Loạt bài kỷ niệm 65 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng (13/10/1939 - 13/10/2004)

 

* Lời Giới Thiệu:

Trong nền văn nghệ Việt Nam trải dài xưa nay, tạm nêu từ giai đoạn khởi từ đầu thế kỷ 20 tới giờ, ngoài nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng đă được giới hữu trách... và công chúng vinh danh tên tuổi, sự nghiệp từ nhiều chục năm qua, hiện có Nhà văn Vũ Trọng Phụng đang được nhà nước vinh danh trở lại. Nói tới Nhà Văn đă có công đóng góp cho văn học nước nhà những tác phẩm hiện thực giá trị: Giông Tố, Số Đỏ, Vỡ Đê, Làm Đĩ, Cơm Thầy Cơm Cô, v.v... mà nay giới hữu trách mới cho trả lại Ông Quyền Đứng Đúng Vị Trí Trên Văn Đàn Nước Nhà, th́ hẳn bạn đọc đă hiểu Nhà Văn bị "đời" ngược đăi lâu thật.

Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu liên quan tới thân thế, tư tưởng và sự nghiệp của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng mà sưu t́m "cái sự "bỏ quên" rồi lại vinh danh" ông ra sao, chúng tôi trích đăng những bài viết của nhiều nhân vật nổi tiếng xưa nay bàn về Nhà Văn.

Trong khi đăng tải lại những bài này, chúng tôi xin được kính lỗi với các đồng nghiệp Website http://evan.vnexpress.net/

 

Trân trọng

Nước Đức 15.10.2004

TX.Triệu

 

Ngô Tất Tố: Gia thế ông Vũ Trọng Phụng

Ngô Tất Tố

 

H́nh như riêng ở phương Đông, cái nghèo cũng là cái trường đúc nên văn sĩ.

Đào Tiềm, Lư Bạch, Đỗ Phủ, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, mấy tay văn thơ có tiếng ở Tầu ngày xưa đều ở “trường nghèo” mà ra. Nghèo nhất th́ là Đỗ Phủ, Đào Tiềm... Đào đă có lúc phải đi ăn xin, Đỗ đă bị một đứa con trai chết đói.

Ở ta cũng vậy. Trong hồi gần đây, ông Trần Tế Xương, “một tuồng rách rưới con như bố”, ông Nghiêm Phúc Đồng “chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi”. Ông Nguyễn Khắc Hiếu tuy có xă hội giúp đỡ, trước khi nhắm mắt, một số đồ đạc cũng bị tịch thu v́ thiếu tiền nhà.

Th́ ra trong cái non nước Đông Phương, những người giàu có, không ai lọt vào cổng làng văn. Hoặc có, cũng là một số hú họa.

Cái đó không có chi lạ. Giàu th́ cơm no, cật ấm, ruột gan lú lấp, người ta c̣n chứa học vấn, tư tưởng vào đâu?

Vậy là riêng ở phương Đông đă có đạo nhất định: Phú quư th́ không thể làm nhà văn. Đă làm nhà văn th́ đừng mong ǵ phú quư. Đạo luật đó cũng giống câu Dương Hóa nói trong Mạnh Tử: “Vi phú bất nhân, vị nhân bất phú”.

Thế cũng phải. Cái người đă có tư tưởng học vấn để làm thỏa măn tinh thần của ḿnh, nếu lại giàu về tiền tài, chẳng là chiếm hết hạnh phúc của nhân loại! Trong đạo thừa trừ của tạo vật, không thể có sự bất công như thế.

Bởi v́ chắc có luật ấy nên tôi không hề phàn nàn điều ǵ về thân thế ông Vũ Trọng Phụng.

Trong các nhân vật làng văn hiện thời, ông Phụng là người nghèo lắm. Khắc hẳn những ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông Phụng lại là thể “nghèo gia truyền”, không phải “nghèo lỏi”.

Nhưng người hiếu danh thường hay giấu giếm, gia thế, nếu như tiền nhân nhà họ không có người nào hiển đạt. Ông Phụng không có óc ấy, chính ông kể cho tôi biết tổ phụ ông chỉ làm lư trưởng, thân phụ ông chỉ là một người thường dân và đă tạ thế từ khi ông mới bảy tháng, tổ phụ ông mới ngoài sáu mươi. Ở nơi quê quán, ông không có lấy một tấc đất cắm dùi và đă lâu nay, v́ khi ông bước chân tới.

“Tư tưởng xă hội của tôi nó đă kết lại từ trong mạch máu”.

Có lần ông nói với tôi như thế.

Người khác nghe những chuyện đó, có lẽ sẽ cho là ông xấu số. Nhưng tôi, tôi nhận thấy chính là cái may của ông.

Thật vậy.

Nếu được sinh trưởng vào nhà phú quư, hay được học hành thi đỗ, có một việc làm cao lương, th́ ông cũng đến làm một cậu ấm phá của, hay một ông chủ xe hơi nhà lầu, xă hội ai c̣n biết ông là ai, tôi đâu có bạn với ông?

Nhờ về trong máu sẵn có tư tưởng xă hội, ông mới nên một nhà văn xă hội, để sản xuất cho người đời một số tác phẩm đáng khóc và đáng cười. Thế là cái nghèo gia truyền của ông có thể kể là một ḥn đá tảng trong nền văn học sử của nước nhà vậy.

Tôi biết ông mới từ hồi làm báo Công dân, cách đây độ bốn, năm năm chi đó. Hồi ấy có lẽ là hồi quẫn bách nhất trong đời ông, v́ rằng, ngoài báo Công dân ông không có chỗ làm nào khác, mà báo Công dân th́ lại chỉ là cơ quan của một bọn anh em nhà văn nghèo dúm rau, dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi, trong két được có tiền thừa mà trả cho người cầm bút.

Thế nhưng, ông cũng không tỏ ra ḿnh cần tiền. Mỗi khi ở Gia Lâm sang nhà báo, ông cứ cặm cụi cuốc bộ đi, lại cuốc bộ về, hôm nào mỏi lắm mới lấy năm xu đi xe.

Một điều quan trọng hơn nữa là đời ông luôn luôn thấy sự túng thiếu, nhưng không lúc nào ông tự đem sự túng thiếu của ḿnh mà làm phiền lụy người nào, dù khi túng thiếu cực điểm cũng vậy.

Từ bữa nghe ông tạ thế, chẳng riêng ǵ các bè bạn, phần nhiều độc giả các sách của ông đều lấy làm thương tiếc. Ngoài sự ái ngại cho cái gia đ́nh thảm đạm của ông, người ta c̣n ái ngại cho cái số mệnh ngắn ngủi của ông là khác.

Đành rằng vậy. Trong một thế giới lắm người bảy tám, chín mươi, mà ông chỉ được có hai mươi tám tuổi, kể cũng thiệt tḥi nhiều lắm.

Tuy vậy, vị tất ông đă chết non.

Đối với vũ trụ vô cùng vô tận, hai mươi tám tuổi với tám chín mươi tuổi không thể kể là ít với nhiều. V́ vậy, Trang Tử mới bảo Bành Tổ là yểu mà đứa trẻ con chết đẹn là thọ.

Thọ hay yểu, không quan hệ với với cái sống nhiều sống ít, nó quan hệ ở chỗ có ǵ để cho đời sau hay không. Xă hội chỉ thiếu những người làm nên công nghiệp, không thiếu những ông ăn nước thịt ép và bú sữa người. Ngoảnh lại mà xem, những ông bú sữa người và ăn nước thịt ép ngày xưa, đến nay c̣n có ǵ là di tích?

Ông Phụng tuy chết, mười mấy tác phẩm của ông vẫn c̣n sống với mai sau. Thế cũng là thọ.

Nhớ ông, thương ông, tôi cũng như các bạn của ông, nhưng không kể ông là người không thọ. Cái mà tôi lấy làm ân hận chỉ có một câu trả lời khi ông nằm trên giường bệnh.

Ông đau từ mấy năm trước. Trước khi chết độ sáu, bảy tháng, đă có một đêm nguy kịch. Sáng sớm hôm sau, ông cho gọi tôi lên nhà thăm bệnh và nói cho tôi biết rằng: Chiều hôm trước một viên bác sĩ chữa bệnh cho ông đă khuyên ông đi nhà thương. Trong đêm vừa rồi, ông đă làm sẵn mấy bản chúc thư. Ông bị đau phổi, vẫn sốt hâm hấp, ho ra đờm đặc. Từ mấy bữa trước, không thể gượng ngồi dậy được mà chỉ nằm được một bên sườn. Ho cũng đau, nói cũng đau, hễ hơi trở ḿnh th́ trong sườn nghe có tiếng nước óc ách.

Bấy giờ người ông tuy đă tiêu nước, nhưng, mạch hai tay vẫn c̣n có lực. Sau khi coi mạch và hỏi các chứng, tôi kê cho ông bài “nhị trần thang” hợp bài “nung thang” gia một lạng ư dĩ và dặn ông uống một ngày hai thang.

Sáng mai, tôi lại lên thăm, ông khoe với tôi bệnh đă bớt nhiều, có lẽ không chết. Từ đó ông cứ uống măi đơn ấy, tuy thỉnh thoảng cũng thay đổi ít nhiều, những đại thể vẫn không ngoài hai phương thuốc trước.

Một tháng sau, ông dậy được, đă đến thăm tôi ở báo Thời vụ. Đau ngực, đau sườn, tiếng nước óc ách, khỏi cả, chỉ có cái sốt hâm hấp không khỏi và sắc mặt ông vẫn xanh như người hết máu.

Rồi ông nói cho tôi biết trong vài bữa nữa, ông sẽ lên nghỉ Tam Đảo, để tránh cái không khí tù hăm của đất Hà Nội. Lúc ấy tôi có khuyên ông đừng đi, bởi v́ ở đó không khí ẩm thấp, không lợi cho người đau phổi. Nhưng ông không nghe.

Lên Tam Đảo được tám ngày, th́ ông phải về, v́ ho nhiều và hai ống chân bị bại. Bấy giờ ông mới chịu tôi nói đúng và lại bảo tôi kê đơn.

Nghĩ không c̣n cách ǵ hơn, tôi lại thêm bớt hai bài thuốc cũ để ông uống xen với bài “nhân sâm dưỡng vinh” bỏ quế và kỳ. Lần này không có công hiệu, uống năm thang thuốc, bệnh tuy không tăng, nhưng cũng không giảm, hai chân vẫn bại không đứng dậy được. V́ muốn trút trách nhiệm cho người khác, tôi cố khuyên ông hăy dùng thuốc tây. H́nh như ông cũng nhận thấy ư tôi, nên mới hỏi rằng:

- Bác tưởng tôi có chết không?

Câu hỏi của ông làm cho tôi buồn vô hạn, nhưng tôi vẫn b́nh tĩnh mà đáp lại rằng:

- Chết làm sao được!

Tôi nói dối ông. Thực ra, bệnh trạng của ông, c̣n ai dám chắc rằng sống! Tôi đă nhiều lần than với bè bạn rằng ông khó mà qua được đến mùa rét.

Nhưng ông tin tôi, cho nên trong hai tháng trời thôi thuốc ta uống thuốc tây, ông vẫn cho lời tôi nói có lư.

Nghe nói mấy bữa trước ngày lâm chung, ông mong tôi lắm. Không biết mong để làm ǵ, hay để trách tôi nói dối.

Nếu quả thế, tôi đành phụ ông. Nhưng v́ không muốn để ông trước khi từ giă cuộc đời, ngoài cái lo nghèo, lại thêm một cái lo chết. Cho nên tôi phải nói thế. Nói thế vị tất đă là nói dối. Bởi v́ một chồng tác phẩm của ông c̣n kia.


Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, 1939