cho kẻ khác viết (Như Mai bài Thi sĩ máy, Mai Hanh bài Xuống
trần, vv...) hoặc tự tay sửa bài của bọn
khác. Nếu lấy tất cả những bài Trần Dần
đă viết cho Nhân Văn-Giai Phẩm (đă đăng,
hoặc chưa đăng) đem thống kê lại th́ ta
thấy Trần Dần đă đả kích vào rất nhiều
mặt quan trọng của chế độ ta: từ các
đường lối chính trị trong nước đến
quan hệ quốc tế, từ sự lănh đạo của
Đảng trong văn nghệ đến sự lănh đạo
chung của Đảng. Sau khi âm mưu chuyển mạnh
sang hành động chính trị của nhóm Nhân Văn bị
bại lộ, Trần Dần đă cùng với Văn Cao
t́m cách "cứu" cho bè lũ. Đến khi báo Nhân
Văn bị cấm và nhóm Nhân Văn bị dư luận
quần chúng vạch mặt, th́ Trần Dần lại ra sức
gặp những kẻ cùng nhóm để động viên và
giữ vững tinh thần, rồi lại tập hợp
nhau tiếp tục hoạt động với những âm
mưu mới, tinh vi và nham hiểm hơn...
Báo Nhân
Dân, ngày 25-4-1958
________________________________________
Tẩ HữU
NH́N LạI
3 NăM PHá HOạI CẹA NHÓM NHâN VăN-GIAI PHẩM
... Những
hoạt động phản động và phản bội của
chúng đă tiến hành từng bước theo kế hoạch
"ăn từng miếng" như tiếng chúng quen
dùng.
Bước
thứ nhất bắt đầu từ mặt trận
văn nghệ đả kích Đảng và chế độ
ta.
Mọi kẻ
thù của dân tộc và của nhân dân lao động trong thời
đại ta ngày nay, thời đại thắng lợi của
chủ nghĩa xă hội, đều hiểu rơ Đảng
của giai cấp công nhân là kẻ thù nguy hiểm nhất của
chúng, v́ lẽ dễ hiểu: những người cộng
sản là những người được tin yêu nhất
của dân tộc, của nhân dân.
Bọn
thù địch của Tổ Quốc và nhân dân ta cũng thế,
thèm muốn đen tối của chúng luôn luôn là: đánh
đổ sự lănh đạo của Đảng ta để
có thể xoá bỏ chế độ dân chủ nhân dân ở
miền Bắc. "Tố cộng, chống cộng"
là chủ đề chính trong tuyên truyền của Mỹ-Diệm
ở miền Nam, cũng như của các chủ nghĩa
đế quốc khác; "tố cộng ở trong ḷng cộng"
là nhiệm vụ hàng đầu mà chúng giao cho tay sai của
chúng ở miền Bắc.
Bọn cầm
đầu nhóm phá hoại Nhân Văn-Giai Phẩm, những kẻ
từ lâu đă nuôi sẵn trong ḷng sự hằn thù đối
với chế độ ta và những người cộng
sản, tất nhiên cũng hoạt động theo hướng
đó. Học kinh nghiệm của bọn phản động
quốc tế, bọn phá hoại ở nước ta cũng
áp dụng cái thuật đánh từ mặt trận văn
nghệ, là một miếng đất c̣n sơ hở của
cách mạng, và phối hợp "nội công" với
"ngoại kích". Như nhiều người trong bọn
họ đă thú nhận, cuộc tấn công vào chế độ
ta và Đảng ta đă bắt đầu trên mặt trận
văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà b́nh vừa
lập lại.
Trong khi bọn
gián điệp c̣n giấu mặt chờ đợi thời
cơ, và bọn tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần
Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng
ở trường đại học, th́ bọn Nguyễn
Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn
nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ
cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên
phản Đảng trong Pḥng Văn Nghệ Quân Đội,
đă kết thành một bè phái chống Đảng trong
văn nghệ.
Như lời
thú tội của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,
cuộc phê b́nh tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy
sắp đặt, để đánh vào sự lănh đạo
và đường lối văn nghệ của Đảng,
đường lối phục vụ chính trị cách mạng,
phục vụ công nông binh, và để đề xướng
cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ
nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống
tự do sa đoạ.
Đương
nhiên cái "điệu tâm hồn" ấy của Lê
Đạt xướng lên không thể nào hoà được
với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng
rất tự nhiên nó chỉ hoà được với
"tiếng sáo tiền kiếp" lóc gân của tên mật
thám Trần Duy.
Cũng
lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác -những đứa
con hư hỏng của Hà Nội cũ- nay lại trở
về với những "cảnh cũ người
xưa" bỗng cảm thấy đời sống trong
quân đội "nghẹt thở", chỉ v́ thiếu
cái tự do trở lại đời sống trụy lạc
cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân
đội cách mạng chỉ c̣n là "những sợi dây
xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm
ít nhiều chất phản động của Hồ Phong,
Trần Dần gióng lên "Tiếng trống tương
lai", chửi cán bộ chính trị là "người bệnh",
"người ḍi", "người ụ". Cùng Tử
Phác khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một
cuộc đấu tranh "buộc lănh đạo thực
hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ
đ̣i thực hiện những ǵ? "Trả quyền lănh
đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ
tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn
công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân
sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập
trong quân đội một Chi Hội Văn Nghệ trực
thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn
và Tổng Cục Chính Trị." Tóm lại là thủ tiêu
sự lănh đạo của Đảng và kỷ luật của
quân đội đối với họ. Và đúng như Trần
Dần đă thú nhận, "cuộc đấu tranh chính
sách chỉ là cái cớ để chúng tôi khoét mâu thuẫn giữa
quần chúng và lănh đạo". Phá phách không hiệu quả,
họ kéo nhau ra khỏi quân đội, ḥng làm cho Pḥng
VNQĐ v́ thiếu họ mà tê liệt. May thay, chính v́
"thiếu họ" từ đó mà những tài năng
mới trong quân đội càng nảy nở thêm lên.
Những
"điệu tâm hồn" và "tiếng trống"
của bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Trần
Dần, Tử Phác, không gợi được sự chú ư của
ai, nhưng cũng có vài kẻ tri âm hưởng ứng.
Không phải
ngẫu nhiên mà báo Nói Thật của Hoàng công Khanh, một kẻ
đă bán ḿnh cho địch trong thời tạm bị chiếm,
lúc đó bỗng đăng "vu vơ" một bài của
Lỗ Tấn viết ngày xưa trong thời kỳ đấu
tranh chống chế độ Tưởng giới Thạch,
dưới đầu đề: "Bước chia tay giữa
văn nghệ và chính trị". Nhưng đọc nó, ai
không thấy ác ư của những kẻ đă quen nghề
"tác động tinh thần", lên tiếng chào mừng
bọn chống chế độ, chống Đảng.
Trong bóng
tối, vẫn có những kẻ không phải ta, sục sạo
đánh hơi chờ đợi. Thời cơ ra mắt
chưa lợi cho chúng, hăy để cho lũ chống Đảng
hoạt động, và giúp đỡ họ từ xa. Với
túi tiền của bọn tư sản phản động
và nhà xuất bản Minh Đức, Nguyễn Hữu
Đang càng tích cực phá hoại, lôi kéo một số
văn nghệ sĩ lạc hậu, mở rộng hoạt
động phản bội của hắn. Đầu
năm 1956, con ngựa Minh Đức(1) hí hửng thồ mấy
cái tên ra mặt chửi chế độ, chửi Đảng,
trên Giai Phẩm Mùa Xuân.
Hăy nghe Trần
Dần thú nhận về bài thơ Nhất định thắng
của hắn: "Làm với dụng ư xuyên tạc sự
thật, bôi đen miền Bắc... Nêu cảnh thất nghiệp,
hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất... luôn
luôn lắp lại cái điệp khúc ổmưa sa trên mầu
cờ đỏỗ để nhấn mạnh Đảng
là nguyên nhân của cái xă hội thê thảm này..."
Bên cạnh
Trần Dần là những tiếng tục tằn khác, chửi
bóng gió những cán bộ là "mèo", là "sên" và inh
ỏi cái thùng sắt tây Lê Đạt kêu "Mới! Mới!",
"Bay cho cao, bay cho xa!". Người ta biết chữ
"bay" ấy về sau chỉ c̣n có nghĩa
"vù" (đi Nam) như bọn Lê Đạt đă nói
rơ.
Cái gọi
là Giai Phẩm Mùa Xuân ấy lập tức bị chỉ
trích thu hồi. Cơ quan lănh đạo của Đảng
và Hội Văn Nghệ một lần nữa cố gắng
giáo dục, nghiêm khắc phê b́nh họ và thật t́nh vẫn
muốn coi họ như những người rối trí, lạc
đường.
Họ im
đi, nhưng lại để ŕnh cơ hội phục
thù.
Lợi dụng
lúc khó khăn, ra mặt phản cách mạng, đánh thẳng
vào chế độ và sự lănh đạo của Đảng,
chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân, âm
mưu gây biến động.
Đại
hội lần thứ 20 của ĐCS Liên Xô với những
luận điểm có giá trị lịch sử và quốc tế
lớn lao, đă làm nức ḷng những người cộng
sản và tiến bộ trên thế giới, tất nhiên làm
cho bọn phản động khắp các nước hết
sức hoảng sợ. [...] Nhân cơ hội ĐCS Liên Xô dũng
cảm phê phán tệ sùng bái cá nhân và những sai lầm của
đồng chí Stalin, chúng lập tức khuấy lên một
luồng gió độc tấn công vào các nước XHCN, chửi
rủa Liên Xô và các Đảng cộng sản. [...]
Giới
văn nghệ, qua một lớp nghiên cứu những quan
điểm Mác-Lênin về văn nghệ, cũng thẳng
thắn phê b́nh những khuyết điểm lệch lạc
trước nay trong phong trào và trong lănh đạo về mặt
văn nghệ. Nhưng bọn phá hoại bấy lâu mài sẵn
nanh vuốt, liền nắm ngay cơ hội ấy để
làm đục không khí phê b́nh lành mạnh.
Đến
đây, bọn Nguyễn Hữu Đang cùng bọn gián
điệp Thụy An kết thành một khối công khai chửi
rủa kháng chiến, lợi dụng diễn đàn hội
nghị đả kích sự lănh đạo của Đảng
ta, đ̣i phải bỏ đường lối văn nghệ
của Đảng, phải thay đổi chính sách và tổ
chức của Đảng trong văn nghệ.
T́nh h́nh
nước ta lúc đó đang trải qua một cuộc thử
thách lớn. Đảng ta phát hiện những sai lầm
trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ
chức. Đời sống của nhân dân ở thành thị
c̣n khó khăn, lại bị bọn tư sản đầu
cơ uy hiếp.
Thế
giới cũng đang c̣n sóng gió; từ những vụ lộn
xộn ở Ba Lan đến cuộc biến động
phản cách mạng ở Hungari; chiến tranh Anh-Pháp xâm
lược Ai Cập.
Dư luận
xă hội đang nhiều nỗi phân vân, càng thêm xôn xao lo lắng.
Trong lúc
các loại phản động trong xă hội, cùng những
lưu manh cao bồi ngóc đầu dậy như những
con vắt ghê tởm, bọn phá hoại trong văn nghệ
càng hoạt động dữ. Tái bản Giai Phẩm Mùa
Xuân và liên tiếp xuất bản các tập Giai Phẩm Mùa
Thu, Mùa Đông, Đất Mới (2).Với báo Nhân Văn ra
đời lúc đó, bọn phá hoại ngày càng tự lột
trần chân tướng.
Báo Nhân
Văn công nhiên là lá cờ phản cách mạng, đánh thẳng
vào Đảng và nhà nước, chống lại nền
chuyên chính dân chủ nhân dân. Nó là tiếng gọi tập hợp
của những phần tử phản động, kích
thích những phần tử bất măn đi vào con
đường phản nghịch. Sặc mùi thù địch,
nó là một vũ khí tuyên truyền phản động công
khai dưới chế độ ta, được mọi
thành phần phá hoại tích cực ủng hộ, truyền
bá ở các thành thị, trong các trường học, với
cái chất ngông nghênh, phá phách và trụy lạc. Nó trở
thành một thứ "món ăn tinh thần" của bọn
cao bồi và lưu manh trên các đường phố, của
một số thanh niên lạc hậu thèm khát phiêu lưu,
hưởng lạc và kích thích họ vào con đường
tội lỗi.
Trong cái
công ty phản động Nhân Văn-Giai Phẩm ấy thật
đủ mặt các "loại biệt tính": từ bọn
Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp
đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn
tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo
đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu
Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc
điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là
những phần tử thuộc giai cấp địa chủ
và tư sản phản động, và đều ngoan cố
giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ
của ḿnh, cố t́nh chống lại cách mạng và chế
độ.
Chính v́ thế
mà bọn đế quốc, nhất là Mỹ-Diệm, nhiệt
liệt ủng hộ chúng. [...]
Báo Nhân
Văn ra từ số 1, lập tức bị báo chí, nhất
là báo Nhân Dân của Đảng phản đối. Báo Nhân
Văn ra đến số 3, quần chúng và các báo càng kịch
liệt lên án. [...] Trong lúc đó đài báo của Mỹ-Diệm
ngày ngày gióng giả cổ vơ bọn phản động và
phản bội mà chúng gọi là "những nhà trí thức
văn nghệ dũng cảm", "những chiến sĩ
của tự do". Những tiếng khen của quân thù
làm cho chúng càng thêm "say mê" như Hoàng Cầm nói, trong
khi cuộc bạo động phản cách mạng đă nổ
ra ở Hungari càng như đổ dầu vào lửa.
Chúng chuẩn
bị tiến lên bước nữa.
Với sự
thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo
Nhân Văn càng chuyển mạnh sang chính trị, nghĩa là
đi đến "hành động quần chúng". [...]
Nhân khóa họp Quốc Hội thứ 6 sắp đến,
bọn phá hoại tưởng thời cơ đến cho
chúng, kêu gọi quần chúng hành động, biểu t́nh phản
cách mạng. Đó là nội dung của Nhân Văn số 6,
số cuối cùng mà công nhân nhà in Xuân Thu mặc dù bị chúng
đe doạ, mua chuộc, đă kiên quyết không in và lôi
chúng ra ánh sáng. Một bước nữa, không phải chúng
sẽ treo cổ những người cộng sản và những
người yêu nước khác, mà trái lại. Cũng là phúc
cho chúng.
[...] Báo
Nhân Văn bị cấm. Tuy vậy, Đảng và chính quyền
ta vẫn muốn kiên tŕ giáo dục cho bọn chúng trở lại
đường ngay lẽ phải, nên không dùng biện pháp
khác.
Lợi dụng
ḷng khoan hồng của Đảng, nhà nước, và của
số đông anh em văn nghệ, bọn phá hoại Nhân
Văn-Giai Phẩm lại bày mưu khác. Từ đấy,
thủ đoạn của chúng phải khôn khéo hơn,
"vơ phải kín" hơn, như Trần Dần đă bộc
lộ ở lớp học tập vừa qua.
Giấu
mặt phá hoại, lũng đoạn Hội Nhà Văn và
các cơ quan nghệ thuật, xây
“pháo đài" chống cách mạng ở trường
đại học.
Trung
ương Đảng ta triệu tập hội nghị
đảng viên văn nghệ giữa tháng 12-1956 để
thống nhất nhận thức tư tưởng trong
hàng ngũ Đảng về t́nh h́nh văn nghệ, phê phán
báo Nhân Văn, vạch phương hướng tiến tới.
Trong không khí đoàn kết tin tưởng của Quốc Hội
khoá thứ 6, giới văn nghệ phấn khởi tiến
tới Đại Hội Văn Nghệ toàn quốc lần
thứ hai. [...] Đại Hội Văn Nghệ họp,
dưới ánh sáng của bức thư Trung Ương
Đảng và bản báo cáo quan trọng của đồng
chí Trường Chinh. [...] Và Đại Hội nhất trí
lên án nghiêm khắc tính chất phá hoại của báo Nhân
Văn cùng những biểu hiện của chủ nghĩa
xét lại trong văn nghệ.[...]
Tuy vậy
bộ mặt thật của nhóm phá hoại Nhân Văn-Giai
Phẩm vẫn chưa bị lột trần. [...] Thậm
chí trong Đảng, có vài đảng viên như Văn Cao,
do chủ nghĩa cá nhân nghiêm trọng, chịu ảnh
hưởng nặng nề của tư tưởng chính
trị đối địch và đường lối
văn nghệ tư sản trụy lạc, đă câu kết
và tích cực giúp sức cho bọn phá hoại hoạt động.
[...] Sự ngây thơ về chính trị của số
đông -kể cả một số cán bộ phụ trách -
nhất là trong Hội Nhà Văn, đă đưa đến
t́nh trạng mất cảnh giác nghiêm trọng từ đó
về sau.
Nhưng
bọn phá hoại vẫn luôn luôn thức tỉnh. Học
mánh khoé của quân thù và vận dụng cả phương
pháp hoạt động của cách mạng dưới chế
độ địch, nhóm phá hoại Nhân Văn-Giai Phẩm
[...] đă rải quân vào các Hội văn học nghệ
thuật nằm trong các ban chấp hành, chui vào các bộ phận
chủ yếu.
Chúng phân
công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội
Nhà Văn; Sỹ Ngọc ở Hội Mỹ Thuật; Chu
Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu;
Tử Phác, Đặng Đ́nh Hưng ở Hội Nhạc
Sĩ... C̣n Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp
tục làm vai tṛ của kẻ tổ chức phá hoại
cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn tơ-rốt-kít
Trương Tửu, "quân sư" Trần Đức
Thảo và những kẻ khác...
Từ
đấy [...] phương pháp "sáng tác" của chúng
là phương pháp của bọn phá hoại giấu mặt
mà Trần Dần gọi là dùng "biểu tượng hai
mặt". [...] Cứ như vậy, Hội Nhà Văn và một
số cơ quan nghệ thuật dần dần bị lũng
đoạn, đi xa dần đường lối chính trị
của Đảng. Báo Văn là một cái thước
đo rất rơ t́nh trạng nguy hiểm ấy. Cơ quan
lănh đạo của Đảng - Tiểu Ban Văn Nghệ
Trung Ương- đă nhiều lần liên tiếp nhắc
nhở, phê b́nh những người phụ trách, nhưng một
số đồng chí ấy vẫn bỏ ngoài tai,
dương dương tự đắc, cho ḿnh "hiểu
văn nghệ, có kinh nghiệm nhà văn hơn Đảng".
Báo Học Tập, cơ quan lư luận của Trung
ương Đảng lên tiếng phê b́nh, đặt lại
vấn đề biểu hiện cuộc sống mới,
con người mới. Không những không tiếp thu, một
số người phụ trách báo Văn lại c̣n công nhiên
cự tuyệt phê b́nh, tuôn lời đả kích báo Đảng,
khinh miệt quần chúng.
Được
bọn Nhân Văn cổ vơ, khen ngợi, báo Văn lại cho
ra cả một loạt bài và tranh của bọn Nhân Văn
ra mặt chống Đảng, đả kích dư luận
phê b́nh, bôi đen chế độ: Hăy đi măi của Trần
Dần, Lời mẹ dặn của Phùng Quán, Một
phương pháp xây dựng nghệ thuật của Trần
Duy, Ông Năm Chuột của Phan Khôi, Đống máy của
Minh Hoàng, không kể những bài thâm độc khác.
Số
đông văn nghệ sĩ, cán bộ và quần chúng nói:
Báo Văn đă rơ nét chữ Nhân đằng trước!
Đúng
như vậy. V́ nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm đă lũng
đoạn nặng nề về tư tưởng và tổ
chức, những cơ quan xung yếu của Hội Nhà
Văn: từ báo Văn đến nhà xuất bản, từ
Ban Nghiên Cứu Sáng Tác, Ban liên lạc với nước
ngoài đến Câu Lạc Bộ, Quỹ Sáng Tác. [...] Cuộc
kiểm tra công tác Hội Nhà Văn đă phơi bày tất
cả sự thật nguy hiểm ấy. Cuộc kiểm
tra tiến hành sang các cơ quan khác, cũng có những hiện
tượng như vậy với những mức độ
khác nhau. [...]
Cho đến
khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ Chính
Trị, mở ra hai lớp học tập cho ngót 500 anh chị
em văn nghệ sĩ, qua một cuộc đấu tranh
kiên quyết th́ mặt nạ của nhóm phá hoại Nhân
Văn-Giai Phẩm mới hoàn toàn bị rơi xuống
đất. [...] Cùng một lúc, qua cuộc học tập
đấu tranh trong các trường đại học, chủ
yếu ở Khoa Văn, Khoa Sử, bọn tơ-rốt-kít
Trương Tửu, Trần Đức Thảo khoác áo giáo
sư cũng mới phơi trần chân tướng. [...]